Đăng bởi: doanthuan | Tháng Mười Hai 1, 2011

TRANG CHỦ

.

NGÔN NGŨ

______________________________ .

.

Tản mạn về chữ nghĩa
____________________________
Viên Linh
Người Việt .May 23, 2017

1. Ðã lâu lắm không nghe thấy hay không trông thấy một tác phẩm thơ văn nào gây sôi nổi trong dư luận, không hiểu vì sao? Chỉ biết trước hết là không nghe không thấy.

Tại vì các tác giả (nhà văn, nhà thơ, nhà biên khảo…) không một ai còn in sách nữa? Hay họ vẫn viết mà không in thành sách, không in ra giấy, mà viết rồi đem lên trời? Lên mạng lưới không gian?

Trong cuộc sống ở đâu người viết bài này không biết, song ở nơi đây, ở Little Saigon “thủ đô văn nghệ tị nạn” như khoảng mươi mười năm, hay hai ba mươi năm trước báo chí nói đến, không hề thấy một sinh hoạt văn chương tập thể nào tạo được một tiếng vang.

Nhưng có phải lỗi ở các nhà văn nhà thơ, các tác giả, hay nguyên do là ở những chỗ khác? Ở các ông chủ bút, không có một ông chủ bút lớn nào làm chủ được ngọn bút của mình, biết nghề của mình, và do đó, không có một tờ báo nào làm được cái vai trò ta thường nghe nói: “hướng dẫn dư luận?” Hay lỗi ở các tờ báo, nơi phản ảnh dư luận: không có cơ quan ngôn luận nào gây được một dư luận trong sinh hoạt văn hóa (xin miễn nói đến sinh hoạt của các ngành khác)?

Từ lâu lắm người viết bài này từng biết chỉ khi nào có một giải thưởng văn chương, hay một đối tác xứng đáng (như từ đối tượng hay môi trường), thì mới có thi đua, xúc động, sáng tác. Mà cả chục năm nay không có một giải văn chương nào!

Còn nhớ thời 20 năm ở miền Nam Việt Nam, năm nào cũng cứ đến khoảng cuối năm là trong quán xá văn nghệ người ta gặp nhau, đề tài được bàn tán là các giải thưởng văn nghệ. Như các câu hỏi năm nay ai sẽ được giải Thanh Tâm? Ai có hy vọng lãnh 400 ngàn giải Văn Chương Toàn Quốc?…

Nhưng trước hết, sinh hoạt văn học nghệ thuật Việt Nam ở hải ngoại còn không, hay đã chết rồi? Ở hải ngoại bây giờ còn các độc giả Việt Ngữ không? Hay các độc giả Việt Ngữ đã lãng đãng cả rồi? Câu hỏi liên hệ là còn tờ báo Việt Ngữ nào hướng dẫn được dư luận không, hay làm gì còn dư luận nữa mà hướng dẫn?

Liên hệ hồi xưa giữa người viết-người đọc gắn bó là thế, báo nào cũng có “hộp thư tòa soạn,” nay đọc báo không hề thấy hộp thư tòa soạn đâu, thế là vì sao, tại sao? (Câu hỏi có nghĩa là độc giả không phản ứng trước tác phẩm hay độc giả có phản ứng mà báo chí không tường thuật, hay không biết đến…)

Ðoạn trên nói đến các nhà văn, các chủ bút, là con người, song nếu lỗi không ở con người, thì vì sao có sự trầm đọng ấy? Vì độc giả, độc giả cũng là con người, vậy con người độc giả vẫn còn, nhưng họ không đọc báo giấy nữa, mà đọc báo không gian.

Ðó có phải là nguyên do khiến cho sinh hoạt người viết-người đọc không còn nữa, vì người đọc báo mạng và người viết báo mạng không có cái gắn bó đầm ấm như thuở xa xưa nữa? Ðiều này hình như có thể là một trong những nguyên do: sự tha hóa bao la và mênh mông, không còn gắn bó gì nữa.

Và trước hết: quên chữ tị nạn đi. Bốn mươi năm rồi sau 30 Tháng Tư, 1975, tị nạn không còn ý nghĩa gì nữa. Người đọc, người viết bây giờ nếu còn một liên hệ nào, thì đó là ở nội dung nội tại của các bài viết và ngoại cảnh của cộng đồng của người đọc: Người viết bây giờ và người đọc bây giờ ở những chân trời xa lạ cách biệt. Một thời kỳ đã qua. Nhiều giai đoạn đã chấm dứt.

“Ta là ai giữa mùa thay đổi ấy?” (thơ Thế Lữ). Vậy vấn đề đặt ra là phải tìm câu trả lời để tìm lối giải quyết. Ai tìm?

– Chính các tác giả phải tìm câu trả lời? Tại tác phẩm của mình? Tại độc giả không có?

– Các nhà xuất bản phải tìm câu trả lời? Trước hết, nhà xuất bản là những ông bà nào, nghề xuất bản có thích hợp tương xứng không? Người in sách có nhằm đúng đối tượng độc giả là người đọc không?

– Vấn đề sản xuất và vấn đề phát hành. Ai sản xuất? Ai phát hành?

