.
về
BÙI GIÁNG
____________
tranh của Đinh Cường
.
@
TIỂU SỬ
Bùi Giáng sinh ngày 17 tháng 12 năm 1926
tại làng Thanh Châu thuộc xã Vĩnh Trinh, huyện Duy Xuyên,
tỉnh Quảng Nam.
Cha ông là Bùi Thuyên, thuộc đời thứ 16 của dòng họ Bùi ở Quảng Nam. Do người vợ cả qua đời sớm nên ông lấy người vợ kế là bà Huỳnh Thị Kiền. Bùi Giáng là con đầu của Bùi Thuyên với Huỳnh Thị Kiền, nhưng là con thứ 5 nếu tính tất cả các anh em. Khi vào Sài Gòn, ông được gọi theo cách gọi miền Nam là Sáu Giáng.
Năm 1933, ông bắt đầu đi học tại trường làng Thanh Châu.
Năm 1936, ông học trường Bảo An (Điện Bàn) với thầy Lê Trí Viễn.
Năm 1939, ông ra Huế học tư tại Trường trung học Thuận Hóa. Trong số thầy dạy ông có Cao Xuân Huy, Hoài Thanh, Đào Duy Anh.
Tháng 3 năm 1945, Nhật đảo chính Pháp, nhưng sau đó ông cũng kịp đậu bằng Thành chung.
* Năm 1949, ông tham gia kháng chiến chống Pháp, làm bộ đội Công binh.
* Năm 1950, ông thi đỗ tú tài đặc biệt do Liên khu V tổ chức, được cử tới Hà Tĩnh để tiếp tục học. Từ Quảng Nam phải đi bộ theo đường núi hơn một tháng rưỡi, nhưng khi đến nơi, thì ông quyết định bỏ học để quay ngược trở về quê, để đi chăn bò trên vùng rừng núi Trung Phước.
* Năm 1952, ông trở ra Huế thi tú tài 2 ban Văn chương. Thi đỗ, ông vào Sài Gòn ghi danh học Đại học Văn khoa. Tuy nhiên, theo T. Khuê thì sau khi nhìn danh sách các giáo sư giảng dạy lại, ông quyết định chấm dứt việc học và bắt đầu viết khảo luận, sáng tác, dịch thuật và đi dạy học tại các trường tư thục [1].
Năm 1965, nhà ông bị cháy làm mất nhiều bản thảo của ông.
Năm 1969, ông “bắt đầu điên rực rỡ” (chữ của Bùi Giáng). Sau đó, ông “lang thang du hành Lục tỉnh” (chữ của Bui Giáng), trong đó có Long Xuyên, Châu Đốc…
* Năm 1971, ông trở lại sống ở Sài Gòn.
Thi sĩ Bùi Giáng mất lúc 2 giờ chiều ngày 7 tháng 10 năm 1998,
sau một cơn tai biến mạch máu tại bệnh viện Chợ Rẫy (Thành phố Hồ Chí Minh, tức Sài Gòn cũ)
sau những năm tháng sống “điên rồ lừng lẫy chết đi sống lại vẻ vang”
(chữ của Bùi Giáng).
@
TIỂU LUẬN
về
BÙI GIÁNG
____________________________________
.
BÙI-GIÁNG :
DIOGENES THỜI-ĐẠI!
_________________
*NGUYỄN-TƯ
.
Diogenes là một Triết gia cổ Hy lạp, vào khoảng Thế kỷ thứ 3 trước Công nguyên – một người được mô-tả là cha đẻ của Triết thuyết “Cynicism”(ngạo đời, bi quan)không tin vào Hạnh phúc đời sống, và chủ trương sống như người tiền sử gần gũi với Thiên nhiên (primitive Nature) cũng như sự Tự-túc (self-sufficiency) không muốn nhờ vả ai, được thể hiện qua những cách thức đơn giản nhất (simplicity) và Tự-kỷ luật nữa (self-discipline) mà người ta cho rằng ông ảnh hưởng từ
Antisthenes – một Triết gia trước đó chủ trương về Triết thuyết này. Và, ông cũng đã có một vài môn đệ nhưng không đủ mạnh để thành lập một Trường phái (School) chính thống, mà chỉ kéo dài chưa được một thế-kỷ…Đặc biệt Diogenes chỉ ăn mặc sơ sài và sống trong một cái thùng gỗ, nhưng khi ra ngoài thì ông luôn-luôn xách theo một cái đèn, vì cho rằng cuộc đời này đen tối quá (nhạo
báng) cần phải thắp sáng thêm, dù là ban ngày đi nữa…
Theo nguyên ngữ Hy lạp, chữ “Cynic” bắt nguồn từ chữ”Kynikoi” có nghĩa là”giống như chóhoang” (dog-like), cho nên nhóm của Diogenes khi cần bài tiết cứ việc thoải mái như loài thú hoang này, kể cả việc thực hiện khoái cảm cũng rất vật tính, nghĩa là họ có thể đứng thủ dâm trước công chúng mà không hề mắc cỡ gì(shameless), không phải vì họ “mất dạy” mà là coi mình rất
đỗi “tự nhiên” như thời man dã…Vì vậy, chắc hẳn những người đồng thời phải nghĩ rằng Diogenes là”thần kinh thầy chạy“như người Sàigòn bây giờ gọi Bùi Giáng vì nghĩ ông ấy “điên”(thần kinh) “nặng” (thầy chạy: không chữa được nữa) nhưng Diogenes đâu có điên gì, mà lại là một Triết gia nổi tiếng của Hy lạp…Bùi Giáng không ở trong thùng thì ở “chòi” nơi góc vườn của một người bà
con, quần áo rách rưới năm bảy lớp dơ dáy, tóc tai bù xù không bao giờ tắm gội! Ông không xách đèn giữa ban ngày nhưng có dắt theo bầy chó đủ màu mà ông đặt đủ thứ tên, thường là tên của các lãnh tụ mà ông không ưa…
Ngày mới lớn, tôi đọc Bùi Giáng rất nhiều từ Thơ như:”Lá hoa cồn“, “Ngàn Thu rớt hột“, “Mưanguồn”…, sách giáo khoa, sách dịch thuật như:”Terre des hommes“(Cõi người ta) và “Le petitPrince” (Ông Hoàng nhỏ) của St Exupéry, hay những cuốn sách nổi tiếng của nhà Văn từng được giải Nobel như: “Symphonie Pastorale“(Khúc nhạc đồng quê) và”La Porte étroite“(Khung cửa hẹp) của André Gide…Phải nói Thơ, và cách dịch của ông là tuyệt cú mèo chưa thấy ai dịch hay như vậy! Và, nhất là sách biên khảo về Triết học Tây phương qua mấy tập dày cộm”Tư tưởng Hiện đại 1,2,3” mà ông rất ưa các Triết gia Hiện sinh Đức như: Heidegger (thực ra ông này chịu ảnh hưởng nặng Kierkegaard hơn là một Triết gia Hiện sinh chánh hiệu).. và của Pháp như: J. Paul Sartre, Albert Camus (đọc là: “Ca-muy” not “Ca-muýt” như nhiều người lầm), hoặc “Hiện tượng luận” của Husserl (Đức)…mà không quên nhét vào những tư tưởng Đông phương của Khổng, Lão Trang hoặc Nguyễn Du, nghĩa là ông hứng chỗ nào về ai thì cứ “chêm” vô tự nhiên chỗ ấy, đôi khi có cả Ca sĩ Hà Thanh, Kịch sĩ Kim Cương, Tài tử Marylyn Monroe, Brigitte Bardot…
Được biết ông Bùi Giáng sinh năm 1925 tại Quảng nam trong một dòng họ nổi tiếng mà người ta có thể biết như Bác sĩ Bùi Kiện Tín rất giàu có nhờ chế tạo dầu khuynh diệp, sirop nhau…và Giáo sư Bùi Luận, dạy ở trường Trung học Võ Tánh Nha trang…Ông học Trung học ở Huế, và bị kẹt trong vùng VM (tại quê nhà Quảng nam) từ năm 1945 lúc ông ở tuổi thanh xuân mà phải chăn bò, chăn dê – những cái “nghề” chỉ dành riêng cho trẻ con (mục-đồng. Đồng: con nít) như kẻ này. Bò
thì không nói chi, chứ chăn dê là một cực hình vì con vật này quái đản, dâm dễ sợ (dê xồm mà lị!) phá phách không chịu nổi, đụng cái gì cũng ăn kể cả nón lá, nghe mưa dông là cứ nhảy đại chui dưới gầm bàn thờ nhà người ta làm đổ lổn ngổn, rất phiền phức…Nhưng khi Quốc gia tiếp thu thì ông vô Sàigòn dạy học và làm Văn nghệ, viết sách…Đây là thời kỳ ông bình thường, dù cũng đã có
những triệu chứng “ngông” của một người tài hoa mà hầu hết Nghệ sĩ đều có, cũng chỉ để “cho vui” vậy thôi, nhất là ông người Quảng nam – một nơi được người đời xác nhận qua tục ngữ là hay “cãi” (ngang bướng):
“Quảng nam hay cãi,
Quảng ngãi hay co,
Bình định hay lo,
Thừa thiên ních hết!”
Có nghĩa rằng: dân Quảng nam ưa cãi cọ ít khi chịu khuất phục ai, dân Quảng ngãi hay “co“, tức cứng đầu (co đầu cứng cổ), dân Bình định hay “lo“(lo lót, chứ không phải lo âu) và Thưà thiên “ních hết” vì dân Thưà thiên là dân Kinh đô nhiều Quan lại nên hay ăn hối lộ…Tục ngữ nói vậy thì hay vậy, không biết đúng hay sai, nhưng chắc cũng phản ánh một phần nào…Nhưng sau đó một thời gian thì người ta bắt đầu thấy nhà Thơ “ngông dữ” đến gần như bất bình thường, (anormal) mà nguyên do có lẽ vì hoàn cảnh bất hạnh của gia đình ông: nghe nói là cả vợ con ông đều bị chết vì tai nạn gì đó! Ông bắt đầu nói lảm nhảm nhiều (thường đọc Thơ chữ Tây, chữ Hán, mà người ta gọi là”điên chữ” vì trong đầu nhiều chữ quá hóa điên!?) hay đi lang thang ngoài đường, nhất là sau 75
thì lại càng dễ điên thê thảm…
Bởi vì ông từng sống với VM trong suốt 9 năm kháng chiến chống Pháp, qua phong trào “Cải cách ruộng đất” rất khốc liệt từ năm 1952, giai cấp Địa chủ như gia đình ông Bùi Giáng, gia đình tôi…đều bị VM coi là:”Kẻ nội thù của giai cấp công nông”nên dĩ nhiên là khốn khó vô cùng, không cách gì sống nổi! Do đó mối thù này hẳn sẽ in dấu trong tâm hồn suốt đời như một vết thương
không bao giờ lành, đến năm 75 lại phải lặp lại một lần nữa, thì bịnh ông Bùi Giáng đương nhiên càng nặng thêm! Đó là lý do tại sao, trong thời kỳ này (sau 75) ông lợi dụng bịnh điên của mình để chửi chế độ còn dữ hơn nữa, nên ông bị công an bắt đánh nhiều lần, may nhờ một người đồng hương thuộc giới Văn nghệ đàn em, rất mến mộ ông là Vũ Hạnh – một tên nhà Văn nằm vùng, sau 75 làm to (xếp đám văn nghệ VC miền Nam) can thiệp, ông mới đỡ đi phần nào. Nghe nói khi gặp
Vũ Hạnh, nhà Thơ họ Bùi bảo:”Mày nói chúng nó đừng có đánh tao đau quá!” . Dù vậy, hễ gặp cơ hội là ông cứ xỏ xiên, giễu cợt CS không tiếc lời, nên không biết bao nhiêu câu chuyện về ông được kể ra, trong đó có 2 câu Thơ, rất “Bùi Giáng” hay được trích dẫn trên báo chí Hải ngoại với nhiều khác biệt nhau về 2 nhà Thơ VC ở Quảng nam là Thu Bồn và Thu Ba…mà tôi nghĩ nó xảy ra ở Sàigòn chứ không thể ở “Quảng Đà“, vì ông Bùi Giáng “khùng” và “rách” cỡ đó không thể về Quảng Nam mà dự “Đại hội Thơ” được! Vả lại, ông ấy không quanh co gì đâu, vì ỷ ai cũng nghĩ mình điên “thầy chạy” thì không còn sợ gì mà không tuôn ra cho nó sướng cái lỗ mồm, nhất là đối với giới Văn nghệ VC, họ chỉ thích bái lạy nhau mà ca tụng cái gì phải ca tụng. Hai câu Thơ đó thường được trích như vầy:
“Thu-Ba khen thơ Thu-Bồn,
Thu-Bồn sướng quá, rờ l.. Thu-Ba!”
Vì được “khen” nên mới “sướng“, nhất là được “em” khen “Thơ” nữa là nhất, và chữ “rờ“(chữ của người Trung và Nam) chứ không phải “sờ”(chữ của người Bắc). Tôi nghĩ ai chứ Bùi Giáng, thì dám nghịch như thế này. Ngay trong Thơ “nghiêm túc” của ông không thiếu gì cụm từ kiểu Hồ Xuân Hương chuyên môn nói lái những vấn đề cấm kỵ trong thơ phú (ngoại trừ Thơ của nhóm “Hợp Lưu” ngày nay ở Mỹ) Tại sao thời Nho giáo cực thịnh mà Hồ Xuân Hương vốn tỉnh táo lại dám làm Thơ có những câu độc địa như thế nầy:
“Thuyền từ cũng muốn về Tây-trúc,
Trái gió, cho nên nó lộn lèo” (Sư bị làng Đuổi)
Hoặc:
“Hỏi thăm Sư cụ đáo nơi neo?”(Chùa Quán sứ)
Hẳn những cụm từ”đáo nơi neo“, “Trái gió“và“lộn lèo” là những nghịch ngợm có dụng ý rất “đạt” của Nữ sĩ họ Hồ, mà ngày nay nhà Thơ họ Bùi mang tiếng là giới “mày râu” và “điên thầy chạy” lại không dám viết những dòng tương tự hay sao?
“Lọt cồn trận gió đi hoang,
Tồn liên ở lại, xin làm dồn ra…”
Cách “nghịch” này, trong Thơ Bùi Giáng chúng ta gặp thường xuyên bất cứ nơi đâu…Xách mé CS thì Bùi Giáng là số một, vì ông hiểu CS hơn ai hết, ngay cả thời VNCH, ông cũng đã từng giễu Trịnh Công Sơn – vốn là một Nhạc sĩ tài hoa nhưng lại ăn nhầm phải bả CS nên có chân trong nhóm Tôn Thấp Lập, Hoàng Phủ Ngọc Tường…ở Huế do đó đâm ra phản chiến, đã viết những bài nhạc có lợi cho CS (nhưng giờ thì dường như ông ta đã tỉnh ngộ rồi?) khi Bùi Giáng đố người ta
rằng:”Đố bạn 3 chữ T.C.S viết tắt từ những chữ gì?”, rồi nhà Thơ tự trả lời:”Đó là những chữ viếttắt từ 3 chữ Thằng Cộng Sản!”…
Đối với tôi, Bùi Giáng không phải là một người “điên“(fou) theo đúng nghĩa của nó, mà ông chỉ là người “tàng-tàng“, hay “khùng” mà người mình bắt chước Pháp gọi là”Tốc-kê“(tocket) được giải thích là “một chút điên“(un peu de fou),nhưng ông giả điên (giống vua Thành Thái ngày trước chỉ để chửi Tây) hầu giễu đời chơi của một người “thất chí“, dù ông từng làm Thơ giải thích mình “khùng vì Thơ“:
“Vì yêu dấu quá nàng Thơ,
Với em vô tận nên ngơ ngẩn buồn,
Thần tiên Thánh Phật bao dung,
Hiểu lòng tôi lắm, tôi khùng vì Thơ” (Vì sao khùng?)
Tôi nghĩ ông Bùi Giáng bị thất chí vì hoàn cảnh gia đình (vợ con chết thảm),quá khứ khổ cực (vì VM) lại có máu Văn nghệ quá đà (bao nhiêu ruộng đất, nhà cửa đều bán để in sách – cái loại đầu tư chỉ lỗ vốn, huề là may!), bất mãn chuyện đời, bất mãn thời cuộc, thiếu tình yêu của Mẹ thời còn bé (Mẹ chỉ cưng em mà lơ-là với ông như ông đã viết “Mẹ bỏ ta”!) đó là lý do khiến ông luôn luôn gọi những người ông mến mộ là”Mẫu thân” như”Mẫu thân Phùng-Khánh, Mẫu thân Trí-Hải“, người yêu không có, nên ông đâm ra có những giấc mơ rất cuồng không thiếu tính giễu cợt, như khi ông chết chỉ mong cô Kim Cương “tè” lên mộ ông cho ấm áp cuộc đời!
Có người kể rằng, ở Sàigòn rất nhiều người mến mộ tài hoa nhà Thơ và thương cảm cuộc đời lê-lếch của ông nên người ta hay mời ông uống càphê, ăn phở…ông vui vẻ nhận lời. Với những lần như vậy ông rất vui vì đỡ cô đơn, cũng đỡ đói, nên ông nói chuyện huyên thuyên đủ thứ trên trời dưới đất với giọng Quảng nam rặt rất dễ tức cười và khó nghe, nhưng đây là đặc điểm của Bùi Giáng, con người luôn luôn giữ nét nguyên thủy không bao giờ đổi thay một cách tự nhiên, kể cả tiếng nói gốc của xứ mình, theo quan điểm của nhóm “Cynique“…rồi bỗng dưng ông lại đề nghị:”Ngồi đây nhe, để coi tao ra múa cho bọn nó xem chơi mà nghĩ tao điên!”. Thế là ông bỏ ly cà-phê, nhảy ra đường đứng giữa lộ múa lung tung, xong cười ha hả, rồi vào ghế ngồi uống tiếp. Đây là một thái độ tỉnh táo, có dụng ý chọc đời…coi đời chả ra gì chứ không phải điên vì ông biết ông sẽ làm gì, và làm để chi? Điên mà biết mình điên thì chưa phải là điên!??
Ngày còn dạy học, ông giảng Kiều và khóc giữa lớp là chuyện rất thường bởi vì ông thương cảm Kiều, kính phục Nguyễn Du như Thần tượng, kể cả Chu Mạnh Trinh là người rất mê Kiều đến độ phải vịnh nguyên chuyện Kiều với bài tựa không chê vào đâu được. Bởi mê Nguyễn Du, nên Thơ họ Bùi thường là lục bát như thơ Kiều,mà trong đó hầu hết là từ của Nguyễn Du (như “Rằng, Chỉn e, Vân mồng“….) không phải chôm chĩa nhưng ông cố ý dùng để người ta biết rằng ông mê Nguyễn
Du, mê đến độ có lần ông ra một đề luận Văn chương có một không hai trên đời này cho học sinh:”Em hãy thuật lại cuộc gặp gỡ giữa em với Nguyễn Du trong vườn Bờ-rô”(vườn Tao đàn ở Sàigòn là nơi trai gái thường gặp nhau tình tự)…
Nói về Bùi Giáng thì không hết, vì ông có một cuộc đời ngoại hạng, cái gì cũng vượt trội hơn hẳn người ta, giống như một ông Tiên mà ông thường gọi là “trích Tiên“(Tiên bị đày) đang “phiêu diêu miền cực lạc” ngay giữa lòng cuộc đời bụi bặm này, và ông đã phiêu diêu thực sự vào ngày 8/10/98 vì vỡ mạch máu đầu sau một tai nạn ngã té…nên kẻ này mạo muội có bài Thơ “điếu” người
tài hoa “outstanding” quá cố như sau:
Ông chết, rồi sẽ thành Tiên,
Bởi ông sống chẳng làm phiền gì ai!
Bán nhà in sách lai-rai,
Thiên hạ đọc, hẳn có vài niềm vui!???
Dù ông ở bụi dập vùi,
Nhưng lòng vẫn cứ cố nuôi nụ cười…
Cõi này là chỗ rong chơi,
Công danh ông để cho đời giành nhau!
Chỉ mơ sao đến kiếp sau:
Bằng cách thế nào cũng gặp Nguyễn-Du?
Xin làm đệ tử Tố-Như,
Mong ông mãn nguyện, chắc chừ Ô.kê?
Có nhau “một cõi đi về”,
Nhưng gì, thì cũng giữ “nghề” làm Thơ!
Thượng hưởng!
NGUYỄN TƯ
.
Mùa xuân trong cõi thơ Bùi Giáng
_____________________________________
Nhất Thanh
Bước vào cõi thơ Bùi Giáng là bước vào cảnh rừng khuya tịch mịch, sơn cùng thủy tận. Người đứng lạc lõng nhìn khối đen mờ hỗn độn chưa biết về đâu, thì vầng trăng khuya cô tịch bỗng hé chút niềm riêng, rạng chiếu cả một thời xuân sắc
Đã qua đã tới đã về
Tết từ bao bận tết đề huề đi
Đi về đi ở đi đi
Đi là đi biệt từ khi chưa về[01]
Một bài thơ Xuân lạ lùng! Người làm thơ cứ như nhảy chân sáo trong thơ. Rất bông đùa, hóm hỉnh mà lại triết lý đến không ngờ. Qua tới đi về, cứ như mùa Xuân đang lượn lờ trước mắt chúng ta. Thế mà nó đã đi, đi biệt khi tất cả chúng ta chưa kịp thấy nó về. Hay nói cách khác, mùa Xuân vẫn mãi đi về giữa đất trời lớn rộng, trong khi lòng người quá nhiều bận rộn nên chưa kịp thấy hết nhịp điệu đến đi phiêu bồng của một cõi Nguyên Xuân.
Những nhành mai sớm sương bên lá
Những nhành liễu chiều gió bên cây
Cũng lay lắt bởi đời xuân em ạ
Thế nên chi anh cũng viết dòng này.
(Những nhành mai)
…
Mùa Xuân hẹn giữa ngàn mai
Nguyên hình nữ chúa trên ngày phù du
(Nausicaa)
Đang choáng ngợp giữa cỏ cây kỳ ảo, chợt nghe ra một lời chào thân thiết và thanh tân đến lạ thường:
Xin chào nhau giữa con đường
Mùa Xuân phía trước miên trường phía sau.
(Chào Nguyên Xuân)
Xin chào nhau? Lạ! Ai quen biết đâu mà chào? Ồ không! Chẳng phải chúng ta đang cùng đi trên bước đường gập ghềnh sỏi đá “Lộ trường nhơn khốn kiểng lô tê” (Tô Đông Pha) đó sao? Chẳng phải cuộc trăm năm là cuộc giã từ cõi mộng miên trường để tìm về bến bờ chân phúc đó sao? Lời lẽ nào khơi mở nguồn cơn giúp người tỉnh mộng? Dấu hỏi nào ngấn tích chiêu sa để gọi mời chúa Xuân về ngự yên bình trên ánh chiều vàng vọt Đông phương?
Thưa rằng nói nữa là sai
Mùa Xuân đang đợi bước ai đi vào
Hỏi rằng: đất trích chiêm bao
Sá gì ngẫu nhĩ mà chào đón nhau.
(Chào Nguyên Xuân)
Bùi Giáng xé nát trang thơ triết lý, Bùi Giáng thổi tan lớp mây mờ hý luận, xốc tay người hỏi dắt đến bên mép rìa thực tại, dõng dạc thưa:
Thưa rằng: ly biệt mai sau
Là trùng ngộ giữa hương màu Nguyên Xuân.
***
Đọc thơ của Bùi Giáng là bước vào một thế giới kỳ lạ trong nền thi ca Việt Nam – đặc biệt là tập Mưa nguồn. Ở trong đó dù nói gì, nói với ai và ở đâu, ta cũng thấy ngàn ngập một cõi miền kỳ diệu, linh thánh, đa âm sắc và lộng lẫy đến kỳ cùng. Có thể nói Nguyên Xuân là suối nguồn chảy mãi và nhuần thắm cả hơn 60 tác phẩm viết và dịch sau đó của Bùi Giáng. Và đặc biệt hơn nữa, nó cũng là chất liệu làm nên một “huyền thoại Bùi Giáng” – kẻ tự hủy toàn triệt để sống trọn vẹn với thi ca, với hương màu Nguyên Xuân chất ngất giữa cuộc bình sinh hãn hữu này.
Bùi Giáng là kẻ lữ hành cô độc suốt cả xưa sau. Từ một kẻ mục tử lùa bò vào rừng sim trái chín, như một hài nhi hồn nhiên nhìn đất trời cây cỏ, sông núi trăng sao, người chợt thấy:
Cũng vô lý như lần kia dưới lá
Con chim bay bỏ lại nhánh khô cành
Đời đã mất tự bao giờ giữa dạ
Khi lỡ nhìn viễn tượng lúc đầu xanh.
(Hư vô và vĩnh viễn)
Từ sự ngỡ ngàng phiêu hốt, thi nhân bỗng nhận ra, bỗng nhớ lại, như tự một kiếp xa xưa nào, con người đã ở trong thế giới này ra đi, đi mãi, tưởng chừng đã hun hút miền xa, thì chợt nhận ra thế giới ấy vẫn hiện hữu giữa cỏ hoa hồn du mục, giữa cô thôn sớm tối đi về:
Sực nhớ rằng đây rừng rú thẳm
Là quê thân thiết biết bao chừng
(Người về)
Như đứa cùng tử trong kinh Pháp Hoa được trở về nơi cố quận, thi nhân loáng thoáng thấy:
Xưa kia tôi đã có lần
Và bây giờ đã đôi phần tôi quên
Viết thơ là trở lại bên
Con người thôn nữ răng đen hai hàng
(Ca dao)
Như một sự nuối tiếc, một sự phản tỉnh hồn nhiên đến lạ lẫm, thi nhân kể:
Rồi tôi lớn đi vào đời chân bước
Cỏ mùa Xuân bị dẫm nát không hay
Chợt có lúc hai chân dừng một lượt
Người đi đâu, xưa chính ở chỗ này.
(Chỗ này)
Bắt đầu từ đó, thi nhân choáng ngợp giữa trời Xuân huyền ảo. Thì ra, thế giới ba ngàn này vẫn lung linh lấp lánh như tự bao giờ vẫn vậy. Chỉ ở đây thôi, khi con người nhận ra được “Nhất thiết hữu vi pháp, như mộng huyễn bào ảnh” (Kinh Kim Cang) thì sẽ trực nhận được hương màu Nguyên Xuân dào dạt. Trời đất tụ về chung một góc. Một năm nào đời đứng lại nghe Xuân. Về trong thu sương huyễn ải vô chừng (…) Đứng một mình thơ dại ngó mông lung. Em nghe không, em nghe nhé, nghe cùng (Trời Nam Việt). Thi nhân hoàn toàn không dắt ta vào mộng, thi nhân chỉ kể lại những gì chính mình thấy. Vẫn những hình ảnh trời mây lá cỏ, nhưng kỳ lạ vô cùng: Ánh sáng xa đâu gió cây mù mịt trăng trời vòng cửa khép tiếng sóng vỗ ngoài linh hồn lạc bước người em người chị người bạn người thù ngồi lại bên nhau (…) Mùa Xuân bữa trước Mùa Xuân bữa sau Mùa Xuân bốn bên trong hiện tại vây hãm tấn công đời hạnh phúc lạnh như băng không làm sao nhúc nhích. Nắm hai bàn tay lại khi một trời sao đỏ lấm tấm đập cánh bay qua… (Bờ Xuân).
Nhìn thấy đó, cũng chỉ là giây phút cảm ngộ tuyệt vời của vô thức. Thi nhân quyết không làm kẻ đứng ngoài. Đây là phút giây quan trọng nhất của lộ trình đi về cõi trực tâm. Hố thẳm gọi mời một bước nhảy – một bước nhảy nghìn trùng diệu tưởng sẽ thu về trong gang tấc nếu không có sự lưỡng lự của ý thức nhị nguyên. Thi nhân nhìn lại:
Bờ cõi dựng xuân xanh em còn đó
Bến đào nguyên anh khoác áo khinh cừu
(Những nhành mai)
Thế giới bây giờ không còn xa cách nữa. Thi nhân tắm mình trong một nguồn sáng ảo hiệu. Thấp thoáng những bàn tay, với vòng tay của, mười ngón tay măng; thấp thoáng những bước chân, một dấu chân bước của, một bàn chân bé con. Lạ lẫm quá! Cát xa bờ tơ chỉ rối chiêm bao. Tiên thiên quá! Vòm nguyên tiêu rơi rụng giữa trăng rằm. Lãng đãng quá! Múa vi vu vì hẹn với trăng ngàn. Ngôn từ không còn đủ dung tích để ôm trọn nguồn ánh sáng tinh diệu. Thi nhân phải mượn những ngôn từ đại thể, uyên mặc, như Nguyên hình nữa chúa, Bờ cõi thanh tân, Đài vũ trụ… để xin mở một lần màu thiên thanh của (Màu thiên thanh) Rừng cô tịch ngóng nội đồng trổ hoa. Hồn bỏ lại mộng thừa trong thớ đất, anh nhìn em trong suốt giữa xương da (Màu Xuân). Những cảnh vật của thi nhân nhìn thấy chẳng xa lạ gì với thế giới chúng ta. Cũng những hình ảnh ấy, nhưng ánh sáng và màu sắc lại lộng lẫy, sang trọng vô ngần. Ai là người dự được bữa tiệc của đất trời xuân sắc? Ai nhấm nháp được chút rượu “pha màu bình nguyên” của trời trăng bữa nọ?
Biển dâu sực tỉnh giang hà
Còn sơ nguyện mộng sau tà áo xanh.
***
Thơ không đủ gọi, lời không đủ gọi. Mỗi ngôn từ đã được nhân lên rất nhiều lần ý nghĩa ban sơ của nó để giao hòa cùng thực tại, thì việc phân tích, chẻ chia là một trò hề đối với thơ Bùi Giáng. Hỏi tên rằng biển xanh dâu, hỏi quê rằng mộng ban đầu đã xa, gọi tên rằng một hai ba, đếm là diệu tưởng đo là nghi tâm. Máu lệ và xương da, hình hài và thân thể, tất cả được phụng hiến một cách trọn vẹn, đầm đìa sương khói, lãng đãng chiêm bao nhưng vẫn tĩnh tại vô ngần, nguyên tuyền rất mực. Muốn thấy nó một cách thường hằng thì phải sống thường trực từ cội nguồn căn để. Mạnh tử nói: “Dục thường thường kiến chi cố nguyên nguyên nhi lai” là vậy! Bùi Giáng đã hớp tận ngụm suổi đầu nguồn, lẫm liệt và tàn khốc từ đời sống phiêu bồng tận hiến; đã rong chơi ngoài vạn dặm, bầu bạn với cỏ hoa, thương hết thảy dế giun sâu bọ, cánh bướm, cánh chuồn chuồn. Ông sống thực, thực đến nỗi xót xa, bi tráng. Xin chào nhau giữa con đường, con đường của tóc tơ lau lách, máu lệ xương da, của cảo thơm lần giở, của phong tình cổ lục xưa sau. Kể từ Socrate đến Heidegger, văn hóa phương Tây chẳng biết có cõi nào kỳ dị như cõi thơ Bùi Giáng không? Kể từ thời đại sử thi Mahabharata, Ramayana đến Rabindranath Tagore, từ Lý Bạch, Tô Đông Pha đến Nguyễn Du, Tản Đà, Hàn Mặc Tử, Quách Thoại, thi ca phương Đông không biết đã có thế giới nào đìu hiu phiêu hốt đến dường ấy chưa? Đã có những oic thơ nào ngời những nhịp cầu tương ứng luân lưu như vậy chưa? Điều đặc biệt là thế giới ấy không hề siêu thực, mà trái lại rất hiện thực. Một thứ hiện thực ảo (Realistic vision), không phải dạng “mặt trời cắt cổ” của Apolinaire, không phải kiểu “xử thế nhước đại mộng, hà vi lao kỳ sinh” của Lý Bạch. Xuân là Xuân của Ngày trống rỗng không gian trôi vào cõi, nghe mùa Xuân không đổ lục bên hường (Xuân giữa ngọ); Xuân là Xuân của Đồng ruộng cũ màu trôi trong cỏ nhặt, dưới bình minh rạ xám gốc trơ phơi (Người đi đâu). Bùi Giáng cùng nường Thúy du xuân trong hội Đạp thanh, nhưng thi nhân đã khóc ngang ngửa mộng, đã xót xa thân sầu chảy máu bên xương, đã chấp nhận ngàn lần trong thổn thức, đã bàng hoàng hốt hoảng những đêm đêm, đã cam chịu cuồng si để sáng suốt, và đui mù cho thỏa dạ yêu em. Tận hiến đến hơi thở cuối cùng, để ngắm được hoa đào của Linh Vân[02] , ngắm được nhành mai sân trước của Mãn Giác[03] , nghe được tiếng sỏi vang bờ trúc của Hương Nghiêm[04] , nghe được tiếng vượn trầm của Tuệ Trung Thượng sĩ[05] , “tiếng nước ôi chao” của Basho[06] … Mùa Xuân đã hiện về trọn vẹn, uyên nguyên trên từng giọt trăng hòa tan giữa biển lòng bát ngát.
Và đó cũng là sứ mệnh của thi ca. “Sa mạc hồi khan thanh cấm nguyệt” – Nguyễn Du đã mở trang hồng phạm; “Hồng sơn sơn hạ quế giang thâm – Bùi Giáng vẫn còn trang thơ thắm lại cõi trời hồng. Thi ca Việt Nam sẽ vút lên tiếng sáo diều thánh thót giữa đất trời lồng lộng Đông Tây, du dương trước thềm thế kỷ XXI. Riêng Bùi Giáng vẫn cứ lặng lẽ, thủy chung và ẩn mật tuyệt trù:
Gió lay lắt bốn phương về dồn tụ
Bụi thu mờ ai phủi với hai tay. n
Đà Lạt mùa hoa dã quỳ
NHẤT THANH
.
@
Bùi Giáng Nguồn Xuân
______________________________
ĐẶNG TIẾN
.
Hôm mùng ba mùng bốn theo nhau đẩy lùi mồng một mồng hai của hôm nay Nguyên Đán
(Mưa Nguồn, tr. 164)
Câu thơ văn xuôi này của Bùi Giáng mang hai đặc tính: một là ý nghĩa nói về ngày Tết và mùa Xuân, hai là chữ nghĩa đi ngược chiều thời gian. Dĩ nhiên là mồng ba đẩy lùi mồng hai; mồng hai đẩy lùi mồng một. Như vậy hôm nay Nguyên Đán nằm ở vị trí nào trên chuỗi tháng ngày? Nói khác đi, Bùi Giáng đứng từ thời điểm nào ở đầu tháng giêng để phát ngôn?
Lời thơ theo trật tự số mục, và lối đếm thông thường: mùng một, mùng hai… mùng ba, mùng bốn… Nhưng theo ý nghĩa câu thơ, thì phải nói ngược lại: mùng bốn mùng ba (sẽ) theo nhau đẩy lùi mồng hai mồng một. Như vậy, nhà thơ phát ngôn từ ngày hôm nay Nguyên Đán, như Nguyễn Bính năm 1940:
Năm mới tháng giêng mồng một Tết
Còn nguyên vẹn cả một trời Xuân
Nhưng nếu hiểu (đã)theo nhau, thì tác giả lên tiếng vào ngày mồng Năm. Vàtrong cả hai giả thuyết, trật tự chữ nghĩa trong câu thơ Bùi Giáng vẫn không thuận chiều.
Rối rắm như vậy để nói lên một điều cơ bản: thơ Bùi Giáng là một ”dòng nước ngược”, một tâm thức đi ngược chiều thời gian, trong một Sử Lịch, ngược dòng Lịch Sử.
Trong hàng vạn trang sách để lại, Bùi Giáng thường dùng từ Sử Lịch. Chỉ một lần dùng chữ Lịch sử để chối bỏ:
Sử Lịch phai trang
Chạy quàng
Là Lịch Sử
(Lá Hoa Cồn, tr. 55)
Xuân trong thơ Bùi Giáng là xuân không mùa, xuân duy nhất và tuyệt đối, mà ông gọi là Nguyên Xuân (Lá Hoa Cồn, tr. 26), là khởi thủy của nguồn sống, nguồn thơ, quê của Em Mọi, của Đười Ươi, đồng thời là đối tượng, là cứu cánh của sáng tạo, của Lời Cố Quận, Tiếng Gọi Về:
Thưa rằng ly biệt mai sau
Là trùng ngộ giữa hương màu Nguyên Xuân
(Mưa Nguồn, tr. 25)
Tác phẩm, và cuộc đời Bùi Giáng là niềm thủy chung trước sau như một với môt Màu Hoa Trên Ngàn: ông khởi đi từ đây và trở về lại đấy.