  1. Tần Thủy Hoàng đã có lý khi nghe theo ý kiến của thừa tướng Lý Tư ra lệnh nổi lửa đốt sách.

“Tần Thủy Hoàng (n.d.) là con của Trang Tương Vương nước Tần. Trang Tương Vương làm con tin của Tần ở nước Triệu, lấy người thiếp của Lã Bất Vi (lúc bấy giờ đã mang thai). Sau người thiếp này sinh ra Thủy Hoàng ở Hàm Ðan, đặt tên là Chính họ Triệu. Vậy thật ra Thủy Hoàng là con của Lã Bất Vi. Trang Tương Vương mất, ông được lập làm Tần Vương, lúc đó mới 13 tuổi (247 Trước Công Nguyên). Lã Bất Vi được làm thừa tướng.

Thủy Hoàng là người có hùng tài, thôn tính sáu nước, thống nhất thiên hạ, phía Bắc đuổi Hung Nô ra khỏi nước, phía Nam thâu Mân, Việt, tứ phương quy phục, cương thổ mở rộng. Phế bỏ chế độ phong kiến, lập ra quận huyện, xây trường thành, thống nhất đo lường, pháp luật, chữ viết, các trục xe đều dài bằng nhau (trước kia xe trận trục dài ngắn khác nhau, và mỗi nước làm đường vừa đủ cho xe của mình chạy, xe nước khác trục dài hơn, không dùng được).

Theo đề nghị của Lý Tư cho đốt tất cả sách sử, trừ sách sử của nhà Tần. Ai cất giấu “Kinh Thư, Kinh Thi” hoặc sách của Bách-Giả chư tử thì phải đem nộp cho các quan địa phương để được đốt đi (phần thư). Ai trái lệnh, hoặc dám bàn với nhau về “Kinh Thư, Kinh Thi” hoặc các sách đạo Nho, thì bị đem ra chém giữa chợ.

Lệnh ban ra, trong 30 ngày mà chưa thi hành, thì viên quan chịu trách nhiệm bị khắc vào mặt, cho đi xây cất Trường Thành. Riêng các sách thuốc, bói, trồng cây thì được giữ lại. Tự cho mình có công bao trùm cả Tam Hoàng, đức thì vượt cả Ngũ Ðế, vì vậy tự xưng là Hoàng Ðế. Bỏ thụy danh, cho mình là Thủy Hoàng Ðế, các đời sau cứ theo số mà tính: Nhị Thế, Tam Thế…

Không những đốt sách Nho, ông còn cho lệnh chôn sống các nho sĩ nào tỏ ý chống đối. Sợ thiên hạ làm phản, ông ra lệnh cho các nước phải nộp binh khí tại Hàm Dương rồi đúc thành chuông. Phái bọn Từ Phúc đi tìm thuốc trường sinh, tốn công quỹ rất nhiều mà chẳng được kết quả gì là lẽ dĩ nhiên. Trong một cuộc tuần tra, ông mắc bệnh và tạ thế ở Sa Khâu, ở ngôi vị được 37 năm.

“Thai nghén trong khi ở nước người
Nhờ tay họ Lã khéo tìm moi.
Ðem vàng muôn lạng buôn vua chúa
Vận óc đa mưu chuyển thế thời
Sáu nước gồm thâu chung một mối
Ngôi vua chiếm đoạt, chép muôn đời
Ngăn hổ, chôn sĩ lưu truyền mãi
Nhưng diệt Tần xong, ai đoạt ngôi?

Thái Cuồng” (Từ điển BS Hoàng Xuân Chỉnh)

  1. Trên đây là hai đoạn ghi chép nhằm bày tỏ cùng bạn đọc về một thời khắc bất định trước trang giấy trắng. Không phải lúc nào ngồi trước bàn viết người ta cũng viết ra được những điều ưng ý. Mà cho dù văn hay chữ tốt đến đâu, chữ nghĩa cũng có định mệnh của nó, nhất là trong một cuộc hỏa thiêu từ một tâm trí cực đoan, hay dẫu từ một ngọn lửa vô tình.

VIÊN LINH

.
Hội thảo văn học

__________________________
Viên Linh

Trong Tháng Bảy tới đây sẽ có cuộc thảo luận về báo Phong Hóa và nhóm Tự Lực Văn Ðoàn tại trụ sở báo Người Việt. Tin tức ấy khiến người viết bài này nhớ tới những cuộc thảo luận trong quá khứ về văn chương, tiểu thuyết, mà phần trích dẫn dưới đây chỉ nhằm gợi ý bạn đọc về một sinh hoạt, trong các hình thức sinh hoạt cần có, để gợi ý và thúc đẩy những người cầm bút về hiện trạng văn nghệ trong cuộc sống. Thảo luận về báo chí văn nghệ tại miền Nam trước 75 là chuyện xảy ra hàng tuần, thảo luận về báo chí văn nghệ tại quốc nội hiện nay hình như không hề thấy (hình như một nước có 90 triệu dân mà tuần báo Văn Nghệ duy nhất ở Hà Nội mới đây đã phải đóng cửa, vì không ai đọc). Còn ở hải ngoại, mong rằng tình trạng chưa thực sự bi đát…

Cuộc nói chuyện giữa Vũ Khắc Khoan, Trần Thanh Hiệp, Sơn Nam, Nguyễn Mạnh Côn, Tạ Tỵ, Viên Linh, Thanh Nam, Mai Thảo, Bình Nguyên Lộc diễn ra tại tòa soạn tuần báo Nghệ Thuật, tháng 11, 1965. Các phát biểu sau đây trích dẫn nguyên văn từng đoạn, không thể đăng hết hoàn toàn trong một kỳ báo. Hai người điều khiển cuộc thảo luận là Mai Thảo, chủ bút, và Viên Linh, thư ký tòa soạn của tờ báo.

Mai Thảo: Ðặt vấn đề thực trạng tiểu thuyết Việt Nam lên mặt thảm, chủ ý của Nghệ Thuật là đề cập đến một thực tế văn học, mà tầm quan trọng hàng đầu đích thực đang đòi hỏi những theo dõi và tìm hiểu thường xuyên, phía người viết cũng như phía người đọc tiểu thuyết. Cũng cần lưu ý: tinh thần cuộc nói chuyện khác biệt với tinh thần một cuộc tranh luận. Có thể cuộc nói chuyện không đưa tới một kết luận nào. Nhưng vấn đề đã được đặt ra. Và nhiều ý kiến họp lại bao giờ cũng có hiệu lực của một chiếu sáng khởi đầu và cần thiết. Nói đến tiểu thuyết Việt Nam hiện nay, không phải là xác nhận một trở thành đã hoàn tất, mà là theo dõi những chặng đường của một vận động đang tuần tự hình thành. Mặc dầu còn một vài hiện tượng “nối dài” yếu hụt và lạc lõng, tiểu thuyết hiện nay đã được đặt ra khỏi vùng ảnh hưởng của tiểu thuyết tiền chiến.

Viên Linh: Tôi chia tiểu thuyết Việt Nam hiện tại ra làm những loại sau đây: – Loại hữu sự: Tiểu thuyết loại hữu sự kể một câu chuyện nào đó mà câu chuyện ấy là chính. Tác giả nó lấy câu chuyện ấy để ngầy ngà người đọc qua mọi chi tiết. Nói một cách khác, nhân vật của loại hữu sự lúc nào cũng bận rộn với đạo lý làm người (đã được xác định) và lương tâm của hắn: tâm lý ấy thông suốt cả cuốn truyện. – Loại thời sự: Gọi là thác loạn, gọi là tuổi hai mươi, khai thác những cái- buồn-nói-lên-lời của những độc giả thô thiển. – Loại tâm sự: Câu chuyện không còn là chính nữa mà cảm xúc là chính. Thứ tâm sự ở đây có cái ướt át trữ tình, có các nhân vật phong nhã. Loại này đi song song với thơ tiền chiến, hiện đang còn kéo dài. – Loại vô sự: Vô sự ở đây không có nghĩa là không có chuyện gì mà là có rất nhiều chuyện trong một tác phẩm, rất nhiều nhân vật, rất nhiều mặt được nói đến.

Tạ Tỵ: Chúng ta, người viết, không thể loại bỏ cuộc sống vì cuộc sống tạo thành mâu thuẫn. Mâu thuẫn khích động nghệ thuật và hình thành những trào lưu nghệ thuật mới. Nhưng chúng ta đừng quên chính cuộc sống đã giết những trào lưu đó một khi không còn thỏa mãn được đòi hỏi cấp bách của tâm hồn con người. Bởi vậy một trào lưu nghệ thuật sống được là nhờ sức sáng tạo dồi dào và thành đạt của nó. Nó phải cố gắng dù rằng cố gắng với nỗi bi thảm dằng dặc. Nó là hiện thân của nghệ thuật.

Nguyễn Mạnh Côn: Vấn đề tiểu thuyết là một vấn đề lớn. Lớn như đời sống của một dân tộc, vì – đáng lẽ phải thế – tiểu thuyết thể hiện đời sống của dân tộc. Cuốn tiểu thuyết nào làm được như vậy sẽ được gọi là “tác phẩm lớn” của thời đại – của một thời đại. Nhưng ở Việt Nam chưa có tác phẩm nào lớn, tại sao?

Ðiều tôi sợ là chúng sẽ làm cho người nghệ sĩ rời xa cuộc sống thật, để xác nhận cuộc sống “giả vờ” là cuộc sống thật. Một ngày sau trận đánh lớn, đứng ngắm hàng trăm xác chết của đồng bào – toàn là thanh niên – có ai nỡ bảo họ giả vờ chiến đấu, và đang giả vờ chết? Tôi nghĩ rằng J.P. Sartre có trẻ lại và được tham dự cuộc sống trên đất nước ta, từ ngoại ô Sài Gòn trở ra, nhà văn này sẽ phải xác nhận rằng quả có một cuộc đấu tranh đích thực với những giá trị xác thịt và tâm tư đích thực.

Vũ Khắc Khoan: Viết tiểu thuyết hôm nay theo tôi chỉ là một phương tiện thiếu thốn khả năng để con người bất lực tự thực hiện. Người viết tiểu thuyết giờ đây cô đơn và ích kỷ. Nó không kêu lên, như Nguyễn Du: Bất tri tam bách dư niên hậu / Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như. Nó viết cho nó.

Thanh Nam: Những năm trước, khi ngồi vào bàn viết, cầm đến bút là tôi nghĩ ngay đến độc giả. Truyện này tôi sẽ viết cho ai? Lớp độc giả nào đó sẽ đọc tôi? Và tôi hình dung thấy họ. Cốt truyện do đó không còn là của tôi nữa.

Tôi sống, tôi nghĩ, tôi hành động theo những nhân vật của tôi. Như một số feuilletons tôi đã viết và đã in thành sách trong thời gian gần đây, tôi đã đóng vai một người kể chuyện cho một số người nghe hơn là một nhà văn viết một tác phẩm cho chính mình. Nói thẳng ra, tôi viết để sống. Tôi không chối cãi là ở những cuốn truyện đó có nhiều non kém, còn nhiều cẩu thả. Tôi cũng không ân hận gì về những điều đó. Tôi phản đối thái độ phủi tay trách nhiệm để ngụy trang cho mình một khuôn mặt trí thức, tiến bộ.