Xuân là nguồn mạch thơ tuôn tuôn từ miền xa biệt:
Lỡ từ lạc bước chân ra
Chết tự sơ ngộ màu hoa trên ngàn
*
Mùa Xuân xuất hiện thường xuyên trong tập Mưa Nguồn, và tái hiện trong Lá Hoa Cồn, về sau chỉ thấp thoáng mỗi ngày một ít, ở những thi phẩm cuối đời.
Mưa Nguồn thi phẩm đầu tay và đều tay nhất của Bùi Giáng được in năm 1962, gồm có nhiều bài làm từ 1948. Lời thơ trong sáng, tươi thắm và tha thiết, vào tập bằng hai câu mào đầu:
Xin chào nhau giữa con đường
Mùa xuân phía trước, miên trường phía sau
là câu thơ nổi tiếng sớm nhất của Bùi Giáng, vì nó có thể được sử dụng ở nhiều tần số khác nhau: buồn hay vui, u hoài hay đùa cợt, ví dụ khi bè bạn gặp nhau ngoài phố, lặp lại câu thơ: xin chào nhau giữa con đường, dù không hiểu miên trường là gì.
Và ý tác giả có thể ngược lại: mùa xuân phía sau, miên trường phía trước. Cũng cần nói thêm, thời đó, 1962, thơ Bùi Giáng chỉ được truyền tụng trong một giới độc giả và bằng hữu, đồng hương, chứ không phải là một ”hiện tượng văn học” như gần đây.
Có thể là thơ của tuổi xanh, nên tập Mưa Nguồn đã khởi đi từ nhiều hình ảnh thắm tươi, điệu thơ ánh ỏi:
Những nhành mai sớm sương bên lá
Những nhành liễu chiều gió bên cây
Cũng lay lất bởi đời xuân em ạ
Thế nên chi anh cũng viết dòng này
(Những Nhành Mai, Mưa Nguồn, tr. 10)
Lời thơ tham dự với đất trời vào niềm hoan lạc của mùa xuân. Thể thơ cổ điển, nhưng tác giả đã trộn lẫn thơ bảy và tám chữ, với âm điệu lạ ở câu hai. Nhưng đặc sắc trong thơ Bùi Giáng, thời ấy là những hình ảnh tân kỳ, trong thể thơ truyền thống:
Tay lẩy bẩy níu gì xuân bay biến
Ô thiều quang! Làn nước cũ trôi mau
Em đi lên vói bắt mấy hương màu
Miền đất Thượng có mấy bờ hoa mọc
Xa biệt lắm Mưa Nguồn trên mái tóc
Đã mấy lần thổi lạc lệ lưa thưa
(Giã từ Đà Lạt,1958, Mưa Nguồn, tr. 94)
Lời thơ diễn tả niềm hoang mang trước thời gian, ý tưởng không mới, nhưng lối kết hợp ẩn dụ thì mới, so với lối thơ tám chữ trước đó.
Ở Xuân Diệu, Huy Cận niềm ám ảnh của phôi pha không gây bất ngờ như với Ôi thiều quang! làn nước cũ trôi mau…
Trần gian phôi pha, thời gian hủy diệt, nhưng nhà thơ chấp nhận quy luật, nên đã ghì siết hai tay, Nàng Thơ đẹp của trần gian ứa lệ:
Tôi đã nguyện yêu trần gian nguyên vẹn
Hết tâm hồn và hết cả da xương
(…)
Còn ở lại một ngày còn yêu mãi
Còn một đêm còn thở dưới trăng sao
Thì cành mộng còn tung lên không ngại
Níu trời xanh tay vói kiểng chân cao
Nhưng em hỡi trần gian ôi ta biết
Sẽ rồi ra vĩnh biệt với ngươi thôi
Ta chết lặng bó tay đầu lắc
Đài xiêu ôi xuân sắp rụng mất rồi
(Phụng Hiến, Mưa Nguồn, tr. 30)
Những bài thơ tin yêu cuộc sống, tươi sáng và thắm thiết như vậy ít khi thấy ở những tập thơ sau, mà cũng ít người nhắc đến. Âu cũng là một thiệt thòi cho ông. Chúng tôi trích dẫn một bài thơ xuân thắm tươi, có lẽ làm vào mùa xuân 1973, toàn văn:
Nắng Nguyên Đán
Chạy đi em, nắng gió bốn chân trời
Về chân đất dưới chân em mọc cỏ
Nắng Nguyên Đán lục lam hay hồng đỏ
Tía vi vu hồng lục cũng bao hàm
Chạy đi em! sương gió nắng thênh thang
Trời đất đẹp từ bình minh vũ trụ
Nắng Nguyên Đán của nguyên xuân đầy đủ
Cỏ hoa hương chồi nhú lộc miên man
Nắng xuân xanh mở cỏ moc hai hàng
Và riêng mở duy Một Hàng Ẩn Mật
Nắng phơ phất vì sắc hương phơ phất
Dưới khung trời mặt đất mở thênh thang
Chạy đi em, gót ngọc bỏ hai hàng.
(Bài Ca Quần Đảo, tr. 54)
Phong cách nhắc lại một bài thơ trước:
Chạy đi em, qua vườn thắm theo ngày
Cùng với phút giây này phơi mở lá
Em ngó nhé cành xanh cây giục giã
Hoa nghiêng đầu ríu rít cạnh chim kêu …
(Mưa Nguồn, tr. 96)
Nhưng nhịp thơ nhanh, âm điệu khỏe, hình ảnh rộn ràng hơn, một điệu thơ hiếm có ở Bùi Giáng, nhưng vẫn lấy lại chủ đề nguyên xuân, và giọng lẳng lơ cố hữu, cỏ moc hai hàng, đi đến ngôn ngữ Ẩn Mật về sau. Tóm lại, một bài thơ không Bùi Giáng mà vẫn Bùi Giáng.
Trở lại với giai đoạn Mưa Nguồn, chàng thanh niên Bùi Giáng còn giữ niềm tin ở mùa xuân, ở trần thế trong thời gian, ở Màu Xuân: Ngàn xuân rộng vô ngần trong bóng nguyệt, hay trong bài Bờ Xuân tiếp theo:
Mùa xuân bữa trước mùa xuân bữa sau, xuân bốn bên trong hiện tại vây hãm tấn công đời hạnh phúc lạnh như băng không làm sao nhúc nhích. (Mưa Nguồn, tr. 38-39)
Mùa xuân, mùa xuân hiển hiện, lung linh ánh sáng, long lanh thinh sắc. Trong niềm hoan lạc của đất trời, con người an tâm vui hưởng, vì tin ở sự tuần hoàn miên viễn, như tin vào một cánh én:
Én đầu xuân tuyết đầu đông
Rừng cô tịch ngóng nội đồng trổ hoa
(Mưa Nguồn, tr. 62)
Người ta thường nói: xuân về. Chữ về tin tưởng an lạc như Về Cố Quận. Xuân về với gió đông, xuân mang thương nhớ trở về (Nguyễn Bính). Chữ về gây cảm giác ấm cúng, thân thiết, tin cậy:
Mùa xuân hẹn Thu về em trở lại
Ta nhìn nhau trong bóng nước mơ màng
Nước chảy mãi bởi vì xuân trở lại
Với dòng trong em hẹn ở bên đường
Ta sẽ đợi nghe đời em kể lại
Thuở xưa kia… bờ nước ấy xưa kia
Ta sẽ đợi nghe đời em nói mãi
Bên đời ai vạn đợi đã chia lìa
Mùa xuân hẹn thu về em trở lại
Bên đời đi còn giữ mãi hay không
Giòng bất tuyệt xanh ngần xuân thơ dại
Sầu hoang vu vĩnh hạ vọng non hồng.
(Mưa Nguồn, tr. 61)
Thơ là hạnh phúc của ngôn từ như trong Một Ngày Lễ Hội, tên một bài thơ Holderlin được Heidegger bình minh. Hạnh phúc trong lời nói, của lời nói, dù nói để chẳng nói gì: thuở xưa kia… bờ nước ấy xưa kia. Câu thơ không mang lại một thông tin nào cả. Xưa kia làm gì? Bờ nước ấy: ấy nào? Nào ai biết. Chỉ biết là không gian và thời gian hạnh phúc. Hạnh phúc không cần nội dung. Hạnh phúc không cần lý do, không cần tự thức.
Ngõ ban sơ, hạnh ngân dài, cổng xô còn vọng… Bùi Giáng mách ta thế, và có lần kể:
Xưa kia tôi đã có lần
Và bây giờ đã đôi phần tôi quên
(Ca dao, Mưa Nguồn, tr. 143)
Nhà thơ không cho biết đã có lần làm gì, nhớ gì và quên gì, nhưng chúng ta cảm rằng xưa kia ấy là hạnh phúc, ngay trong nhịp thơ tần ngần, ngập ngừng, lơ đãng. Hồ Dzếnh rất được Bùi Giáng yêu thích, đã thật thà hơn:
Có lần tôi thấy tôi yêu
Dáng cô thôn nữ khăn điều cuối thôn
Xa rồi, nay đã lớn khôn
Biết cô hàng xóm có còn nhớ nhau?
Chúng ta đối chiếu, sẽ thấy sự khác biệt giữa hai tác giả, và đặc sắc của thơ Bùi Giáng mà chúng tôi gọi là hạnh phúc của ngôn ngữ:
Xin yêu mãi và yêu nhau mãi mãi
Trần gian ôi! Cánh bướm cánh chuồn chuồn
Hạnh phúc ấy là Xuân Trần Gian, ăm ắp trong thơ Bùi Giáng, thời điểm mưa nguồn trên mái tóc. Cùng với tinh thần đó, trước khi mất, ông đặt cái tên Thơ Vô Tận Vui cho một tập di cảo sắp sửa được xuất bản.
Tuy nhiên, niềm vui vô tận ở đây chỉ là một minh triết về cuộc sống. Từ đó không thể nói đời và thơ Bùi Giáng lúc nào cũng vui, dù theo lẽ buồn vui tương đối của sự đời. Vui ở đây hiểu theo nghĩa hiền triết Đông Phương, như cá vui, bướm vui trong Nam Hoa Kinh của Trang Tử. Nhìn dưới góc đô tư tưởng hiện sinh của Phương Tây, thì ngược lại, có thể nói đến “bi kịch“.
Từ 1948, Bùi Giáng có câu thơ sấm ký: Ngày Xuân xanh sơ ngộ để thiên thâu (Mưa Nguồn, tr. 57). Câu thơ quan trọng, mang mâu thuẫn, có tính cách biện chứng, giữa thiên thu và sơ ngộ. Một mặt, nó nằm trong mạchVũ Trụ Ca của Huy Cận:
Lòng chim gieo sáng dệt vân sa
Trên bước đường xuân trở lại nhà
Mở sách chép rằng: vui một sáng
Nghìn năm còn mãi tấm lòng ta
(Áo Xuân, 1942)
Mặt khác, nó báo hiệu cho chủ đề ”chết từ sơ ngộ”, và Màu Hoa trên Ngàn sơ khai đã là Màu Hoa Cuối Cùng:
Lỡ từ lạc bước bước ra
Chết từ sơ ngộ Màu Hoa Cuối Cùng
(Chớp Biển, tr. 45)
Bùi Giáng, rất sớm, đã linh cảm rằng mình suốt đời đứng nguyên ở một tọa độ, xác định bởi một không gian Cố Quận và một thời điểm Nguyên Xuân:
Rồi tôi lớn, đi vào đời chân bước
Cỏ Mùa Xuân bị giẫm nát không hay
Chợt có lúc hai chân dừng một lượt
Người đi đâu? Xưa chính ở chỗ này
(Chỗ Này, Mưa Nguồn, tr. 82)
Có một mùa xuân nào, tuần hoàn trong trời đất, cùng với niềm vui nào đó. Nhưng có một hạnh phúc khác, màu xuân khác không bao giờ trở lại với nhân gian:
Mưa Nguồn cũ quá xa rồi một trận
Ôi xuân xanh vĩnh biệt như thể nào
(…) Người viết mãi một màu xanh cho cỏ
Người viết hoài một màu cỏ cho xuân…
(Bài Ca Quần Đảo, tr. 22-23)
Rồi suốt đời, khi sáng suốt, khi cuồng điên, qua hằng vạn trang sách, người thơ chỉ làm hoài làm hủy một bài thơ, vẽ cho mình một chân dung duy nhất, như viết hoài một màu cỏ cho xuân.
Xuân mười sáu suốt bến xuân chìm tắt
Một bài thơ gieo suốt tự bao giờ
(Bài Ca Quần Đảo, tr. 11)
Năm mười sáu tuổi đã xảy ra biến cố gì trong đời tác giả làm chìm tắt mùa xuân? Chúng ta không biết, chỉ biết là ông làm thơ từ tuổi ấy, khoảng 1942, tại Huế, theo lời ông kể ở đầu sách Lời Cố Quận.
Xuân về xuân lại xuân đi
Đi là đi biệt từ khi chưa về
Hai câu thơ đơn giản. Ngớ ngẩn mà thâm sâu. Vớ vẩn mà thần sầu.
Thâm sâu ở chỗ: lời nói tự hủy, tự lời bôi xóa lời. Câu thơ có nghĩa là: tôi vô nghĩa.
Thần sầu ở chỗ: không mấy ai thấy cái chốn thâm sâu.
Thơ Việt Nam nhiều câu hay. Nhưng hay kiểu Bùi Giáng, xưa nay có một.
*
Mưa Nguồn, tên sách là một từ ngữ, hình ảnh thông thường, như trong thành ngữ dân gian, chớp bể mưa nguồn.
Những trận mưa rừng núi là hiện tượng thiên nhiên quen thuộc, có lẽ Bùi Giáng đã nhiều lần chứng kiến cụ thể thời trai trẻ, khi chăn dê miền Trung du Trung Phước, khoảng 1946. Đây là những trận mưa giông lớn, ào ạt đổ xuống rất nhanh, nhất là vào mùa hè, gây ấn tượng mạnh. Mưa Nguồn có thể hiểu theo nghĩa đen.
Lại thêm nghĩa bóng: mưa móc, ân sủng dội xuống nơi cội nguồn cuộc sống, ào tuôn, ”giáng” xuống một lần rồi thôi, nhưng cũng có thể trở lại, trong lẽ tuần hoàn, như lời chờ mong của Tản Đà: Nước đi ra bể lại mưa về nguồn, trong Thề Non Nước.
Cần hiểu thêm, chữ nguồn, ở quê Bùi Giáng, còn có nghĩa đời sống của dân tộc thiểu số ở miền trung du Trung Bộ, mà Bùi Giáng thường xuyên tiếp xúc. Họ thuộc nhiều chủng tộc, chủ yếu là người Gié Triêng và Ca Tu, mà cuộc đời hoang dã đã tạo ra và lưu lại nhiều ấn tượng sâu xa trong tâm thức Bùi Giáng. Cuộc trao đổi hàng hóa giữa hai miền xuôi ngược – ngày nay gọi là Kinh Thượng – đã để lại câu ca dao:
Ai về nhắn với nậu nguồn
Mít non chở xuống, cá chuồn chở lên
Nậu nguồn là những thương nhân chuyên môn buôn bán với Mạn Ngược. Và ở đây có thể phát âm hai vần ngùn/chùn theo giọng Quảng Nam của Bùi Giáng, cũng như Mưa Ngùn. Như vậy mới kết vần được hai câu ca dao địa phương khác, mà Tế Hanh hay Sơn Nam ưa tham chiếu:
Chim quyên xuống đất ăn trùn
Anh hùng lỡ vận lên ngùn (nguồn) đốt than
Thơ Bùi Giáng, có khi cần phải phát âm theo giọng tác giả, mới thú vị:
Chén trà sương sớm bên thềm
Vừa chờ chim hót vừa thèm chim (chiêm) bao.
(Chén Trà, báo Thời Văn, tr. 24)
Chim hót đối ngẫu với chim (chiêm) bao.
Chữ Nguồn ở Bùi Giáng là một hình ảnh vừa quê mùa vừa uyên bác, tự nhiên mà tinh tế. Gốc Hán Việt là ”nguyên”, là nguồn cội, là nguồn sống, là Sơ Nguyên Ngọn Suối: con chim điên vì nhớ Suối vô cùng. Suối cũ Suối xanh Suối bờ mọc cỏ. Suối võ vàng em có hai tay Suối mừng nhìn thấy. Suối khóc suốt đêm bây giờ suối nín… (Gió Nguồn, Lá Hoa Cồn, tr. 75).
Suối ở đây là Nguồn Xuân Tinh Thể. Nhưng nói vậy là nói lắp, vì Xuân đã là Nguồn, và Suối đã là Xuân. Tiếng Anh rất hàm súc khi dùng một từ Spring để chỉ Xuân và Nguồn. Trong thơ Bùi Giáng, Xuân đồng nghĩa với Nguồn, như trong tiếng Anh. Nó là cõi uyên nguyên có trước Trời Đất, là ”cái cửa khe huyền diệu” – ”huyền tẫn chi môn” theo lời Lão Tử. Chữ ”tẫn” Ngô Tất Tố diễn dịch là khe, mà có người ”cắt nghĩa là giống cái, tức là mẹ đẻ của muôn vật. Đó cũng là một nghĩa”.[1]
Có lẽ, từ đó hình ảnh khe, kết hợp với người Nữ, thường xuất hiện nơi thơ Bùi Giáng. Chữ môn nghĩa là cửa (nhân tạo), linh mục Dòng Tên, Claude Larre dịch là Porte (des secrètes merveilles)[2] có lẽ, về sau đã gợi ý cho Bùi Giáng làm đoạn thơ nổi tiếng bắt đầu với hai chữ ngõ và cửa:
Ngõ ban sơ, hạnh ngân dài
Cửa xô còn vọng điệu tài tử qua
Niềm vui, nghĩa sống con người đã xô cửa bước ra từ cõi ban sơ ấy, và ngân dài, âm vọng qua lời thơ của người tài tử. Nhưng về sau lại lỡ từ lạc bước bước ra… và tác giả, hay độc giả có thể tùy nghi ráp nối nhiều câu lục bát khác vào đoạn trên, như Tuệ Sĩ đã gợi ý trong một bài báo rất uyên bác, trên báo Văn 1973:
Ta về ngóng lại mưa sa
Giọt dài ly biệt nghe ra giọng chào
Hoặc:
Em về giũ áo mù sa
Trút quần phong nhụy cho tà huy bay
Vân vân… Như đã nói: toàn bộ tác phẩm Bùi Giáng có thể xem như là một bài thơ duy nhất, một nét chữ lên đàng quẩn quanh. Và người đọc lý thú, vì cảm giác tham dự vào cuộc chơi, thậm chí là đồng tác.