Sơn Nam: (Tác giả Hương Rừng Cà Mau cười nói đồng ý, đồng ý nhưng không nói rõ đồng ý ở điểm nào)

Bình Nguyên Lộc: Theo tôi, những độc giả không có khuynh hướng xã hội cũng đang chờ đợi những cái gì mới lạ hơn, cái đó không phải là sự siêu hình (ở đây nên dùng danh từ trừu tượng thì đúng hơn) của những tiểu thuyết gọi là tiểu thuyết mới. Họ chỉ cần một sự mới xoàng xoàng của quan niệm thứ nhì về tiểu thuyết mà thôi. Xin nói rõ thêm rằng độc giả đây là đại- đa-số trung lưu, chớ không phải bình dân đại chúng, mà cũng không phải một thiểu số trí thức.

Trần Thanh Hiệp: Trong số các tác phẩm ngoại ngữ được nhiều người đọc nhất hiện nay ở đây có những tác phẩm của trường phái “Tiểu Thuyết Mới” (Nouveau Roman) mà đại diện là Alain Robbe-Grillet và Nathalie Sarraute. Cái mới dễ nhận nhất trong tác phẩm của họ là một bút pháp đặc biệt được mệnh danh là “chủ nghĩa khách quan.”

Rồi đây bút pháp ấy có thể sẽ được sử dụng tại Việt Nam trong những tác phẩm sắp thành hình. Didier Anzieu trong tạp chí “Les Temps Modernes” số 233 tháng 10, 1965 có viết rằng tiểu thuyết của A. Robbe Grillet giống như những cảnh trống rỗng trong đó diễn ra những biến cố vô nghĩa và rải rác dăm ba đồ vật vô ích, không có ý nghĩa gì đối với con người. Người đọc chán ngán và mệt mỏi.

Vũ Khắc Khoan: Thiên nhiên quằn quại, con người méo mó trên họa phẩm. Nhạc điệu hoặc hiện nguyên hình, thuần chất là nhịp ngày một điển bái của trống da đen, hoặc mất hút trong những vần thơ bất đắc dĩ tự mệnh danh là Thơ Tự Do. Kèn trompette Amstrong bỏ bạn đồng hành yên phận, nổi loạn đào ngũ, rít lên từng cơn tuyệt vọng. Và tiểu thuyết dĩ nhiên cũng vậy, Ðừng hỏi tại sao. Không có tại sao gì cả, khi những người con gái Sagan lại đắm mình trong lời nhạc Prévert, lại không biết ngon mà vẫn uống từng hơi Vat 69, không có tại sao gì cả khi họ yêu (?) một cách rất bực mình.

Tôi nghĩ rằng tôi cảm thông với tiểu thuyết hôm nay. Có thể tôi hiểu sai. Nhưng tôi không thích tiểu thuyết hôm nay.

VIÊN LINH

.

.

AI THỰC SỰ TÌM RA CHỮ QUỐC NGỮ


Đã đóng lại bài viết về hai cụ Hàn Thuyên và Alexandre De Rhodes mà trong lòng cứ mãi lấn cấn vì vẫn chưa làm rõ được chữ Quốc ngữ ra đời ở đâu, năm nào và còn những ai thực sự đã có công với chữ Quốc ngữ?

Đính chính: Hình chụp ở trên, bên trái là mẫu tự Hy Lạp, bên phải là mẫu tự La Tinh

Điều đó làm tôi tịt mạch mấy tháng nay không viết thêm được bài nào nữa.Để thoát khỏi tình trạng bế tắc đó, đành bỏ thời gian lục tìm tứ tung để thoả mãn cái tật gàn dở của mình. Và đây là điều tôi tìm ra,Chữ Quốc ngữ ra đời năm 1622 trong thời Trịnh-Nguyễn phân tranh, do công của người giáo sĩ Bồ Đào Nha Francisco De Pina (1585-1625), tại xứ Đàng Trong của chúa Nguyễn. Francisci De Pina là giáo sĩ tiên phong đến Đàng Trong năm 1617, nhờ thông thạo tiếng Nhật và chữ Hán, ông dễ dàng học nói tiếng Việt, học đọc chữ Nôm, nhưng thấy các giáo sĩ khác gặp khó khăn trong việc học chữ Nôm nên đã dựa vào bảng mẫu tự La Tinh, ông Nguyễn Đình Đảng thời cho rằng là dựa vào từ mẫu tự Rô-Măng, tôi thiển nghĩ mẫu tự Roman cũng từ nguồn gốc Latin mà ra, để ghi âm tiếng bản xứ. Năm 1624, sau khi đã xếp đặt thành hệ thống, có cả phần tóm lược về văn phạm, ông mở lớp dạy tiếng Việt cho các giáo sĩ muốn đến truyền giáo tại Việt nam, ông cũng tự viết bài giảng bằng thứ chữ này để trực tiếp truyền đạo, nhưng không may, tháng 12 năm 1625 ông bị chết đuối ở cảng Đà nẵng. Sau cái chết của Pina những giáo sĩ đã học tiếng Việt với Pina tiếp tục hoàn chỉnh hệ thống chữ viết nầy là giáo sĩ Gaspar De Amaral (1549-1646) – tác giả tự điển Việt-Bồ, giáo sĩ Antonio Barbosa (1594-1647) – tác giả tự điển Bồ-Việt, giáo sĩ Alexandre De Rhodes (1591-1660) – tác giả tự điển Việt-Bồ-La tinh. Trong đó chỉ có một mình A.D.Rhodes là người Pháp (ông sinh ở vùng Avignon) Đúng như TS. Nguyễn Tường Bách đã nhận định:

“Mục đích ban đầu của chữ quốc ngữ là để cho các nhà truyền giáo nói được tiếng Việt và giao tiếp với cộng đồng tôn giáo của mình bằng chữ viết. Về sau, khi các nhà cai trị người Pháp đến Việt Nam, họ cũng không kham nổi chữ Hán lẫn chữ Nôm. Giải pháp thuận tiện của người Pháp là buộc mọi người Việt Nam phải sử dụng chữ quốc ngữ và có lẽ đó cũng là lý do tại sao vai trò của Alexandre de Rhodes được nêu bật.”

Vì là sản phẩm của bọn Tây di, nên chữ quốc ngữ bị giới sĩ phu tẩy chay. Chữ nôm còn bị chê là nôm na mách qué, thời cái thứ chữ do bon Bạch quỉ chế ra này các cụ có mà thèm để mắt! Sau đó nó còn là công cụ của thực dân Pháp trong việc cai trị. Lại vì nó mà cả một nền Nho học với bao công lao dùi mài kinh sử trở thành vô dụng nên thứ chữ này càng bị khinh ghét. Nhưng sự tiện dụng và sức sống mãnh liệt của chữ quốc ngữ càng ngày càng lộ rõ, càng thắng thế.

Năm 1915 vua Duy Tân bãi bỏ chế độ thi cử cũ ở Bắc kỳ.

Năm 1918 vua Khải Định bãi bỏ thi cử cũ ở Trung kỳ.

Năm 1919 vua Khải Định chính thức đóng cửa các trường dạy chữ Nho.

Ngày 18-9-1924 Merlin, Toàn quyền Đông dương ký nghị định đưa chữ quốc ngữ vào dạy trong 3 năm đầu bậc Tiểu học.

Nền Nho học cáo chung, chữ Quốc ngữ lên ngôi.

Nào có gì lạ cái chữ nho

Ông nghè, ông cống cũng nằm co

Sao bằng đi học làm ông Phán.

Tối rượu sâm banh, sáng sữa bò

(Chữ Nho) – Tú Xương

Người Bồ Đào Nha khai sinh ra chữ Quốc ngữ, người Pháp ép dân ta dùng chữ Quốc ngữ.

cho chữ Quốc ngữ được như ngay hôm nay công lớn nhất phải thuộc về những người tiên phong tiêu biểu như: Huỳnh Tịnh Của, Trương Vĩnh Ký, Nguyễn Văn Vĩnh… cùng với họ một đội ngũ tân học ngày càng đông, nhiều tài năng, đầy nhiệt huyết và dũng cảm. Những người con ưu tú đó đã được nhớ ơn, được tôn vinh bằng những tên đường trong đô thị. Vậy mà trong những người đi đầu ấy, có một người hình như bị bỏ quên. Một người có tư cách sáng chói, có trí thông minh và chí tự học siêu việt, từ thân phận một thằng nhỏ 8 tuổi chưa biết chữ kéo quạt tại trường Thông ngôn Yên phụ-Hà nội, năm 14 tuổi đã đỗ thủ khoa lớp thông ngôn của chính trường này, là người Việt đầu tiên được gia nhập Hội Nhân quyền Pháp, người đầu tiên xuất bản tờ báo bằng chữ quốc ngữ ờ Hà nội, tờ Đại nam Đăng cổ tùng báo, người đầu tiên dịch các tác phẩm văn học Pháp sang tiếng Việt, người đầu tiên dịch truyện Kiều sang tiếng Pháp, người đứng đơn xin mở trường Đông kinh nghĩa thục (Cụ Lương Văn Can làm hiệu trưởng), người chống quân chủ lập hiến kiểu bù nhìn đòi thành lập nền Cộng hoà, người mà trong lời tựa bản dịch Tam quốc chí đã viết “Nước Nam ta mai sau này hay, dở cũng là ở chữ quốc ngữ”, người 2 lần từ chối Bắc đẩu bội tinh của chính phủ Pháp, người mà lúc chết trên thuyền độc mộc ở sông Sê-băng-hiêng, Sê-pôn – Lào, hai tay vẫn cầm cây bút và quyển sổ với phóng sự đang viết dở dang “Một tháng với những người tìm vàng”. Người tự cho mình là người man di hiện đại. Một người mà người Pháp đánh giá là thiếu tính tự ti của dân nhược tiểu. Người đó là Tân Nam Tử Nguyễn Văn Vĩnh. Một người xuất chúng và có công lớn với nền văn hoá hiện đại của nước nhà như thế mà mãi tới năm 1999 tên người mới được đặt cho một con đường ở phường 4 quận Tân Bình. Còn tại Hà nội quê ông thời vẫn chưa có con đường nào mang tên ông… Sài gòn 12-5-2013

 Đỗ Xuân Đàm  

 

.

.