Người đời thường trích dẫn mấy câu thơ hay, bề ngoài đơn giản, nhưng kỳ thật là phức tạp:
Hỏi tên? Rằng biển xanh dâu
Hỏi quê? Rằng mộng ban đầu đã xa
Gọi tên rằng một hai ba
Đếm là diệu tưởng, đo là nghi tâm.
(Chớp Biển, tr. 132)
Hai câu đầu là một hình ảnh từ chương. Câu sau đã khó hiểu hơn: một, hai, ba nghĩa là gì? Hoặc ta cho là thơ cà chớn, không cần tìm hiểu; hoặc ta tìm hiểu và tham chiếu vào Đạo Đức Kinh, lời Lão Tử: ”Đạo sinh ra một, một sinh ra hai, hai sinh ra ba, ba sinh ra vạn vật”; ý thức con người đong đưa giữa cái nghi và cái diệu: không nghi thì không có diệu, không nhờ cái diệu thì không giải tỏa được cái nghi. Đo và Đếm là hai thao tác của Tâm và Tưởng để tiếp xúc và nhận thức ngoại giới: đo cái liên tục và đếm cái gián đoạn. Nhưng còn là, là gì? Là môi giới qua Lời Nói. Nhưng Lời Nói là gì? Chúng ta trở về vị trí đong đưa sóng biển giữa Diệu và Nghi.
Hiểu thơ Bùi Giáng không phải lúc nào cũng đơn giản. Mà không hiểu, chưa chắc đã đơn giản.
Bàn về một chữ Xuân mà phải dàn xa dặm dài, như vậy phải biết ngừng lời, vì:
Thưa rằng nói nữa là sai
Mùa xuân đang đợi bước ai đi vào
(Chào Nguyên Xuân, Mưa Nguồn, tr. 25)
*
Tháng 5/1969, Bùi Giáng vào dưỡng trí viện Biên Hòa vì bệnh đã từ ”cuồng nhẹ chuyển sang cuồng nặng”, các bác sĩ trong viện đã hỏi ông về hình ảnh cô Em Mọi Nhỏ thường thấy trong thơ, và họ kể lại:
”Trong thời trai trẻ, đi kháng chiến, một chiều nọ, mệt, đói, anh đang lê từ bước một với chiếc ba lô khá nặng sau lưng, thì vừa quẹo một bước đường mòn, anh chợt thấy một thiếu nữ thiểu số đang giặt áo bên bờ suối, anh vừa dừng chân thì ”bông hoa rừng” nó cũng vừa ngừng tay giặt, mỉm cười với anh, và niềm nở hỏi chào anh. Anh tưởng chừng mình đang lạc vào suối Đào Nguyên, và hình ảnh này vẫn không phai trong tâm khảm” [3].
Câu chuyện, nếu quả có xảy ra thực cũng nên xem như một giai thoại và một biểu tượng. Người Em Mọi Nhỏ xuất hiện thường xuyên trong đời thơ Bùi Giáng, suốt một nửa thế kỷ khói lửa và biển dâu, không dễ gì giải thích được bằng một nụ cười sơn cước. Cuộc đời, đời ai và đời gì, cũng không đơn giản như vậy và đời Bùi Giáng lại có phần phức tạp hơn bình thường.
Gái Núi, hay Em Mọi Nhỏ, còn có tên Duồng mô Din, là một ẩn dụ hữu cơ trong thơ Bùi Giáng, và có khả năng cấu trúc thi hứng như một hình ảnh Đầu Nguồn, một sử lịch sơ khai, một Suối Xuân diễm tuyệt như đoạn trên đã nói.
Gái Núi là một khai thị, khai tâm, khai tứ, khai từ:
Em từ Mọi Nhỏ thanh tân
Mười hai con mắt thiên thần mở ra
(Mười Hai Con Mắt, tr. 71)
Mở mắt để tiếp thu mùa Xuân Tinh Thể
Mọi là Em, Mọi Sơ Xuân
Ban Sơ núi đỏ chào mừng non xanh
(Bài Ca Quần Đảo, tr. 34)
Em Mọi là quần thể, lập thành xã hội sơ khai một ảo ảnh mà nhà thơ đã tiếp thị thời hoa niên, và dần dà ngày một ngày hai đã cấu trúc thành một triết lý uyên nguyên, cấu trúc nguồn thơ và tiềm năng sáng tạo:
Em ở trong rừng
Mọi chị mọi em
Sinh bình quay quần
Suốt mấy mùa xuân
Một thời thơ dại
Em là em mọi
Em ở đâu rồi
(Tặng Em Mọi, Mười Hai Con Mắt, tr. 215)
Mọi chị mọi em, vị chi là nhiều em mọi.
Kết hợp với mấy mùa xuân, thời thơ dại, hình ảnh Em Mọi ở đây, cũng như ba người con gái chiêm bao ở bờ cỏ Phi Châu ở nơi khác, không phải là hoang tưởng tình ái nam nữ song phương, kiểu Kinh Thượng giao duyên, như trong những bài hát Bông Hoa Rừng, hay Nụ Cười Sơn Cước.
Thậm chí trong thơ Đinh Hùng:
Nàng lớn lên giữa mùa xuân hoa cỏ
Nửa linh hồn u ám bóng non xanh
Ngoài thiên nhiên nở bừng thân mỹ nữ
Nàng yêu ta, huyền hoặc mối kỳ tình
(…)
Chúng tôi gặp nhau bên dòng suối ngọt
Làm đôi người cô độc thuở sơ khai
Nàng bâng khuâng đốt lửa những đêm dài
Ta từng buổi bơ vơ tìm bộ lạc
Nàng là Gái Muôn Đời không đổi khác
Bộ ngực tròn nuôi dòng sống đương xuân
(Người Gái Thiên Nhiên, trong Mê Hồn Ca)
Người Gái Thiên Nhiên ở Đinh Hùng là một giấc mơ hiện đại, với bộ ngực tròn trên tấm thân mỹ nữ, như trong những tiết mục trình diễn thi hoa hậu ở Âu Tây.
Nàng bâng khuâng đốt lửa những đêm dài là hoang tưởng lãng mạn từ Chateaubriand hồi đầu thế kỷ 19 còn ngân dài qua văn học, đến Đinh Hùng và nhiều tác gia khác.
Nhưng Bùi Giáng đã gặp thơ Đinh Hùng, và thân thiết với cá nhân Đinh Hùng. Bùi Giáng viết nhiều bài khảo luận về các nhà thơ đương thời và quen biết với mình, nhưng dường như chỉ tha thiết với thi phẩm của hai người, là Tuệ Sĩ và Đinh Hùng:
”Đinh Hùng Mê Hồn Ca muốn nhảy vọt một trận. Ông muốn sống lại tâm tình người nguyên thủy. Ông muốn mang linh hồn nguyên thủy về đối diện với xã hội văn minh…” (Thi Ca Tư Tưởng, tr. 132).
Tuy nhiên giữa cuộc gặp gỡ đó, có điều khác nhau: Nguyên Thủy trong thơ Đinh Hùng chỉ làm đề tài thi ca, cùng lắm là một ẩn ước. Ở Bùi Giáng là khối ẩn ức, hiểu theo nghĩa đẹp mà Bùi Giáng gọi là Mnemosyne, niềm nhớ nhung sâu kín, nỗi u hoài thao thiết, nguồn thi hứng chủ đạo.
Đinh Hùng đã có những câu thơ tình diễm lệ:
Thương nhau gói trọn hồn trong áo
Mất nhau từ trong tà lụa bay
(Hờn Giận, Đường vào Tình Sử)
Những nét diễm tình này, không thấy ở Bùi Giáng, cho dù về sau, Bùi Giáng cũng có vài lời thơ mang âm hao Đinh Hùng:
Em ở trong rừng một buổi xưa
Ngẫu nhiên tao ngộ gió sang mùa
Hai bờ lãnh địa đau lòng gọi
Sầu suốt giang sơn vọng tiếng thừa
Em ở trong rừng em cũng đi
Xuân tàn lửa hạ đốt trang ghi
Rừng thiêng sự tích mờ vân thạch
Vĩnh biệt lâm tuyền em bỏ đi
Mất hết rừng xanh suối ngọc rồi
Em từng là mọi mộng khơi vơi
Rừng xanh nắng biếc em cười nói
Một thoáng bình sinh giữa bốn trời
(Em Mọi là Em, Chớp Biển, tr. 84-85)
Rừng xanh, rừng thiêng, lâm tuyền ở đây không hẹn hò kỳ ngộ như ở Đinh Hùng, mà là nỗi tổn thương không cứu vãn.
Một trần gian lạc dấu Mùa Xuân:
Còn ngọn suối ngọn sông nào mất ngọn
Ngọn nguồn đi trên không ngọn không nguồn
Tôi leo mãi những ngọn đồi xa ngọn
Về xa xuôi những thung lũng xa nguồn
Nằm giữa phố giữa trưa tôi vẽ bóng
Con chuồn chuồn cuối hạ đón đầu thu
Con châu chấu cuối thu về lóng cóng
Sắp sang đông từ giã nguyệt hư phù
(Bài thơ Hay Nhất, Chớp Biển, tr.87)
Ở đây, một năm chỉ còn lại ba mùa, vì rừng đã thiêu rụi mùa xuân:
Em là em mọi
Xưa ở trong rừng
Nay rừng cháy hết
Em lạc ở đâu
(Tặng em Mọi, Mười Hai Con Mắt, tr. 214)
Trong chủ đề Người em Mọi, đời sống sơ nguyên, Mê Hồn Ca của Đinh Hùng không mang lại ảnh hưởng gì cho nguồn thơ Bùi Giáng lúc đó đã định hình, vững chắc, nhưng có lẽ đã vun đắp thêm vào niềm tự tin trong thi hứng của Bùi Giáng.
Trường hợp tư tưởng phương Tây, như của Heidegger, có lẽ cũng tác dụng như vậy, khi Bùi Giáng tiếp cận Heidegger. Triết gia Đức này bình luận thơ Holderlin, đề cập đến nguồn gốc vũ trụ, thời Hỗn Mang (Chaos) và Định Danh (Nomos) và tính hoang dã thần thánh (sainte sauvageté) đâm chồi nảy lộc, những hoang dã linh thiêng (sauvagetés sacrées), hoang dã vụng về trong thi tập Les Titans[4].
Và có lúc, Bùi Giáng đã đẩy niềm u hoài tiền sử của mình lên xa hơn nữa trong thời gian, qua hình ảnh Đười Ươi – người chưa thành người:
Ta về rũ áo đười ươi
Trút tờ phong nhã cho người phụ nhau
(Ta Về, Thơ Bùi Giáng, tr. 198)
Đi vào cảnh giới si mê
Gọi đười ươi dậy nhe răng ra cười
(Nhe Răng u buồn, trong Sa Mac Trường Ca)
Bùi Giáng có bài thơ tổng kết đời mình:
Ấy là thơ thuở chưa điên
Ở trong dấu ngoặc quàng xiên reo cười
Bây giờ xoang điệu đười ươi
Điệu hoa lầu các ngậm ngùi dấn thân
(Thuở Chưa Điên, Thơ Bùi Giáng, tr. 86)
Hai chữ Đười Ươi ở đây sao mà bùi ngùi, thê thiết!
Đười Ươi Thi Sĩ, nhiều lần Bùi Giáng tự xưng như thế, để bày tỏ niềm hoài vọng tìm lại thiên tính của con người, khi chưa lập thành xã hội, trong cõi trời đất Sơ Nguyên.
Thuở Uyên Nguyên ấy, là mùa Xuân của Đất Trời, mùa Xuân của Con Người.
Nói chuyện Mùa Xuân trong thơ Bùi Giáng mà chưa lên tận Ngọn Nguồn để diện kiến Đười Ươi, thì chưa vui.
*
Viết đến đây, chợt về đôi kỷ niệm, chung quanh ngày Tết và mùa Xuân, hiểu theo nghĩa thông thường, không ẩn ý hay biểu tượng, triết lý gì. Ba ngày Tết, ba tháng Xuân, và hình ảnh Tuổi Xuân, như một cành hoa mai, nở một lần trong thơ Bùi Giáng:
Xuân này em có về không
Nhành mai cố quận nở bông dịu dàng
(Thơ Bùi Giáng, tr. 85)
Tiếp theo là một hình ảnh khác của ngày Tết Nguyên Đán:
Mồng ba Tết ra đường con gặp
Một trẻ em đi bán đậu phụng rang
-”Thầy mua giúp! Đầu năm, dịp Tết”
Con mua nhiều, rồi nước mắt chứa chan
Vì con biết ngày Mồng ba một dịp
Không còn về cho bao đứa trẻ con
Bán đậu phụng hay lau giày lau dép
Đã lang thang đầu gối rụng mỏi mòn.
(…)
Hỡi Thượng Đế! Cúi đầu con thưa lại
Ở trần gian ai cũng khổ liên miên
Người đã dựng cảnh tù đày đọa mãi
Để làm gì? Cho sáng nghĩa Vô Biên?
(Chớp Biển, tr. 127-128)
Bài thơ hé mở một góc độ khác trong tâm hồn Bùi Giáng: khía cạnh xã hội, nhân đạo trong thơ ông, xuất hiện ngay ở tập thơ đầu, nhưng càng ngày càng rõ nét về sau. Nhất là từ khoảng 1970, trong đời sống lang thang bên hè phố, ông chung đụng với nhiều lớp người cùng khổ, chủ yếu là trẻ em nghèo khó và côi cút, mà ông rất mực yêu thương, chia sẻ từng miếng cơm manh áo. Đây là thời gian ông ý thức rõ tình người trong cơ khổ:
Anh vẫn tưởng đầu đường thương xó chợ,
Ai có ngờ xó chợ cũng thương nhau
Ôi đầu đường ôi xó chợ nơi đâu
Là nơi đó chốn kia anh rất rõ
Trong máu me từng khoảnh khắc sơ đầu
(Anh vẫn Tưởng, Bài Ca Quần Đảo, tr. 48)
Trong cảnh dân tộc điêu linh và xã hội lầm than, thì những phong tục hình thức ngày xuân trở thành vô nghĩa:
Mỗi mùa xuân lá trổ bông
Quên tờ cung chúc cũng không hề gì
(Huế làm Thơ, Bài Ca Quần Đảo, tr. 44)
Trong chừng mực nào đó – xin nói rõ: trong chừng mực nào đó – Bùi Giáng thuộc về thế hệ thanh niên không có mùa xuân, mà Tạ Ký (1928-1979), một nhà thơ xuýt xoát đồng tuế và đồng hương với Bùi Giáng, gọi làThế Hệ Bốn Lăm:
Chúng tôi:
Thế hệ bốn lăm
Vui chưa bao nhiêu, nhiều lúc khóc thầm
Một phần tư thế kỷ
Bốn lăm! bốn lăm
Những kẻ ra đi, những kẻ đang nằm
Những kẻ chết, những kẻ còn vất vưởng6
Có lần nhà thơ Tạ Ký mô tả làng Trung Phước quê hương mà Bùi Giáng gọi chung làCố Quận, chìm trong khói lửa:
Con lạc mẹ, bao đêm chồng khóc vợ
Măng bẻ rồi, tre không kín niềm quê6
Và ngày Tết, mùa Xuân với thế hệ ông:
Cười nghiêng núi thẳm xuân gian khổ
Khóc đứng quê xa tết dạn dày
(…) Có những con người không nói hết
Căm căm thế sự nhíu đôi mày
Cố tri dăm đứa nghèo xơ xác
Ăn chực nằm chờ khắp đó đây6
Nhà văn Võ Phiến, trên báo Bách Khoa 1963, trong bài viết về Đỗ Tấn, cùng quê, đã mô tả thế hệ này, trong đó có mình:
“Chừng ấy biến đổi dập dồn vào một thế hệ (…) mới lớn lên đã gặp ngay cơn biến động. Trong những năm đáng lẽ nồng nhiệt hăng say nhất của đời họ, thì một niềm tin vừa nhóm lên liền bị phá vỡ, một giấc mơ vừa thành hình vội vàng bị đánh tan. Hy vọng nổ tan tành, liên tiếp, dễ như quả bóng cao su xanh đỏ của trẻ con” [5].
Dĩ nhiên đây là tâm trạng của một lớp trung niên thi sĩ, ở vào một địa phương, chúng ta không nên khái quát. Thiên hạ thiếu gì người lập thân, lập công, lập danh, lập tài sản, nhờ vào cái mà Võ Phiến gọi là “biến động”, người khác gọi là Lịch Sử, và Bùi Giáng gọi là Sử Lịch.
Nhà thơ Hoàng Trúc Ly, trong lứa tuổi đó, và thân thiết với Bùi Giáng, có câu thơ được truyền tụng một thời:
Mùa Xuân còn gì thưa em
Sáu dây rét mướt chưa mềm trăng khơi
Và Phạm Công Thiện cũng gần gũi với Bùi Giáng, năm 1964, dạy học ở Đà Lạt, có bài thơ Xuân được bạn bè yêu thích:
Mùa Xuân bay thành khói
Tôi ca hát một mình
Suốt đời không biết nói
Nước chảy tràn con kinh
Tạ Ký lúc ấy cũng dạy ở Đà Lạt, rất thích bài thơ này, nhưng bực mình khi nghe một bài hát thời thượng, phổ nhạc thơ Kim Tuấn:
Anh cho em mùa Xuân
Nụ hoa vàng mới nở
Mùa Xuân nào nhung nhớ (…)
Ông bực vì cho là thơ xạo và xảo, vì anh làm quái gì có mùa Xuân mà cho ai, hay cho em? (dù rằng ở cõi đời này, yêu nhau có khi là cho nhau những cái mình không có).
Trong tâm trạng này, Tạ Ký có bài thơ Xuân tặng Phạm Công Thiện:
Trời mùa đông rừng núi
Đời mùa đông vô cùng
Hút thuốc trong bóng tối
Khói có bay lên không? [6]
Vào thời điểm ấy, Đà Lạt 1964, Phạm Công Thiện, có đọc cho tôi nghe câu thơ mới làm:
Cô đơn về trắng sương rừng
Tôi nghe tiếng hát hoang đường nửa đêm.