Từ chữ Nôm tới chữ Quốc ngữ 

Hoàng Yên Lưu

Hàng ngàn năm chúng ta phải dùng Hán tự coi như văn tự nước nhà. Từ ấu thơ người xưa đã phải học Tam thiên tự, Tam tự kinh, Ấu học ngũ ngôn thi… và ở tuổi trưởng thành thì phải “Tứ thư thục, Ngũ kinh thông” (thuộc Tứ thư và thông Ngũ kinh). Không nên quên Tứ thư gồm Luận ngữ, Mạnh tử, Đại học, Trung dungNgũ kinh gồm Thi, Thư, Lễ, Dịch và Xuân thu, là sách gối đầu giường của kẻ sĩ muốn thực hiện giấc mơ công hầu khanh tướng. Vì thế, chữ Hán và văn hóa nòi Hán có giai đoạn đã xâm nhập khá sâu vào sinh hoạt của kẻ sĩ bị trị.

 

Thời kỳ độc lập mở ra một hy vọng mới, một chân trời mới, từ thế kỷ XIII tổ tiên chúng ta đã điển chế ra Chữ Nôm, và nền Văn học Chữ Nôm của chúng ta phát triển dần từ Hàn Thuyên, Nguyễn Sĩ Cố đời Trần tới đỉnh cao là Hồ Xuân Hương, Nguyễn Du đời Lê mạt-Nguyễn sơ.

Tuy nhiên, Chữ Nôm vẫn không có cơ hội chính thức thay chữ Hán vì phần lớn các triều đại còn quá bảo thủ, mang nặng ảnh hưởng văn hóa phương Bắc, đã coi chữ Hán như phương tiện chính thống để truyền thông từ việc cai trị tới việc ghi chép lịch sử, địa dư… và ngâm vịnh. Kẻ sĩ ngày xưa quen với chương trình học hành thi cử “thi thiên, phú bách, văn sách năm mươi”, nghĩa là “học cho thuộc một ngàn bài thơ, một trăm bài phú Hán và trăm bài văn sách mẫu” và tụng cho kỹ Bắc sử, là có thể lều chõng tới trường thi nên văn chương họ sáng tác phần nhiều là khuôn sáo, thù ứng từ nghệ thuật tới ý tứ.

Thời kỳ duy tân, văn minh Âu Tây tràn vào Đông Á, kẻ sĩ có cơ hội giũ bỏ xiềng xích cũ.

Tầng lớp trí thức tiến bộ ở Trung hoa như Lương Khải Siêu, Khang Hữu Vi, Nghiêm Phục… hô hào duy tân chế độ chính trị, tiếp đó là Hồ Thích, Trần Độc Tú…, song song với phong trào Ngũ tứ vận động (04-05-1917), trong những tờ báo tiến bộ như Tân thanh niên, phản đối chính quyền hủ bại, đề xướng cải cách văn học, bãi bỏ cổ văn, nâng cao thể bạch thoại.

Riêng đất nước ta, trào lưu duy tân tới rất sớm, cực kỳ sôi động và lần đầu tiên đã có nho sĩ như Phan Chu Trinh mạnh dạn đả kích ý thức hệ phong kiến và mang tư tưởng dân chủ gieo rắc nơi đồng bào cả nước.

Tuy nhiên, kẻ sĩ cuối thế kỷ XIX ở ta chợt nhận ra thiếu phương tiện truyền thông và truyền cảm và phổ biến tư tưởng mới nghĩa là thiếu một hệ thống văn tự hữu hiệu.

Dùng chữ Hán, thứ chữ vay mượn, để ghi chép và sáng tác khó lòng diễn đạt được tình ý của mình. Sự truyền thông đã khó và cũng khó tạo ra những tác phẩm siêu việt. Đây là một sự thực mà chúng ta không cần tìm lời bào chữa.

Cứ nhìn thực tế, những tác phẩm sáng tác bằng chữ Hán của Nho gia lịch triều Lý, Trần, Lê có tới hàng chục ngàn bài thơ nhưng chỉ có vài trăm bài được lưu truyền ghi lại trong Hoàng việt thi tuyển. Nhắc tới thi ca sáng tác bằng chữ Hán có giá trị của người Việt, ngoài Nguyễn Trãi đời Lê, Đặng Trần Côn thời Lê mạt… chỉ còn có thơ của Nguyễn Du, Cao Bá Quát và Nguyễn Khuyến… đời Nguyễn là được đời truyền tụng. Phần còn lại vì sao mai một hoặc nằm mãi trong thư viện khảo cổ?

Phan Khôi (1887-1959), một cây viết gốc Nho nhưng thuộc tầng lớp kẻ sĩ tiến bộ đầu thế kỷ XX đã tiết lộ lời chỉ trích của một tác giả Trung hoa về phong cách ưa múa bút đề thơ bằng chữ Hán của đa số Nho gia ta đời trước. Cho dù lời chỉ trích có vẻ kênh kiệu và nhìn chung là sai lầm nhưng cũng đủ để ta suy nghĩ khi chúng ta thiếu một văn tự dành cho nòi giống Tiên Rồng nên phải học nhờ, viết mướn ngôn ngữ nước người.

Phan Khôi kể lại, sách Dinh hoàn chí lược của Tàu trong chỗ nói về sĩ phu Việt Nam thời xưa ưa làm thơ chữ Hán đã nhận xét rằng: “Sĩ phu họ tính ưa làm thơ nhưng có kẻ làm không nên câu mà cũng thích làm”.