Pháp, 1984: bài thơ được in lại trong một album đẹp mà anh tặng tôi. Câu thơ xưa đổi lốt:
Rắn trườn vỡ trứng chim rừng
Tôi nghe tiếng hát hoang đường nửa đêm.
Rắn: vì tác giả tuổi Tỵ (1941).
Giữa hai thoại, không biết câu nào hay hơn. Tôi kể lại chuyện này, vì thấm thoát đã tròn hai mươi năm. Và bốn mươi năm.
Đây là thời gian chúng tôi bắt đầu tiếp cận thơ Bùi Giáng.
Một mùa xuân xa…
Xa.
*
Bùi Giáng là một nghịch lý.
Ông là một tác giả hàng đầu, một nhà thơ lớn trong văn học Việt Nam hiện đại, đã sống, làm thơ và qua đời, bên lề dòng văn học chính thống. Rồi trong những điều kiện lịch sử nhất định, thơ ông được truyền tụng, truyền khẩu, tạo nên một hiện tượng xã hội và chính trị Bùi Giáng, vào ba thập niên cuối cùng của thế kỷ hai mươi.
Tác giả Bùi Giáng, và nhà thơ Bùi Giáng đích thực, bị chen lấn giữa những huyền thoại Bùi Giáng. Và những kẻ mến yêu Bùi Giáng đầy thiện chí, đã nhiệt tình viết bài ca ngợi, càng làm rối mù thêm tọa độ của ông trên văn đàn, thêm phần tơ chỉ rối chiêm bao.
Bùi Giáng cả đời chăm chỉ đặt hai bàn chân, chân trái và chân mặt, bên lề chính trị và xã hội, nhưng đã lừng danh – phần nào đó – nhờ những điều kiện xã hội và chính trị. Đây là một nghịch lý, giới hiện sinh một thời có thể gọi là phi lý.
Bài này dĩ nhiên là không có tham vọng giải quyết nghịch lý nói trên. Nó thoạt tiên chỉ là một bài báo Xuân. Nhưng lần theo ý xuân đến thượng nguồn thơ Bùi Giáng, người đọc có thể tìm lại được một trong nhiều sợi tơ mành xuyên qua thi phẩm và tư tưởng Bùi Giáng.
*
Niềm xuân cố quận tê tê / Được chăng góp nhặt lời quê dông dài…
Người rằng:
Nói nữa là sai
Mùa Xuân đang đợi bước ai đi vào.
Đặng Tiến
Orléans, Toussaint 2003
———————–
Thơ Bùi Giáng trích từ: Mưa Nguồn, 1962; Lá Hoa Cồn, 1963; Bài Ca Quần Đảo, 1973; Thi Ca và Tư Tưởng, bản in lại 1998; Thơ Bùi Giáng, Montreal, 1990; Chớp Biển, 1996; Mười Hai Con Mắt, 2002; Báo Văn, Sài Gòn, 5/1973; Báo Thời Văn, TPHCM, số 19, 1997. Có câu ghi theo trí nhớ.
[1] Ngô Tất Tố, Lão Tử, tr. 28, nxb Khai Trí, 1959, Saigon
[2] Lao Tseu, Tao Te King, tr. 17, Nxb Declee de Brouwer, 1977, Paris
[3] Thơ Điên, nhiều tác giả, tr. 80, nxb Ki-Gob-Jó-Cì, Thái Bình Điên Quấc, Saigon, 1970
[4] Martin Heidegger, Approche de Holderlin, tr. 81, nxb Gallimard, 1962, Paris
[5] Võ Phiến, Văn Học Miền Nam, Thơ, tr. 2855, nxb Văn Nghệ, California, 1999.
[6] Tạ Ký, Thơ, tr. 82, 86, 72, 30, nxb Hồng Nguyên, California, 2001.
.
.
.
.
Bùi Giáng,
sơ thảo tiểu truyện .
__________________
ĐẶNG TIẾN
.
Sơ thảo, gọi như vậy vì tính cách sơ lược của bài viết.
Vì một số dữ kiện nêu lên, không chắc chắn, dù cho người viết hết lòng tìm căn cứ. Chung quanh Bùi Giáng có nhiều giai thoại, dần dần trở thành huyền thoại, đồng thời với những tư liệu có khi không hợp lý, hay mâu thuẫn, không dễ gì kiểm chứng.
Sơ thảo, vì lối biên tập còn rườm rà, khi chúng tôi cố tình muốn đưa ra nhiều tư liệu, có lúc ngoài lề, để người khác có thể men theo và truy cứu thêm, về chuyện này hay chuyện khác.
Bùi Giáng đứng tên trên khoảng 60 đầu sách, chủ yếu là 14 tập thơ, xen kẽ 19 dịch phẩm, 6 sách giáo khoa đầu tay, phần còn lại là biên khảo về triết học và thơ. Hiện nay còn khoảng 10 tập thơ và nhiều văn bản dịch, chưa in… Bùi Giáng có vẽ tranh và để lại tác phẩm, chủ yếu là ký họa.
Trên cơ bản, Bùi Giáng là nhà thơ.
* *
*
Bùi Giáng là tên thật.
Có khi sử dụng nhiều bút danh khác: Vân Mồng, Bùi Bàng Giúi, Bùi Báng Giùi, Báng Giùi, Trung Niên Thi Sĩ, Đười Ươi Thi Sĩ.
Ông sinh ngày 17 tháng 12 năm 1926, Bính Dần, tại làng Thanh Châu, nay đổi thành Duy Châu vì thuộc huyện Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam (1).
Thân phụ là Bùi Thuyên, tục danh Cửu Tý, địa chủ giàu có; thân mẫu là Huỳnh Thị Kiền, còn tên là Hai. Cụ Bùi Thuyên có hai đời vợ, bà trước là con Phạm Tuấn, là một trong năm tiến sĩ đồng khoa 1898 cùng quê Quảng Nam, gọi là Ngũ Phụng Tề Phi (2). Bà mất sớm khi hạ sinh người con thứ ba. Bà sau là cháu nội cụ Hoàng Văn Bảng, em ruột Hoàng Diệu, đỗ Phó Bảng khoa 1853, Thượng thư Bộ binh,Tổng Đốc Hà Ninh, tuẩn tiết tại Hà Nội năm 1882. Bà sinh được hai gái và bảy trai. Bùi Giáng là con thứ năm, kể cả con bà mẹ trước, nên còn tên là Sáu Giáng.
Những chi tiết này chứng tỏ Bùi Giáng xuất thân từ một giòng họ gia thế. Họ này gốc Nghệ An, di dân vào đây từ đời Hồng Đức (3).
Nhiều người trong giòng họ này nổi tiếng như bác sĩ Bùi Kiện Tín, sản xuất dầu khuynh diệp, kỹ sư Bùi Thạnh, hay giáo sư Bùi Xuân Bào, gia đình ra lập nghiệp tại Huế.
“Dòng họ Bùi giàu có bậc nhất trong vùng với những sở ruộng ‘Cò bay thẳng cánh, chó chạy cong đuôi’. Bùi Giáng trong mắt người dân thuở đó là một trang công tử. Dòng họ Bùi gốc ở Vĩnh Trinh lên ngụ cư ở Trung Phước khoảng những năm đầu của thập kỷ 40. Hồi đó, dòng họ có những căn nhà lầu đầu tiên ở xứ này. Trong nhà của họ có rất nhiều nô bộc. Sau này, nhà Quảng Nam học Nguyễn Văn Xuân nhận xét rằng những dòng họ giàu có nổi tiếng ở xứ Quảng đều sinh sống dọc hai bên triền sông, tận dụng lợi thế “nhất cận thị, nhị cận giang” (4).
Sông Thu Bồn quanh năm có lưu lượng cao, nối liền miền Thượng Du với cửa Đại (Hội An), cửa Hàn (Đà Nẵng) và cửa Kỳ Hà (Tam Kỳ) qua nhiều sông lớn khác. Do đó, Vương Quốc Chăm đã đóng đô tại vùng Trà Kiệu, bên sông này, khoảng thế kỷ IV.
Nhờ kinh tế phồn thịnh, dân địa phương nhiều người học hành và đỗ đạt.
Bùi Giáng sinh ra và lớn lên giữa “những dãy nhà rộng thênh thang tường xây bằng đá” (5). Thời niên thiếu giữa một thiên nhiên phong phú, nhiều sắc thái: sông hồ, đồi núi, ruộng nương là một thiên đường mà Bùi Giáng suốt đời hoài vọng,và gọi là “cố quận”. Trong Ngày Tháng Ngao Du, ông kể: “Hồi nhỏ, tôi được sanh ra và lớn lên trong miền quê hẻo lánh. Chung quanh có ruộng đồng sông núi trùng điệp, những đám cỏ chạy suốt tuổi thơ. Làng tôi xưa kia có nhiều cỏ mọc, cỏ mọc từ trong làng ra ngoài ruộng, tới những cồn, gò, đồi núi thật xanh. Từ đó về sau, tôi tìm kiếm mãi một màu xanh không còn nữa vì những trái bom và hòn đạn khổng lồ”.
Có lẽ vì vậy mà mãi đến tuổi 71 ông mới về quê sau non 50 năm xa cách, qua bài thơ Tâm Sự, 1996, trong Đêm Ngắm Trăng.
Về học trình của Bùi Giáng, tư liệu chi tiết nhất là bài văn năm 1995 của Bùi Văn Vịnh, em ruột: “Thuở nhỏ, anh học trường Bảo An, tại Điện Bàn, Quảng Nam. Sau đấy, anh theo Trung học ở trường Thuận Hóa, Huế. Năm 1945, đang lớp đệ tứ thì gặp Đảo chính Nhật, song anh kịp đậu Thành Chung(Diplôme). Cùng năm, anh lập gia đình riêng – chị qua đời ba năm sau. Việt Minh lên, anh trôi nổi khắp các tỉnh Nam Ngãi Bình Phú của Liên Khu V trong vùng kiểm soát này. Cho đến 1950 khi co kỳ thi tú tài đặc biệt do Liên khu V tổ chức ( “đặc biệt” vì đề thi do liên khu IV gửi vào, thi xong bài thi gửi ra Liên Khu IV chấm), anh đậu Tú tài II Văn Chương, rồi lên đường ra Liên Khu IV, tới Hà Tĩnh ,để tiếp tục vào học Đại Học. Từ Liên Khu V ra Liên Khu IV phải đi bộ theo đường mòn trên núi, hơn một tháng rưỡi trời. Khi ra đén nơi , trong ngày khai giảng sau khi nghe ông viện trưởng đaị học đọc diễn văn, Bùi Giáng quay ngay về Quảng Nam – với một tháng rưỡi đi bộ nữa theo đường mòn trên dãy Trường Sơn. Và anh bắt đầu quãng đời “ mười lăm năm chăn dê ở núi đồi Trung Việt”. Xin mở ngoặc đơn: con số “15” được hiểu với nghĩa tượng trưng của điển “mục dương”. và anh chăn dê chứ không bò hay trâu! Tháng 5 – 1952, gửi đàn dê lại … chuồn chuồn, châu chấu, anh băng qua Huế lấy Tú tài tương đương, để vào Sài Gòn ghi danh theo học Đại Học Văn khoa. Lần này nữa, sau khi nhìn danh sách các giáo sư sẽ giảng dạy, anh quyết định chấm dứt việc học ở trường của mình tại đây”( 6)
Nhiều bài biên khảo sử dụng tư liệu này, vì tư cách của tác giả và những dữ kiện cụ thể được đưa ra. Nhưng cũng có người tự hỏi : Hà Tĩnh thì làm gì có đại học? Năm 1952, thì Sài Gòn làm gì có đại học văn khoa?( 7)
Chúng tôi dò hỏi và đề nghị một học trình khác của Bùi Giáng:
– Tiểu học : Bùi Giáng có học trường Viên Minh, Hội An.
– 1940 ông bắt đầu vào Trung Học, trường Cẩm Bàng, Qui Nhơn. Trường tên như thế vì tên làng của chủ trường, ông Lâm tô Bông, người Quảng Ngãi.
– 1941-1945: Bùi Giáng ra Huế, học trường tư thục Thuận Hóa. Thầy là các vị Hoài Thanh, Đào Duy Anh, Trần Đình Đàn, Lê Trí Viễn. Hai ông sau là cùng quê Bùi Giáng. Nhà thơ khâm phục và về sau có viết bài ca ngợi các bậc thầy này.
– 1945 : Nhật đảo chính;
Ông đỗ bằng Thành Chung, thường gọi là Diplôme, sau khi thi hỏng năm trước, và ở lại lớp Tứ Niên C.
– 1943 : Bùi Giáng đọc trên báo Bạn Đường, do Hướng Đạo chủ trương, in tại Thanh Hóa, mấy câu thơ:
Mịt mùng một nẻo quê chung
Người về Cố Quận, muôn trùng ta đi.
Theo Bùi Giáng “đây là một niềm tương ngộ, cuộc trùng phùng, những tao ngộ tình cờ trong một cuộc Hội Thoại”.
Có thể xem như là khởi điểm nguồn sáng tạo văn học của Bùi Giáng, như ông thổ lộ ở phần đầu Lời cố Quận(1972), mà không cho biết tên tác giả câu thơ.
Tuy nhiên trước đó, trong Đi vào Cõi Thơ (1969), Bùi Giáng có trích hai câu này trong một đoạn 4 câu trong bài Cảm Thông (14 câu, 1940) và nói rõ là của Huy Cận. Bài này chưa bao giờ được in ở các thi tập đã xuất bản của Huy Cận.
– 1945: ông về quê, cưới vợ, dọn lên Trung Phước, một làng trung du hẻo lánh của tỉnh Quảng Nam..
Vợ ông tên Phạm Thị Ninh, trạc tuổi ông, sinh trưởng trong một gia đình công chức khá giả, ông bà Phán Trai, Hội An, ở gần Chùa Cầu, nay còn người em là Phan Văn Hòa, 71 tuổi.
Bà Ninh qua đời năm 1948 vì bệnh dài hạn và đẻ non, đứa con cũng mất, tại làng Trung Phước. Người em Bùi Công Luân, kể lại rằng khi mất , thì “ chị không thấy mặt chồng. Anh Bùi Giáng bấy giờ đang ở Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên gì đó, nghe phong thanh anh đang đi học”.
Chúng tôi lần theo, và được biết là giai đoạn này, Bùi Giáng tiếp tục học tại trường Nguyễn Huệ Bồng Sơn, tỉnh Bình Định. Trường này không dạy đủ lớp, chỉ hai trên ba năm, bậc Tú Tài, và chỉ dạy chuyên khoa Toán Lý Hóa. Bùi Giáng có ra Hà Tĩnh – bài Kỷ Niệm , trong tập Mưa Nguồn, 1951-nhưng có thể để học tiếp ban Tú Tài văn chương, rồi bỏ dở.
Tháng 5-1952, Bùi Giáng về thành (9). Rồi vào Sài Gòn dạy học.
Học trình Bùi Giáng, chúng tôi chỉ biết có vậy. Trên cơ bản ông là người tự học và đã đạt tới một kiến thức uyên bác, làm nhiều người kinh ngạc và kính phục. Chúng tôi phụ chú thêm ba điểm:
- Việc hôn nhân: khi trả lời một bài phỏng vấn của báo Thời Văn, 1997, Bùi Giáng có tiết lộ : “phải thuận theo ý cha mẹ lấy cô vợ người thành phố Hội An, suốt đời không biết cày sâu cuốc bẫm là gì”(10). Người em trai Bùi Công Luân có đề cập đến điều này trên báo Khởi Hành số 25 đã dẫn, nói rằng hai bên không yêu nhau, nhưng theo ông Hòa, em bà Ninh, thì đây là một hôn nhân tự nguyện.
- Việc chăn dê: khoảng 1948, tại Trung Phước, chúng tôi tin vào kỷ niệm của ông Phạm Văn Hòa: “Ông anh rể tôi kỳ lạ lắm. Hồi đó ổng mua một đàn dê khoảng 100 con và rủ tôi đi chăn cùng. Buổi sáng ông thường lùa dê vào Giáp Nam, Gò Om, sau đó hai anh em rủ nhau xuống khe (suối) Le ngồi dưới bóng các lùm tre và đọc thơ suốt buổi. Có những buổi ổng lang thang lên tận các quả đồi hái hoa, lá kết vòng thơ thẩn đeo vào cổ cho dê. Đặc biệt Bùi Giáng rất thương vợ. Sáng nào ông cũng vắt một bát sữa dê đem chưng lên cho vợ uống. Tôi chẳng hiểu hồi đó ông có tâm sự gì nhưng chỉ biết ông nuôi dê để chơi thôi, không thấy bán ( vì nhà rất giàu, đâu cần tiền), cũng không thấy giết thịt vì ông rất yêu những con dê. Mỗi con ông đặt cho một cái tên, rất kỳ lạ. Chuyện Bùi Giáng chăn dê nhiều người còn nhớ. Đấy là hình ảnh một thanh niên hàng ngày lặng lẽ lùa dê vào núi, trên tay ôm một cuốn sách tiếng Pháp dày cộp. Quãng đời du mục của Bùi Giáng kéo dài khoảng 3 năm thôi nhưng sau này khi viết Nỗi lòng Tô Vũ, thi sĩ đã đề từ “Kỷ niệm một đoạn đời 15 năm chăn dê núi đồi Trung Việt Nam Ngãi Bình Phú”. Mười lăm năm – nhiều người cho rằng có thể Bùi Giáng lấy thời gian lưu lạc của nàng Kiều để nói về đời mình (11)
- Thời kháng chiến : ngày Toàn quốc Kháng Chiến chống Pháp, Bùi Giáng đúng 20 tuổi. Vậy ông làm gì? chẳng nhẽ đi chăn dê và làm thơ?
Theo nhà thơ Tường Linh, Bùi Giáng trong khoảng một năm, có đi bộ đội, thời đó là Giải Phóng Quân. Ông được biên chế trong ngành công binh, giữ vật liệu và đọc sách, rồi được giải ngũ.
Ngoài ra Bùi Giáng trong lúc “ vui lòng cởi mở” ở dưỡng trí viện Biên Hòa tháng 5- 1969, có kể với các Bác sĩ trong viện: “trong thời trai trẻ, đi kháng chiến, một chiều nọ, mệt, đói, anh đang lê từ bước một với chiếc ba lô khá nặng sau lưng, thì vừa quẹo một đường mòn, anh chợt thấy một thiếu nữ thiểu số đang giặt áo bên bờ suối, anh vừa ngừng chân thì “Bông hoa rừng” nọ cũng vừa ngưng tay giặt, mỉm cười với anh và niềm nở hỏi chào anh. Anh tưởng mình như đang lạc vào suối Đào-nguyên, và hình ảnh này vẫn không phai trong tâm khảm anh. Đó là phần Cô em Mọi nhỏ; còn Hoàng hậu Nam Phương thì đến với anh trên một bao thư : người mẫu nghi thiên hạ này, sau anh có gặp lại ở Huế – lần này, người thiệt, chớ chẳng phải là một con tem thư – nhưng thực và mộng vẫn không sai biệt” (12).
Đoạn văn được trích dài, để quy chiếu, về một chi tiết trong tiểu sử mà các tài liệu khác không đề cập, và trong chừng mực nào đó giúp ta hiểu thêm về hình ảnh người đàn bà – rất nhiều đàn bà- trong thơ Bùi Giáng.
* *
1952 – 1960: về vùng “quốc gia”, Bùi Giáng vào Sài Gòn lập nghiệp, dạy Pháp văn và Việt văn cho nhiều trường tư thục: Tân Thịnh, Vương Gia Cần và gửi thơ đăng báo.
Ông cư ngụ tại đường Trương Tấn Bửu, nay là Trần Huy Liệu, gần chợ Trương Minh Giảng,cùng với các em, rong một ngôi nhà giữa vườn cây vú sữa (13). Võ Phiến, ở gần đó, thường lui tới. Có lần Bùi Giáng chiêu đãi Đinh Hùng tại nhà, mời ăn Mì Quảng, nhưng tại một căn nhà đường Dixmude, Đề Thám, theo lời kể của Mặc Thu (14).
Mì Quảng là món ăn quê hương mà ông tự hào và ưa thích. Có lần tuyên bố: “ta ăn hai ngàn tô mì Quảng nữa ta chết” (15);
Thời dạy học, ông đã soạn 6 cuốn sách giáo khoa, do nhà Tân Việt ấn hành, về Bà Huyện Thanh Quan, Lục Vân Tiên, Kiều (1957), Tản Đà, Chu Mạnh Trinh, Tôn Thọ Tường và Phan Văn Trị (1959), và một số sách giáo khoa khác, chủ yếu cho học sinh cấp hai.
1960 – 1975:
1960: xuất bản Tư Tưởng Hiện Đại, biên khảo về tư tưởng phương Tây, chủ nghĩa hiện sinh đang thời thượng. Có thể xem như là sáng tác đầu tay quan trọng;
Dường như từ thời gian này ông mới học tiếng Đức, bắt đầu đọc Heidegger, do ảnh hưởng nhóm Phật giáo Vạn Hạnh với Thượng tọa Thích Minh Châu, Tuệ Sĩ, và Phạm Công Thiện. Hai cuốn về Heidegger, in 1963, trích nhiều tiếng Đức;
1962: xuất bản tập thơ Mưa Nguồn, có bài làm từ 1950, thời chăn dê. Có lẽ Mưa Nguồn là tập thơ đều tay và giá trị nhất của Bùi Giáng. Liên tiếp, năm sau, là 4 thi phẩm : Lá Hoa Cồn, Ngàn Thu Rớt Hột, Màu Hoa Trên Ngàn và Sa Mạc Trường Ca.
Dường như sau đó có thời gian ông về ở Chùa Phát Hội, một trung tâm nghiên cứu Phật Học, tiền thân của Đại Học Vạn Hạnh, với Nhất Hạnh, Tuệ Sĩ, Phạm Công Thiện .
1965: chiến tranh leo thang. Cùng với nhóm trí thức : Nhất Hạnh, Hồ Hữu Tường, Tam ích, Bùi Giáng tham gia kêu gọi hòa bình. Dường như đây là hoạt động chính trị chính thức duy nhất trong đời Bùi Giáng. Nhưng lá thư gửi René Char của Bùi Giáng chỉ nói đến hòa bình chung chung.
Thời gian này ông chủ tâm dịch sách, xuất bản 13 dịch phẩm, nhiều nhất là của Camus. Kịch bản Ngộ Nhận (le Malentendu) xuất bản 1967, đã đăng trên báo Bách Khoa từ 1963, và Bùi Giáng yêu thích Camus từ lâu. Dường như đôi bên có trao đổi thư từ.
1969: xuất bản 10 tác phẩm trong một năm, chủ yếu về thơ. Đồng thời xảy ra tai nạn lớn: một hỏa tai thiêu rụi căn gác ông ở và chứa sách, trong một ngõ hẻm trên đường Phan Thanh Giản, bây giờ là Điện Biên Phủ. Căn gác này do tu sĩ Thanh Tuệ, chủ nhà xuất bản An Tiêm, thuê cho Bùi Giáng ở, chứa nhiều tư liệu và rất nhiều sách, Pháp, Anh, Đức, Hán, có ghi chú. Hỏa hoạn xảy ra khoảng 3 giờ chiều, trước đôi mắt bất lực của Bùi Giáng và Thanh Tuệ, thiêu rụi tư liệu, bản thảo,và sách tặng của Camus, dường như có cả sách tặng của Heidegger.
Bùi Giáng, cuồng nhẹ từ trước, nổi cơn điên, được gia đình đưa vào dưỡng trí viện Biên Hòa đầu tháng 5-1969. Theo các bác sĩ của viện: “Người cầm bút cô độc này, bịnh đã chuyển từ cuồng nhẹ sang cuồng nặng” (16). Không biết bệnh có di truyền hay không, vì thân sinh ông cũng bị cuồng nhẹ, theo lời người địa phương “thân sinh ông Bùi Giáng là ông Bùi Thuyên, thường gọi là Cửu Tý, Ông Cửu Tý cũng là một người… điên, hàng ngày thường làm bộ cưỡi ngựa bằng mo cau đi từ làng Trung Phước đến làng Cà Tang đọc thơ, làm câu đối và đặc biệt ông này rất thích chọc ghẹo… các cô gái có nhan sắc!” (17).
Ra khỏi dưỡng trí viện, Bùi Giáng sống lang thang nay đây mai đó. Từ đầu năm 1973, ông dọn về khu nội xá của Đại Học Vạn Hạnh, đường Trương Minh Giảng, có phòng riêng ở lầu 3. Thời gian này Bùi Giáng thỉnh thoảng có dự những buổi đàm luận chính trị với nhóm trí thức chủ hòa thời đó: Nguyễn Đăng Thục, Tuệ Sĩ,Ngô Trọng Anh,… Nhưng vẫn ăn ngủ đó đây và biểu diễn nhiều trò lạ mắt trong y phục thùng thình trên hè phố Sài Gòn. Thân hữu và gia đình vẫn ồ ạt xuất bản sách cho ông. Tạp chí Văn đã ra một số đặc biệt Bùi Giáng tháng 5-1973, và Mai Thảo, phụ trách tờ báo giải thích về sau: “Phải làm cái gì về ông. Để ghi nhận lại”.
Mai Thảo còn kể tiếp: “chưa biết tìm Bùi Giáng ở đâu, thì thi sĩ bất ngờ ghé thăm tòa soạn. Ông chỉ còn là da bọc xương trong quần áo thùng thình, mái tóc dài đạo sĩ, cái túi vải còn thêm cây gậy (…) Mấy tháng trước biến cố 1975, chỉ thỉnh thoảng nghe thấy ông vẫn lang thang đây đó, một quán này, một bãi hoang kia, ngủ bất cứ ở đâu” (18).
1975-1998: Sau 1975 bệnh cuồng trầm trọng thêm, dù rằng vẫn có lúc ông sáng suốt. Sống nhờ bạn bè và trợ cấp của gia đình từ nước ngoài. Có lúc ở nhờ chùa Già Lam, xóm Gà, Gia Định.
Từ 1985, về ở với gia đình người cháu gái, đường Lê Quang Định, quận Bình Thạnh. Vợ chồng cháu gái giúp Bùi Giáng định cư và định tâm, an dưỡng và sáng tác, đến ngày cuối đời. Hiện gia đình này còn giữ nhiều di cảo.
Từ 1992, tâm trí có phần ổn định, Bùi Giáng làm nhiều thơ trong năm 1993. Sau đó sáng tác cầm chừng, vẫn làm nhiều thơ.
1996 về thăm lại “Cố Quận” Quảng Nam khi đã 71 tuổi.
7-10-1998 (ngày 17 tháng Tám năm Mậu Dần): Bùi Giáng mất tại Sai Gòn vì bị tai biến mạch máu não.
Đêm 23-9, ông có uống rượu, trượt té và vào hôn mê sâu. Giải phẫu tối 25-9, nhưng ông vẫn hôn mê, cho đến 14 giờ ngày 7-10 thì qua đời.
Tang lễ được tổ chức trọng thể tại chùa Vĩnh Nghiêm. Khoảng 600 người, phần đông là thanh niên, sinh viên đến canh thức, ngâm thơ. Một đám tang nhẹ nhàng, nhắc lời ông thường nói, để đời: “vui mà thôi ”
11-10-1998: an táng tại nghĩa trang Gò Dưa, Thủ Đức.
Hiện nay Bùi Giáng còn 10 tập thơ và dịch phẩm chưa in.
Đặng Tiến
Viết cho ngày tưởng niệm Bùi Giáng
7-10-2003, Sơ Thu Quí Mùi
____________________
Des lisieres lointaines
les cerfs ont bramé
Từ ven rừng xa
tiếng nai gào gọi
Apollinaire
(1) Du khách đi thăm di tích Chàm ở Mỹ Sơn, từ quốc lộ số 1, lấy tỉnh lộ 610 khoảng 15 km sẽ đi qua làng Duy Châu. Đi thêm 30 km sẽ đến làng Trung Phước, nơi Bùi Giáng chăn dê, nay đổi là Quế Phước vì thuộc huyện Quế Sơn, phía mỏ than Nông Sơn. Cả hai làng đều nằm bên sông Thu Bồn, bờ bên này và bên kia.
(2) Năm người theo thứ tự là: Phạm Liệu, Phan Quang, Phạm Tuấn, Ngô Truân và Dương Hiển Tiến. Ngoại trừ Phan Quang huyện Quế Sơn, bốn người kia đều thuộc huyện Diên Phước, nay là Điện Bàn.
(3) Bùi Tấn, Chớp Biển, Sài Gòn, Anaheim 1996, tr. 35.
(4) Nguyễn Minh Sơn, báo Người Lao Động, số Xuân Quý Mùi 2003, TPHCM.
(5) Bùi Công Luân (em ruột Bùi Giáng), báo Khởi Hành, số 25, tháng 11/1998, tr. 27, California.
(6) Bùi Văn Vịnh, trong Chớp Biển, sdd, tr. 90.
(7) Trường Đại học Văn Khoa, Sài Gòn, có từ 1958. Trước đó, có lớp Văn dạy tại Đại Học Sư Phạm, 1956. Khoa trưởng cả hai trường thời đó là G.s Nguyễn Huy Bảo, mà Bùi Giáng tỏ lòng ngưỡng mộ, như đã tuyên bố ở trang 17, báo Thời Văn, 6-1997, Sài Gòn.
Tại Khu IV, khoảng 1948, chỉ có lớp sự bị văn khoa, 7 sinh viên học với g.s. Đặng Thai Mai, làng Quần Tín, Thanh Hóa, và g.s. Cao Xuân Huy tại Diễn Châu, Nghệ An. Cụ Huy là thầy Bùi Giáng môn Pháp văn, tại trường Thuận Hóa, Huế.
(8) Bùi Công Luân, trong Chớp Biển, sđd, tr. 15, có đăng lại trên báo Khởi Hành, số 16 tháng 2-1998, tr. 20, California.
(9) Cùng một thời điểm với nhà thơ Tạ Ký 1928-1979. Tạ Ký vào học trường Khải Định 1952, Huế, học đủ ba năm cấp ba, đậu Tú Tài năm 1955.
(10) Bùi Giáng, tap chí Thời Văn, số 19, tháng 6-1997, tr. 26, TPHCM.
(11) Nguyễn Minh Sơn, báo Người Lao Động, sđd.
(12) Thơ Điên, nxb Ki-Gob-Jó-Cì, Thái Bình Điên Quấc, năm Chó 70, tr. 81, 1970, Sài Gòn.
Sách do các bác sĩ dưỡng trí viện Nguyễn Văn Hoài, Biên Hòa, thực hiện, 140 trang khổ 16×24 cm.
(13) Viên Linh, Khởi Hành, số 25 bđd, tr. 23.
(14) Mặc Thu, Khởi Hành, số 25, tr. 25.
(15) Trần Hữu Cư, báo Thời Văn, bđd, tr. 71.
(16) Thơ Điên, sđd, tr. 80.
Giám đốc dưỡng trí viện là Tô Dương Hiệp, con trai nhà văn Bình Nguyên Lộc. Bác sĩ chuyên trị Bùi Giáng và thân thiết, là Nguyễn Tuấn Anh.
(17) Nguyễn Minh Sơn, báo Người Lao Động, sđd.
(18) Mai Thảo, tạp chí Văn, số 26, tháng 8-1984, California, in lại trong Hợp Lưu, số 44, tháng 12-1998, tr. 15-16, California.
.
Một tâm hồn mênh mang ảo diệu
_______________________________________
Thanh Thảo
.
Không chỉ làm thơ, dịch tiểu thuyết, viết sách khảo luận triết học, Bùi Giáng còn viết rất nhiều tùy bút văn học, đặc biệt là tùy bút về thơ. Đọc những tùy bút này, ta nhìn thấy tâm hồn ông mênh mang ảo diệu, thăm thẳm như bầu trời. Ông cảm nhận được những điều tinh vi huyền bí nhất của thi ca. Ông đúng là tri âm của các thi sĩ. Chúng tôi xin giới thiệu một bài trong số đó, đây là bài Bùi Giáng viết về Tuệ Sỹ, trích trong tập Đi vào cõi thơ.
Tuệ Sỹ là một vị sư. Ông viết văn quá nghiêm túc, những sở tri của ông về Phật học quả thật quảng bác vô cùng. Thấy ông vẻ người khắc khổ, không ai ngờ rằng linh hồn kia còn ẩn một nguồn thơ thâm viễn u u… Một bữa ông đọc cho tôi nghe hai câu thơ chữ Hán của ông:
Thâm dạ phong phiêu nghiệp ảnh tùy
Hiện tiền vị liễu lạc hoa phi
Ông bảo làm sao tiếp cho hai câu để nên một bài tứ tuyệt. Tôi đề nghị với ông nên nhờ ni cô Trí Hải tiếp giùm. Ông ngượng nghịu bảo tôi đừng nên rỡn đùa như thế. Vậy tôi xin lai rai thử viết:
Thâm dạ phong phiêu nghiệp ảnh tùy
Hiện tiền vị liễu lạc hoa phi
Phiêu bồng tâm sự tân toan lệ
Trí Hải đa tàm trúc loạn ty
Và xin ông chả nên lấy thế làm bực mình.
Nhưng ai có ngờ đâu nhà sư kín đáo e dè kia, không hề bao giờ có vướng lụy, lại còn mang một nguồn thơ Việt phi phàm ? Một bài thơ “Không đề” của ông đủ khiến ta khiếp vía mất ăn mất ngủ:
Đôi mắt ướt tuổi vàng khung trời hội cũ
Áo màu xanh không xanh mãi trên đồi hoang
Phút vội vã bỗng thấy mình du thủ
Thắp đèn khuya ngồi kể chuyện trăng tàn
Mới nghe bốn câu thôi, tôi đã cảm thấy lạnh buốt linh hồn, tê cóng cả cõi dạ.
Từ núi lạnh đến biển im muôn thuở
Đỉnh đá này và hạt muối đó chưa tan
Cười với nắng một ngày sao chóng thế
Nay mùa đông mai mùa hạ buồn chăng
Đếm tóc bạc tuổi đời chưa đủ
Bụi đường dài gót mỏi đi quanh
Giờ ngó lại bốn vách tường ủ rũ
Suối nguồn xa ngược nước xuôi ngàn
Tôi hoảng vía đề nghị: Đại sư nên gác bỏ viết sách đi. Và làm thơ tiếp nhiều cho, nếu không thì nền thi ca Việt mất đi một thiên tài quá lớn.
Ông đáp: Để về hỏi lại ni cô Trí Hải xem có đúng như lời thế chăng.
Đôi mắt ướt tuổi vàng
Khung trời
Hội cũ
Xin xuống dòng thư thả như thế. Ắt nhìn thấy chất trang trọng dị thường của hoài niệm. Hoài niệm gì ? – Khung trời hội cũ.
Một hội Đạp thanh ? Một hội nao nức ? – “Giờ nao nức của một thời trẻ dại ?”.
Đôi mắt ướt tuổi vàng khung trời hội cũ…
Mở lời ra, nguồn thơ trực nhập vào trung tâm cơn mộng chiêm niệm. Đầy đủ hết mọi yếu tố bát ngát: một cung trời xán lạn bao la, một hội cũ xao xuyến, một tuổi vàng long lanh… Một đôi mắt ướt ngậm ngùi của hiện tại.
Nhưng mạch thơ đi ngầm. Tiết nhịp âm thầm nhiếp dẫn. Thi sĩ không cần tới một hình dung từ nào cả, vẫn nói được hết mọi điều “phải nói” với mọi người “muốn nghe” với riêng mình “không thiết chi chuyện nói”.
Người thi sĩ xuất chúng xuất thần thường có phong thái khác thường đó. Họ nói rất ít mà nói rất nhiều. Họ nói rất nhiều mà chung quy hồ như chẳng thấy gì hết. Họ nói cho họ, mà như nói hết cho mọi người. Nói cho mọi người mà cơ hồ chẳng bận tâm gì tới chuyện thiên hạ nghe hay chẳng nghe. Nỗi vui, nỗi buồn của họ, dường như chẳng giống lối vui buồn của chúng ta. Do đó chúng ta trách móc họ một cách lệch lạc hết cả (par manque de justice interne).
Trong một cuộc vui, ta hỏi họ vài điều. Họ lơ đễnh thờ ơ, ta tưởng họ kiêu bạc. Trong lúc mọi người đang gào khóc giữa đám tang, họ phiêu nhiên đi qua, trông có vẻ như mỉm cười, niêm hoa vi tiếu. Ta tưởng họ tàn nhẫn thô bạo.