Cuối thế kỷ XIX sang đầu thế kỷ XX, ở ta giỏi chữ Hán mấy ai bằng chí sĩ Phan Bội Châu (1867-1940). Cụ Phan không những từng là thủ khoa kỳ thi hương (1901) mà còn là một nhà văn lớn của dân tộc. Thế mà Phan Bội Châu khi ở Nhật viết Việt Nam vong quốc sử có nhờ Lương Khải Siêu (1873-1929) viết lời giới thiệu thì họ Lương tuy ngợi khen tấm lòng của cụ Phan với dân, với nước nhưng có nói một câu tựa hồ phân bua với độc giả Tàu rằng, “trong sách nếu có chỗ không được nhã thuần, ấy là vì muốn để y cho còn cái chân tích của tác giả nên không hề sửa chữa một chữ nào”.

Lương Khải Siêu chê Phan Bội Châu viết văn chữ Hán chưa chuẩn (kém nhã thuẩn). Điều này chẳng có gì làm giảm giá trị của Việt Nam vong quốc sử và ngòi bút của tác giả vì cụ Phan là người Việt dĩ nhiên viết văn Tàu khó có thể đạt tới tiêu chuẩn chân-thiện-mỹ như thầy trò Khang Lương (Lương là học trò của Khang Hữu Vy).

Phan Khôi giải thích: “Tội không tại người mà cũng không tại chữ. Tội tại người nước này mà dùng chữ nước kia”. Từ thực tế này Phan Khôi cho rằng: “Một thứ chữ ngoại quốc nào cũng chỉ hành dụng bởi nhu cầu của thời đại mà thôi, còn muốn lập nên văn học thì ắt phải là văn tự bản quốc mới được. Vậy chúng ta nên đồng thanh kêu: hỡi người Việt Nam trở về với quốc văn!

Làm sao trở về với quốc văn?

Trước đây, kẻ sĩ ưu thời mẫn thế nhận rõ Chữ Nôm rất khẩn thiết đối với vận mệnh dân tộc nhưng thứ văn tự này chưa đủ làm võ khí sắc bén về văn hóa cho một nòi giống hùng cường và quật cường dưới trời Đông Á như chúng ta.

Thực vậy, Chữ Nôm cho dù là tài sản, một công trình tim óc của tiền nhân để lại, nhưng nó lại là một thứ chữ khó học, khó viết nên khó có thể đại-chúng-hóa. Trong thực tế kẻ giỏi chữ Hán mới dùng được chữ Nôm.

Chúng ta thử lấy câu đầu trong Truyện Kiều ghi bằng chữ nôm để xem cách cấu tạo của thứ chữ Việt ngày xưa tiền nhân ta đã dùng: “Trăm năm trong cõi người ta.”

Khi chưa có chữ Quốc ngữ như ngày nay, muốn ghi chữ “trăm”, Nguyễn Du đã ghép hai chữ Hán là chữ “bách” (chỉ nghĩa: một trăm) và chữ “lâm” (nghĩa là rừng, nhưng ở đây dùng chỉ cách đọc vì “lâm” có âm tương tự như “ăm”). Kế đền chữ “năm” thì ghi làm sao? Cần hiểu rõ “năm” muốn chỉ số hạng hay năm muốn chỉ “mười hai tháng”. Nếu “năm” chỉ số hạng thì ghép hai chữ, chữ “ngũ” chỉ nghĩa, chữ “nam” chỉ âm. Còn “năm” chỉ thời gian thì ghép hai chữ Hán, chữ “niên” (chỉ năm tháng) và chữ “nam” (chỉ âm). Tương tự chữ “trong” thì ghép hai chữ Hán (long chỉ âm) và trung (chỉ nghĩa); chữ “cõi” (ghép chữ “thổ” chỉ nghĩa với chữ “quý” ghi âm ); và chữ “người” thì dùng chữ “ngại” ghi âm ghép với chữ “nhân” ghi nghĩa. Còn riêng chữ “ta” thì dùng ngay chữ Hán để ghi vì đọc cùng âm với “ta” của Việt. Cách cấu tạo xem ra phức tạp và chưa theo quy tắc nhất định (vì chưa được phổ biến và cải thiện) nên đọc văn bản Nôm nhiều khi phải đoán xem cổ nhân đã muốn ghi âm gì trong tiếng Việt.

Đang lúc cần canh tân gấp, lại gặp bế tắc về văn tự là nỗi đau đầu của kẻ sĩ tâm huyết cuối thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX ở nước ta.

Cơ hội đã tới. Tiếp xúc với Tây phương chúng ta đã có một thứ văn tự mới và các nhà văn hóa sáng suốt của ta đã vội vàng mượn lấy nó để làm thứ chữ của cả nước và đặt tên nó là Chữ Quốc ngữ.

Tại sao lại gọi là Chữ Quốc ngữ?

Giáo sư Dương Quảng Hàm (1898-1946) giảng rằng:

Chữ quốc ngữ là một thứ chữ dùng tự mẫu (chữ cái) La mã để phiên âm tiếng ta. Quốc ngữ nghĩa đen là tiếng nói của nước: vậy cái từ ngữ ấy dùng để gọi thứ chữ mới đặt ra đây, kể thì không đúng, vì đó là một thứ chữ chứ không phải là một tiếng; nhưng từ ngữ ấy đã dùng quen rồi không thể đổi được nữa.”

Chữ Quốc ngữ hình thành từ bao giờ?

Học giả Phạm Quỳnh (1892-1945) trong loạt bài khảo về chữ Quốc ngữ đăng trên Nam Phong tạp chí đã viết:

Chữ quốc ngữ là do các cố đạo Tây sang giảng đạo bên nước Nam đặt ra vào đầu thế kỷ thứ 17, các cố đó, người Bồ đào nha có, người Ý đại lợi có, người Pháp có, chắc là cùng nhau nghĩ đặt, châm chước sửa sang trong lâu năm, chứ không phải do một người nào làm ra một mình vậy, duy đến khi in ra thành sách thì một ông cố người Pháp là Alexandre de Rhodes, in một bộ tự điển và một bộ sách giảng đạo bằng chữ quốc ngữ trước nhất. Vậy thời hai bộ sách đó là hai quyển sách quốc ngữ cổ nhất còn lưu truyền tới nay.”