Vua Gia Long ngày xưa đã từng lấy làm quái dị về thái độ Nguyễn Du: “Trẫm dùng người, không phân biệt kẻ Nam kẻ Bắc. Ai có tài thì trẫm trọng dụng (… …). Cớ sao khanh lại u sầu ít nói suốt năm như thế ?”.
Ông vua kia lấy làm lạ là phải lẽ lắm, hợp với lương tri thói thường thiên hạ lắm. Ông không thể hiểu vì sao vị di thần kia cứ miên man như nằm trong cõi mộng thần di, hồn dịch !
Vua đã ban cho chan hòa mưa móc, lộc trọng quyền cao đặc ân thâm hậu như thế, cớ sao Liệp Hộ chưa vừa lòng, vẫn chưa cứ thả
mộng chạy lang thang về chân trời hướng khác.
Đáp: Ấy chính bởi đôi mắt nhìn đây mà thấy những đâu đâu.
Đôi mắt ướt tuổi vàng
Khung trời hội cũ
Đôi mắt ướt ? Đôi mắt của ai ? Vì sao ướt ? Vì lệ trào, hay là vì quá long lanh ?
Thi sĩ không nói rõ. Ấy là giữ một khoảng trống vắng lặng phóng nhiệm cho thơ.
Tha hồ chúng ta tự do nghĩ hai ba lối. Hoặc là đôi mắt thi nhân ướt trong hiện tại vì nhớ nhung một trời hội cũ. Hoặc là đôi mắt giai nhân nào long lanh dịu mật như nước suối chan hòa, soi bóng một khung trời hội cũ bất tuyệt nào, mà ngày nay tại hạ đã đánh mất rồi chăng ?
“Áo màu xanh không xanh mãi trên đồi hoang”
Áo nào màu xanh ? Màu xanh màu chàm của cô gái Mán gái Mường, gái núi nào xưa kia băng rừng và thi nhân đã ngẫu nhiên một lần nhìn đắm đuối ?
Tôi nói không sai sự thật mấy đâu. Vì Tuệ Sỹ vốn xưa kia ở Lào. Cha mẹ ông kiều cư trên đất Thượng Lào Trung Việt. Bà mẹ ông thỉnh thoảng cũng trở về Sài Gòn tới chùa viếng ông đem quà cho ông một đôi dép riêng biệt, một tấm khăn quàng riêng tây.
Đôi mắt ướt tuổi vàng
Khung trời hội cũ
Áo màu xanh
Không xanh mãi
Trên đồi hoang
Phút vội vã bỗng thấy mình du thủ.
Thắp đèn khuya ngồi kể chuyện trăng tàn
Phút vội vã bỗng thấy mình du thủ ? Mình là thân Bồ tát, quanh năm kinh kệ trai chay, thế sao bỗng nhiên một phút vội vã lại dám làm thân du thủ ? Dám gác bỏ kệ kinh ? Dám mở cuộc thắp đèn khuya ngồi kể chuyện trăng tàn ?
Phải có nhìn thấy khuôn mặt khắc khổ chân tu của Tuệ Sỹ, mới kinh hoàng vì lời nói thăm thẳm đơn sơ nọ. Lời nói như ngân lên từ đáy sâu linh hồn tiền kiếp, từ một quê hương trên thượng du bao la rừng núi gió sương canh chiều nguyệt rung rinh trong đêm lạnh.
Từ núi lạnh đến biển im muôn thuở
Đỉnh đá này và hạt muối đó chưa tan
Cười với nắng một ngày sao chóng thế
Nay mùa đông mai mùa hạ buồn chăng
Mối tình rộng thả suốt biển non im lìm lạnh lẽo. Một hạt muối vẫn chưa tan. Một nếp u ẩn của lòng mình bơ vơ không gột rửa.
Từ núi lạnh đến biển im muôn thuở
Đỉnh đá này và hạt muối đó chưa tan
Ta tưởng như nghe ra “cao cách điệu” bi hùng của một Liệp Hộ, một Nerval, một chỗ trầm thanh nhất trong cung bậc Nietzche.
Thi nhân đã mấy phen ngồi ngó trăng tàn ? Ngồi trên một đỉnh đá ? Bốn bề rừng thiêng giăng rộng ngút ngàn màu trăng xanh tiếp giáp tới chân trời xa xuôi đại hải?
Đỉnh đá và hạt muối là hai chốn kết tụ tinh thể của núi và biển. Đỉnh đá quy tụ về mọi hương màu trời mây rừng rú. Hạt muối chứa chất cái lượng hải hàm của trùng dương. Đó là cái bất tận của tâm tình sừng sững tại giữa tuế nguyệt phiêu du:
Cười với nắng một ngày sao chóng thế
Nay mùa đông mai mùa hạ buồn chăng
Một tiếng “buồn chăng” lơ lửng nửa như chất vấn, nửa như ngậm ngùi ta thán, dìu về cả một khúc tâm thanh đoạn trường:
Sen tàn cúc lại nở hoa
Sầu dài ngày ngắn đông đà sang xuân
Đếm tóc bạc tuổi đời chưa đủ
Bụi đường dài gót mỏi đi quanh
Tiết nhịp lời thơ lại biến đổi:
Đếm tóc bạc
Tuổi đời
Chưa
Đủ
Bụi đường dài
Gót
Mỏi
Đi
Quanh
Tiết điệu rạc rời như gót mỏi đi quanh. Một tuổi đời chưa đủ ? Một tuổi xuân chưa vừa ? Một tuổi vàng sớm chấm dứt ? Một tuổi “đá” sớm từ giã mọi yêu thương ?
Giờ ngó lại bốn vách tường ủ rũ
Suối nguồn xa
Ngược nước
Xuôi ngàn
Bài thơ dừng lại. Dư âm bất tuyệt kéo dài trong đêm lữ thư khép mình trong bốn bức tường với nhạt nhòa ủ rũ ngục tù.
Chỉ một bài thơ, Tuệ Sỹ đã trùm lấp hết chân trời mới cũ Đường Thi Trung Hoa tới Siêu Thực Tây Phương.
Thanh Thảo.
.
BÙI GIÁNG
GIANG SAN MỘT GÁNH DỊ THƯỜNG.
___________________________________
Thái Tú Hạp
Lời Giáo Đầu: Những câu chuyện trở thành những giai thoại thích thú trong giới văn học nghệ thuật cho dù đông hay tây vẫn là những câu chuyện đời sống thật bên kia thế giới văn chương. Cho đến bây giờ, mỗi lần nhắc đến những giai thoại đầy chất người của Cụ Tiên Điền Nguyễn Du, Nguyễn Trãi, Nguyễn Công Trứ, Hồ Xuân Hương, Tú Xương, Vũ Hoàng Chương, Hàn Mặc Tử, Nguyễn Nhược Pháp… mới hiểu sự thật rất bình thường của thiên tài lỗi lạc, lừng lẫy tiếng tăm mà tác phẩm để lại vượt qua hàng mấy trăm năm vẫn không giảm đi giá trị sâu xa về văn chương. Có rất nhiều những nhà trí thức triết gia, giáo sư và những nhà thơ, văn Việt Nam viết rất nhiều cõi văn chương tuyệt tác của thi sĩ Bùi Giáng, đều những khám phá, tán dương, ca ngợi một cách chân tình, trung thực. Trong thời gian gần đây có nhiều bằng hữu, đa số họ không ở trong giới sinh hoạt văn học nghệ thuật, vì yêu mến con người siêu lãng tử Bùi Giáng, lẫn thiên tài độc đáo của thi sĩ Bùi Giáng nên đã kể lại những giai thoại buồn vui đầy châm biếm, khí khái, rất tỉnh táo… của nhà thơ mà đa số quần chúng miền Nam một thời yêu mến.
Trước thời điểm lịch sử đầy nghiệt ngã, đau thương 75, trong những sinh hoạt văn nghệ gây nhiều chấn động bất thường nhất ở miền Nam, là hiện tượng Nguyễn Ngu Í, Nguyễn Đức Sơn Sao Trên Rừng, Thế Phong, Phạm Công Thiện và Bùi Giáng… Riêng biệt ở thế giới nửa vời hiện thực và hư vô có Phạm Công Thiện và Bùi Giáng. Phạm Công Thiện xuất hiện như một thiên tài của tuổi trẻ, anh đã đề cập đến trí tuệ uyên bác của Nietzche, của Hegel, của Schelling, của Jean-Paul-Sartre, của Camus… Những giòng thơ trữ tình ẩn mật trong ngôn ngữ Apollinaire hay nỗi buồn cô đơn của con người lang thang trong đời sống… Phạm Công Thiện bao giờ cũng tỉnh táo trong công trình khai phá những tư tưởng hiện đại mới mẻ của thế giới cũng như tình yêu những thiên tài và những siêu nhiên ở cõi hư vô. Cuộc rong chơi trăng sao vẫn triền miên, cho đến những năm gần đây, khi thì ông ở Paris, khi thì Úc Đại Lợi và thỉnh thoảng uống rượu tại Los Angeles với bạn bè đồng điệu… như cánh chim đại bàng vượt đại dương cùng khắp. Ông Nguyễn Ngu Í đã chết ở Saigon và vợ con đang sống những tháng ngày khốn cùng nhất trong địa ngục trần gian. Với Bùi Giáng thì khác. Điên khùng có hơn hai mươi năm qua, làm thơ đến cả ngàn bài và vẫn đuổi theo cõi ảo giác siêu hình. Đã từ lâu, tôi yêu thơ Bùi Giáng từ những tập Lá Hoa Cồn, Mưa Nguồn, Ngàn Thu Rớt Hột… và đã cố ý sưu tầm những nguyên nhân dẫn tới những chấn động mất bình thường trong đời sống của Bùi Giáng. Theo Trần Phong Giao… “Thuở nhỏ, Bùi Giáng học rất thông minh, có năng khiếu xuất sắc về sinh ngữ và văn chương. Lập gia đình năm 18 tuổi, nhưng không được hưởng hạnh phúc bao lâu vì chiến tranh và nạn lụt đã cướp mất vợ và hai đứa con thơ của ông…”. Có thể đây là một trong những giả thuyết biện chứng cho những cơn điên của Bùi Giáng? Ở một tài liệu khác của Giáo sư Vũ Ký, hiện ở Bỉ, viết về những kỷ niệm giữa Giáo sư và Bùi Giáng, Tạ Ký, Nguyễn Thùy là những tâm giao đồng điệu văn nghệ cùng xứ Quảng Nam. Có đoạn Giáo sư đề cập tới Bùi Giáng: “…Năm 1943 Bùi Giáng từ Trung Phước xuống học ở trường Viên Minh, Hội An được một thời gian ngắn, đột nhiên, bỏ về quê sống đời Tô Vũ Mục Dương làm thơ ca hát nghêu ngao giữa trời đất và phát điên từ đó không hiểu nguyên nhân…” nhiều bạn bè thương Bùi Giáng khám phá chiều sâu tư tưởng của ông thì lại nhận định khoa học hơn… “Bùi Giáng có cái biệt tài học và hiểu ngoại ngữ rất nhanh như Pháp, Anh, Đức Ngữ nên ông đã đi vào thế giới của Simone de Beauvoire, Jean Paul Sartre, Heidegger, Somerset Maugham, của Sagan, của Camus, Henry Miller… thêm vào những triết lý của Khổng, Lão và Phật giáo đã làm cho Bùi Giáng nghịch lý triền miên trong tâm thức. Tuy nhiên, Bùi Giáng tinh lọc những tuyệt vời nhất để hình thành những giòng thơ rất Đông Phương và cũng rất là Bùi Giáng:
… Rêu trời phủ xuống hiên xanh
Một bờ chim én vây thành sang thu
Sương Hy lạp phương lên mù
Ba mươi thế kỷ cầm dù dưới mưa
Đầu sông nước gọi cây mùa
Gốc du sung đẩy sông đùa phăng trôi
Cành nguyên thủy mọc xa trời
Chùm xuân xanh thổi lại đời lang thang…
… Chín phương trời tuyết ra bông
Trong nguồn thủy thảo đất đồng khai nguyên
Đầu sơ mộng cuối phi thuyền
Ngàn năm mai trúc chim chuyền bữa nay…
(Lá Hoa Cồn)
Ở những bài thơ khác, Bùi Giáng biểu lộ toàn bộ hình ảnh cất dấu từ trong tiềm thức thuở ấu thơ, chăn dê trên những cánh đồng hoa bát ngát:
…Bữa nay ruộng nhớ lưng trời
Thông ngàn lũng hạ núi ngồi chiêm bao
Ra đi mang hận hội nào
Cổng xô còn vọng điệu chào bay ngang…
Mười lăm năm ngó triều dâng
Bóng trăng thánh thót ngọn gần ngọn xa
Ngọn cây người ở bên ta
Ngọn cây đón bóng trăng tà tà nghiêng
Mười lăm năm mộng kim tuyền
Tính vân như mãi uy quyền đầy vơi
Chim bay cất cánh từng hồi
Chim về ở lại bên đời đời dâng
Mười lăm năm ngọn tử phần
Mù sương cố quận chín tầng tầng rơi.
(Mười Lăm Năm)
Nguồn thi hứng của Bùi Giáng, phát sinh từ những giòng suối róc rách ven ngọn đồi Trung Phước, từ những giọt sương mai lấp lánh trên cành lá biếc, từ những sợi khói lam tương tư chiều trong thôn xóm Vĩnh Trinh, thuở ấu thơ đầy hoa mộng… Thơ Bùi Giáng đã chứa chan tình cảm đôn hậu của hương đồng phấn nội, của đêm trăng tỏa sáng trong vườn cam Đại Bình:
…Ruộng đồng mọc lúa quanh năm
Em về Đại Lộc tôi nằm Bình Dương
Kể ra hai nẻo lộn đường
Sầu riêng châu chấu một nường năm xưa…
Những hình ảnh thân thương lấp lánh trên đôi cánh chuồn chuồn, châu chấu, những giọt sương như đính ngọc trên lối cỏ sớm mai làm sao nguôi ngoai trong tâm hồn thi sĩ, cho dù cuộc đời đã chia cách đôi nơi:
…Bữa nay ruộng nhớ lưng trời
Thông ngàn lũng hạ núi ngồi chiêm bao
Ra đi mang hận hội nào
Cổng xô còn vọng điệu chào bay ngang…
Ở mỗi thời điểm, Bùi Giáng có những giai thoại điên khùng rất là dễ thương vì trong những cơn điên ấy, Bùi Giáng chỉ tự làm tội làm tình chính thể xác ông thôi chứ không làm phiền lụy đến ai. Như trường hợp điển hình Bùi Giáng đang dạy học ở trường Tân Thanh, Saigon của ông Phan Út.
“…Một đêm nọ, Bùi Giáng vào lớp mặc đến bốn áo sơ-mi và nghiêm chỉnh trịnh trọng cởi từng chiếc áo một cho đến khi… trước mặt nam nữ học sinh làm chúng hoảng kinh bỏ chạy ra khỏi lớp… Đoạn ông lấy tay chỉ lên mặt trăng phán lớn: “Các em hãy nhìn lên cao và xem kìa… chân lý… đã xuất hiện…”. Thế là xem như lớp đệ ngũ đông nhất học sinh của trường chỉ trong một đêm là tan hoang. Ông hiệu trưởng chỉ còn có nước nhăn mặt kêu trời!…” Đó là một trong những giai thoại điên của Bùi Giáng trước năm 75. Sau những năm 75, một số anh em văn nghệ sĩ vượt thoát ra hải ngoại hầu như mỗi người đều có mang theo một vài kỷ niệm buồn vui của Bùi Giáng. Như nhà thơ Hà Nguyên Thạch kể lại với người bạn khi ghé về thăm Saigon: “Một người đàn ông ăn mặc rách rưới như ăn mày, lang thang ăn ngủ trên vỉa hè, tụ tập đám trẻ bụi đời móc trong túi còn bao nhiêu tiền cho chúng ăn nhậu no nê. Trên đầu lúc nào cũng đội cái nón nhựa của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa chọc quê mấy anh bộ đội…”. Một người bạn khác trong nhóm Việt Thường ở Canada kể lại chuyện “Bùi Giáng la cà ở các quán chợ trời, dừng chân bên hàng quán bán đồ phụ tùng xe đạp, đang là mục tiêu xem xét của các anh bộ đội miền Bắc mới vào. Bùi Giáng với tay lấy cắp một cái ghi-đông rồi tỉnh bơ quay lưng đi làm cho người bán hàng chạy theo la lối om sòm. Bùi Giáng bình thản đưa lại cái ghi-đông và nói nhỏ nhẹ: “Bà con thấy không? Mới mất một cái ghi-đông đã xớn xác, ồn ào đến như vậy. Sao đất nước mất đi thì chẳng nghe ai than thở tiếng nào… Lạ chưa?” Giáo sư Vũ Ký khi rời Saigon có mang theo nụ cười về Bùi Giáng: “Có lần Bùi Giáng đi bụi đời rồi nằm ngủ đêm trong chợ Trương Minh Giảng. Công an cộng sản bắt Bùi Giáng định lôi về công an Phường đánh đập. Bùi Giáng la to lên giữa chợ: Cụ Hồ hồi đi làm Cách Mạng, ngủ dọc đường xó chợ, ngủ bờ ngủ bụi, đã không bị ai bắt, sau này còn được tiếng dấn thân gian khổ làm Cách Mạng cứu nước, còn tôi theo gương Cụ thì bị mấy ông Công an này bắt bớ làm tội làm tình. Bớ Cụ Hồ ơi! Con cháu Cụ đã bắt tôi đây này! Bớ Cụ Hồ ơi! Cụ Hồ! Cụ Hồ ơi!” Ở một câu chuyện dí dỏm sâu sắc khác do một người bạn ở Hội An cư ngụ tại Los Angeles đã về thăm gia đình ở Saigon qua kể lại… “Một buổi xế trưa ở Saigon trên đường phố Lê Lợi cũ, thoáng thấy vài ba tên Liên Sô đi với một phụ nữ nhởn nhơ qua trước mặt Bùi Giáng. Thi sĩ bất thường này đã xông tới bóp “hai quả dừa” to tướng của con mẹ Liên Sô làm cho mụ ta la hoảng như nhà cháy. Bùi Giáng vẫn đứng lại chỉ chỏ mà rằng: “Có gì đâu mà sợ, để ông xem thử sữa của Liên Sô có đủ để nuôi nổi dân Việt Nam không?” Câu nói của Bùi Giáng làm cho khách qua đường một phen cười khoái chí. Sự kiện viện dẫn quả thật Bùi Giáng vẫn còn thông minh sáng suốt hơn những người sáng suốt. Tất cả những cái bất bình thường mà người ta cho là khùng điên của Bùi Giáng, nhưng với Bùi Giáng thì không có gì phải quan trọng trong đời sống đầy vẩn đục, tham, sân, si, mê muội phù hư giả tướng. Nên ông đùa nghịch khinh thường cái đời sống đó. Nhưng điều gây ngạc nhiên và hoài nghi cho mọi người, cõi thơ Bùi Giáng lại trong sáng, mộc mạc, tuyệt vời thơ mộng như trăng sao:
…Thư em tờ mộng rách rồi
Tim thơ rướm máu vừa rơi thiên đường
Bấy chầy chưa tỏ chưa tường
Vì sao tâm sự như dường như không…
Thiên hạ điên, chứ ông không bao giờ điên. Trong những bài thơ ở Mưa Nguồn, Lá Hoa Cồn, Màu Hoa Trên Ngàn… quả ông đã đưa mọi người yêu thơ lục bát vào cõi say mê tuyệt vời bằng những tư duy mới lạ đầy sáng tạo và bao giờ ông cũng cho ông là những người tỉnh táo nhất:
…Hết điên rồi! Hết điên rồi
Bài thơ bất tận rạng ngời Việt Nam
Còn nguyên châu thổ hội đàm
Giòng sông bất tận
Huy hoàng Cửu Long
Thênh thang dưới nguyệt đêm rằm
Nguyên Tiêu sương tuyết tơ tằm bủa giăng
Người điên ta có gặp người
Người không điên cũng là người gặp ta…
(Hồi Phục)
Năm 1990, nhóm Việt Thường do các ông Luân Hoán, Lưu Nguyễn, Bắc Phong, Hoàng Xuân Sơn, Đỗ Quý Toàn, Lê Quang Xuân… ở Montréal, Quebec, Canada chủ trương, cho ấn hành tập thơ Bùi Giáng gồm 200 bài thơ mới sáng tác sau 75.