Bộ tự điển mà Phạm Quỳnh đã đề cập là cuốn tự điển của cố Alexandre de Rhodes có tên là Việt-Bồ-La (Dictionarium Annamiticum, Lusitanum et Latinum in ở Rome năm 1651). Còn “sách giảng đạo” mà ông chủ Nam Phong đề cập là “Phép giảng tám ngày cho kẻ muốn chịu phép rửa tội mà vào đạo Thánh đức Chúa Trời”.

Tác phẩm của cố de Rhodes, theo lời tác giả, đã dựa vào hai cuốn từ vựng trước nó liên quan đến tiếng Việt giảng sang tiếng Bồ của Gaspard de AmaralAntoine de Barbosa.

Ban đầu chữ Quốc ngữ chỉ là phương tiện truyền giáo ở Việt Nam của các giáo sĩ thuộc nhiều quốc tịch Tây phương. Nhưng khi Pháp đặt chế độ thuộc địa lên đất nước ta, sau khi chiếm Lục tỉnh Nam kỳ (từ 1862 tới 1867) thì thực dân lại mượn nó làm phương tiện thông tri chính sách cai trị cho dân bị trị không biết chữ Pháp hay chữ Hán. Tờ Gia định báo là tờ báo có một phần chữ Quốc ngữ đầu tiên xuất hiện ở miền Nam vào ngày 15 tháng Tư 1865 với mục đích cai trị trên.

Giới kẻ sĩ Việt Nam tha thiết với tiền đồ dân tộc và bén nhạy với sự đổi mới đã nhanh chóng mượn thứ văn tự này làm văn tự nước nhà. Chữ Quốc ngữ đã trở thành phương tiện hữu hiệu giúp nòi Việt trở mình, thoát khỏi ảnh hưởng phương Bắc và gây dựng được lâu đài văn học tự chủ của một quốc gia độc lập như học giả Nguyễn văn Vĩnh (1882-1936) trong bài tựa bản dịch Tam quốc chí của Phan Kế Bính (1875-1921) xuất hiện vào năm 1909 đã dự liệu “Nước Nam ta mai sau này hay dở cũng ở chữ Quốc ngữ”.

Chữ Quốc ngữ thuở ban đầu tới nay đã có những sự cải cách tinh vi và phong phú hơn gấp bội, nên ghi rất chuẩn cách phát âm của ba miền đất nước Việt Nam, lại có khả năng truyền đạt nhiều mặt kể cả khoa học và kỹ thuật, và đã thực sự biến thành một thứ văn tự được ngót trăm triệu giống Lạc Hồng trân trọng bảo tồn và phát huy. Nhờ đâu? Giải thích điểm này, chúng ta không thể không mượn ý kiến của tác giả Việt Nam Văn Học Sử Yếu:

Các giáo sĩ người Âu đặt ra chữ quốc ngữ, chủ ý là có được một thứ chữ để viết tiếng ta cho tiện và dùng trong việc truyền giáo cho dễ. Không ngờ rằng, vì tình thế lịch sử xui nên, thứ chữ ấy nay trở thành thứ văn tự phổ thông của cả dân tộc Việt Nam ta. Đành rằng cũng như các công trình do người ta sáng tác, thứ chữ ấy cũng còn có một vài khuyết điểm, nhưng ta nên nhận rằng ở trên hoàn cầu này, không có thứ chữ nào tiện lợi và dễ học dễ biết bằng thứ chữ ấy.”

Có công lớn cho việc trau dồi chữ Quốc ngữ trở thành một công cụ xứng đáng của một quốc gia độc lập phải kể Huỳnh Tịnh Của (1834-1907). Học giả Paulus Của là người có công soạn bộ từ điển Đại Nam quốc âm tự vị, một bộ tự vị soạn thảo công phu và giá trị nhất làm nền tảng cho chữ Quốc ngữ.

Bên cạnh học giả họ Huỳnh không thể quên công trình bác học phổ biến tiếng Việt của học giả Petrus Trương Vĩnh Ký (1837-1898). Petrus KýPaulus Của cũng là những văn gia đầu tiên dùng chữ Quốc ngữ để trước thuật các loại đoản thiên như Chuyện giải buồn, Chuyện đời xưa Chuyện khôi hài.

Đầu thế kỷ XX phải kể công của nhóm Đông dương tạp chí (1913-1917) với Nguyễn Văn Vĩnh, Phạm Duy Tốn, Phan Kế Bính, Nguyễn Đỗ Mục và nhóm Nam phong (1917-1934) với Phạm Quỳnh, Nguyễn Hữu Tiến, Nguyễn Đôn Phục… góp phần vào việc phổ biến chữ Quốc ngữ và luyện câu văn chữ Quốc ngữ cho tinh tường hơn. Sau đó cũng không quên công của Phan Khôi trên Phụ nữ tân văn. Nhà báo nàyđã đề nghị xây dựng mẹo luật cho chữ Quốc ngữ.

 

Hoàng Yên Lưu

.

___________________________

từ tr.15
^^ về đầu trang chủ

Trang: 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30


Chuyên mục