Với mục đích nhằm mở đường cho một loạt sáng tác khác, của biết bao nhiêu người vẫn đang “đưa đầu trần, đứng một mình chống lại tất cả những thế lực đen tối đang vồ chụp quê hương”. Nhờ đó, chúng ta có cơ may đọc những bài thơ mới của Bùi Giáng nơi đất khách quê người:
…Đi về mây gió về theo
Đá vang tiếng ngựa ngọn đèo đầu khe
Đầu truông nắng dựng hội hè
Ngàn hoa mộng tưởng há dè sử xanh…
(Bình Minh III)
…Ban sơ thế điệu phiêu bồng
Về sau rớt một chùm bông quê nhà
Bây giờ một lúc uống trà
Ăn qua loa chút gọi là tái sinh…
(Tặng Cố Nhân)
Hai trăm bài thơ như giải trường giang Thu Bồn từ Hòn Kẽm Đá Dừng cuốn trôi ra Cửa Đại, hòa nhập vào Thái Bình Dương, đầy tình người và quê hương dân tộc. Nói đến Bùi Giáng ở nhiều phương diện khác nhau, ở văn chương, ở đời sống, ở bạn bè và ở cõi hư vô khùng điên đáo để. Nhà văn Mai Thảo đã kể những kỷ niệm lý thú về Bùi Giáng ở Saigon trên những số Văn đặc biệt về Bùi Giáng khi ở trong nước và lúc ở hải ngoại. Nhà văn Võ Phiến, Viên Linh đã viết về Bùi Giáng trên Bách Khoa ngày xưa và Thời Tập bây giờ. Trần Phong Giao với Tất Cả Bùi Giáng, Du Tử Lê trong Năm Sắc Diện, Năm Định Mệnh, Cao Thế Dung qua Văn Học Hiện Đại, Thi Ca và Thi Nhân. Tạ Tỵ tác giả Mười Khuôn Mặt Văn Nghệ Hôm Nay. Không ai còn xa lạ đến cái quê quán sinh thành ra Bùi Giáng: Quảng Nam. Miền đất đã hình thành những nhà Cách Mạng như Phan Châu Trinh, Trần Quý Cáp, Nguyễn Duy Hiệu, Tiểu La Nguyễn Tất Thành, Huỳnh Thúc Kháng, Hoàng Diệu, Phạm Phú Thứ, Thái Phiên, Ông Ích Khiêm, Phan Thành Tài…
Quảng Nam còn nổi danh “Ngũ Phụng Tề Phi”, nơi khoa trường như các tiến sĩ thủ khoa là các ông Phan Quang, Phạm Liệu, Phạm Tuấn, Ngô Lý và Dương Hiển Tiến… Ngoài thiên tài Bùi Giáng, cái xứ “đất Quảng Nam chưa mưa đà thấm. Rượu hồng đào chưa nhấm đà say…” đã đào tạo nhiều thế hệ văn nghệ sĩ như Phan Khôi, gia đình Nguyễn Tường Tam, Tú Quỳ, Phan Tứ, Nguyễn Văn Xuân, Phan Du, Phạm Hầu, Nam Trân, Nam Xuyên Phan Quảng Nam, Trương Duy Hy, Luân Hoán, Hà Nguyên Thạch, Vũ Ký, Ảo Giản Phan Ngô, Tạ Ký, Đinh Hoàng Sa, Thành Tôn, Hoàng Quy, Hoàng Lộc, Lê Trọng Nguyễn, Lôi Tam, Lưu Bạch Đàn, Dương Minh Ninh, Dương Minh Hòa, Phan Nhự Thức, Huỳnh Nhâm, Nguyễn Nho Nhượng, Nguyễn Nho Sa Mạc, Hoàng Thị Bích Ni, Hương Nhân, Huệ Thu, Lưu Nguyễn, Nguyễn Chí Thiệp, Trần Huỳnh Châu, Đynh Trầm Ca, Vũ Hữu Định, Tường Linh, Trầm Tử Thiêng, Hồ Thành Đức, Du Miên, Phổ Đức, Huy Tưởng, Hà Quốc Huy, La Hối, La Thoại Tân, Vũ Hối, Cung Tích Biền, Trần Trung Đạo, Phùng Nguyễn, Phan Xuân Sinh, Lê Uyên Phương, Phùng Minh Tiến, Thái Tú Hạp… “… Theo nhận xét của cổ nhân, có thể vì chịu ảnh hưởng của sơn kỳ, thủy tú, nên dân Quảng Nam phần đông có tư chất thông minh, cần cù, hiếu học. Sĩ phu thì có khí tiết, cứng cỏi ngay thẳng, bộc trực nhưng vì thổ lực không hậu, mà thế nước chảy xiết, cho nên tính người ít trầm tĩnh, phần nhiều nóng nảy…” (Tài liệu Hứa Hoành). Qua phân tích của người xưa đã viện dẫn, không biết có ảnh hưởng gì đến cái thể tính bốc đồng gàn dở, ngang bướng của Bùi Giáng mà người đời bình thường gọi ông là “thi sĩ điên”? Ở những cảm tình mến mộ tài hoa Bùi Giáng khác thì gọi ông là nhà thơ rong chơi ở cõi “Giang sơn một gánh dị thường!”
THÁI TÚ HẠP
.
Mùa Xuân
và
Thơ Tình Bùi Giáng
________________________
HÀ QUẢNG
.Thưa rằng ly biệt mai sau
Là trùng ngộ giữa hương màu Nguyên Xuân… Bùi Giáng,một thi sĩ đặc biệt của nền thơ đa dạng Việt Nam hiện đại.Ngưòi ta đã nói nhiều về ông và chắc theo thời gian về ông còn nói nhiều nữa! Bùi thi sĩ sinh ngày 17-12-1926 tại huyện Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam, mất năm 1998 tại Sài Gòn. Ông là con trai thứ của ông Bùi Thuyên và bà vợ lẻ Huỳnh Thị Kiềng. Tốt nghiệp trung học khi tuổi vừa đôi mươi , học chưa xong Đại học Văn khoa, ông bỏ dở, đeo đuổi sự nghiệp văn chương. Văn nghiệp của ông gồm nhiều thể loại: Lý luận – phê bình ,biên khảo triết học, dịch thuật văn chương, sáng tác Thơ, Văn …Lĩnh vực được
người đọc nhắc đên nhiều chính là Thi ca, có thể kể tên một số tác phẩm tiêu biểu : Mưa nguồn, Rong rêu, Lá hoa cồn, Ngàn thu rớt hột, Mười hai con mắt, Mùa màng tháng tư, Bài ca quần đảo,Màu hoa trên ngàn, Đêm ngắm trăng, Thơ vô tận vui v.v. Bằng một phong cách nghệ thuật rất riêng, ông đã tạo nên một cõi mông lung huyền ảo về quê hương ,đất trời , về cỏ hoa muôn vật, về nhân sinh, về Đạo… Tất cả như lãng đãng sương mù ,như hoa đăng, ảo ảnh.Thế giới trong thơ ông như trong một kính vạn hoa. Ông là một bậc thầy về ngôn ngữ Việt và thể tài thơ lục bát. Thơ ông có nhiều câu, nhiều bài rất thuần khiết nhưng cũng có nhiều bài lời thơ mơ hồ phiêu lãng chập chờn giữa đôi bờ thực và mộng, nối cõi nhân sinh trầm luân thực tại và thế giới ảo huyền siêu thoát . Nó là những cơn mơ giữa đời thực, đôi khi như là một “ru – bích” của trò chơi tâm linh .
Trong cái biển thơ mông lung huyền ảo đó ta bắt gặp một dải thơ nói về tình yêu khá chân tình và giản dị, tuy cũng không thoát khỏi cái sương khói mơ màng chung của thơ ông .
Thơ tình Bùi Giáng tỏa thành hai nhánh, một về cõi thực, một về cõi mơ và đều gắn với một không gian, một xứ quê mà ông gọi là “cố quận”. Đó là một quê thực xứ Quảng của ông nhưng cũng là một xứ mơ, một quê xưa , nước cũ đầy khái quát mơ hồ .
…Đất hoa khóc vĩnh biệt người
Ngàn cây cố quận đôi lời sương thu …
Dọc theo miền Trung cằn khô chúng ta tới đất Quảng, ngược dòng Thu Bồn đến sông Vu Gia, rồi ngược mãi lên sông Côn, sông Bung, qua Hòn Kẽm, Đá Dừng…nghe bâng khuâng những câu ca dao xa xót một thời xứ sở phân tranh
“Ngó lên Hòn Kẽm , Đá Dừng
Thương cha nhớ mẹ quá chừng bạn ơi !”.
Cuộc hành trình tiếp tục , ta sẽ như thấy mình trôi trong cổ tích: một sông nước mênh mông, những làng thôn trải dài qua những nương dâu xanh ngát, kẽo kẹt xa quay tơ tằm vàng óng, sẽ hiểu thêm một phương diện thực tế của hai từ “cố quận”. Đó chính là nơi chôn rau cắt rốn, nơi chứa đầy những kỷ niêm một thời của ông. Nhớ người từ những buồn vương, xa người từ thuở đoạn trường diễn ra? Cuộc thế thăng trầm buồn vui hư ảo, khi muốn trở về thưc tại,về với những an ủi, về với cái thuở ban đầu đầy ấp iu nồng đượm, con đường ngắn nhất và dễ tìm về nhất là cố quận – quê xưa!
Khi nói về những mối tình, về những người con gái đi qua đời mình, Bùi thi sĩ đều mơ màng và nâng niu. Kỷ niệm sau đây về một người cũ nơi miền quê xa thấm đượm một tình cảm se sắt , trìu mến:
Bây giờ em đứng nơi đâu
Cỏ trong mình mẩy em sầu ra sao?
Gắng thu xếp gấp rồi vào
Tấm quần năm trước phai màu rồi phải không?
Trong này thiên hạ rất đông
Ăn mặc thật đẹp nhưng trong không mặn mà bằng em..
Nhà thơ buồn nhớ không biết em giờ ở đâu và “ cỏ trong mình mẩy” của em “sầu ra sao?”. Câu thơ đầy ẩn ý, hư hư thực thực, trần thế mà phiêu bồng, rồi “Tấm quần năm trước phai màu rồi phải không?” Tại sao là “tấm” mà không là “cái”, là “chiếc” hay chỉn chu hơn là ”manh” (tấm áo, manh quần). Chữ “tấm“ ở đây rất dân giã thể hiện được cái nghèo của đối tượng nhưng phủ đầy sự thân thương của tác giả .Chao, thi sĩ tuy mơ màng nhưng câu hỏi ở đây, rất thực, rất chân tình, có cái gì như bẽ bàng như trách móc mà cũng đầy thương yêu!
“Trong này thiên hạ rất đông” –
người thành phố mà, ăn mặc cũng thật đẹp nhưng tác giả không thấy “mặn mà” như em nơi thôn dã ( chắc em ở miệt ngoài chân quê). Con người bao năm mơ màng nơi phố phường nhưng tận sâu trong lòng vẫn da diêt một thâm tình quê kiểng, nâng niu vẻ đẹp mặn mà nguyên sơ .Và với một tình cảm như vậy nên từ khi cất bước “khắp bến giang hà” thì ở đâu cũng không nghĩ đến ai khác ngoài em thân thuộc, ngọc ngà “Nơi nào cũng thấy ngọc ngà đèo truông”.
Câu thơ gợi cả hai trường nghĩa đen và nghĩa bóng ! Còn thì nhớ nhung , mất thì xa xót, cái tình người của Bùi cũng rất nhân thế .
Người bạn tấm mẳn của Bùi Giáng qua đời đã ngót nửa thế kỷ, có lẽ cảnh chia biệt đó đã tạo cho ông những xót xa buồn khổ, để rồi từ đó ông thổ lộ một cách vô cùng sâu sắc trên những trang thơ, dựng nên bóng
dáng ấm áp của những người em, người vợ . Một nỗi nhớ nhung xa xót khôn nguôi,đôi tình nhân lỗi hẹn:
Em ở lại với đời ta em nhé
Em đừng đi cho ta nắm tay em ..
Bên cạnh những người em rất thực thì thơ Bùi cũng thường nói nhiều đến những người em rất mộng – nguồn tạo sinh muôn màu trong cuộc thế ! Những vần thơ xinh tươi diễm ảo đầy sức khêu gợi nói về cây cỏ , mặt trời , chim chóc …tất cả đều trào dâng sức sống , đều từ em, nhờ em mà sinh sôi.
…Một hôm nào em mở cửa đầu khe
Và bữa đó đến bây giờ cỏ rạ
Thi nhau mọc mặt trời lên lả tả
Bông lúa chín trong rừng kêu tiếng lá
Chóc chim xanh đòi đẻ trứng bây giờ …
Em là cái chân dung toàn thiện toàn mỹ của người nữ trong cuộc đời : em ở khắp nẻo đường, em là mây gió, là cây lá, là sông hồ..Tác giả nâng hình ảnh em lên tầm hoàn vũ :
…Em là em anh đợi khắp nẻo đường
Em có nụ cười buồn mây mọng
Em có làn mi khép lá cây rung
Em có đôi mắt như sầu xanh soi bóng
Hồ gương ơi! Sao sóng lục vô chừng !
Những câu thơ vừa thực vừa ảo. Những câu thơ nói về một người con gái đẹp đẽ, thánh thiện nhưng là của một tình yêu chiêm bao, một tình yêu khoáng dật vô thường !
Ta sẽ đặt mười ngón tay lên mắt
… Ồ thưa em ta thấy mộng không thường .
Cái chất Bùi Giáng huyễn hoặc thể hiện ở cái “mộng không thường” này. Em như sương khói, như suối nguồn, em đến làm dịu mát tâm hồn thi sĩ nhưng em không hiện hữu trong đời thực, dẫu “ôm em trong vòng tay” thì “ em vẫn trôi”, “vẫn chảy lọt qua hai vòng tay khép chặt” !
Ta thả một chiếc lá, chiếc lá trôi
Ta thả một con thuyền giấy, con thuyền giấy trôi
Ta ôm em trong vòng tay,Em vẫn trôi…
Tình yêu trong thơ Bùi Giang, đối với chúng ta vẫn như một định đề muôn thuở ,vừa quen vừa lạ. Quen vì nó mang đến cho hồn ta sự ngọt ngào của tình người như rượu ngọt và cũng mặn chát bẽ bàng như thuốc đắng, mà thiếu nó vũ trụ sẽ không hồn. Nó lạ vì khác những tình yêu mà ta đã gặp hoặc nồng nàn như Xuân Diệu, bẽ bàng như Huy Cận, phiêu du như Vũ Hoàng Chương…, tất cả đều rất thực , thực đến mức “cắn”vào được, nhưng cáí tình của Bùi lại lưỡng phân vừa thực vừa mộng, vừa đời vừa đạo ,vừa chạm tay vào đã sương khói bay xa, đôi lúc ảo giác và cuồng vọng gần với Hàn Mặc Tử …
Một sắc thái khác của thơ tình Bùi Giáng không thể không nói đến, bên cạnh cái đằm thắm , cái ảo huyền lại còn nữa cái đuà cợt châm biếm . Một sắc thái “tự trào” làm đa dạng thêm cái “Tình“ trong thơ ông. Một cái tình thoáng qua,một cái tình thất vọng nhưng sự thất vọng, sự bất lực được thể hiện trong một chuỗi cười rất đáng được chia xẻ.
Gọi là gặp gỡ giữa đường
Trái tim không chịu giữa đường rút lui
Bỏ đi buồng phổi sụt sùi
Trái tim không chịu lau chùi máu me…( Kẻ qua đường )
Nhà thơ không nói gì đến cái đối tượng ái tình cuả mình , không cầu xin, không trách móc như những vần thơ khác trong trường hợp tương tự ta thường gặp .Ở đây nhà thơ chỉ nói về cái “tình si” quá mức của mình, vừa bày tỏ vừa chế giễu , nhưng chắc rằng, sau cái “sụt sùi” , cái “máu me” này nhà thơ chúng ta vẫn vui vẫn sống. Đó là cái nét ngồ ngộ của ái tình Bùi Giáng mà có nguời cho rằng “thái độ hậu hiện đại trong thơ”( Hoàng Ngọc Tuấn ).
Bản chất của những vần thơ tự trào là nhà thơ “tự yêu” cái kém cỏi, cái bất lực, cáí vô dụng của mình ; tự cười nhạo , tự chế giễu, nhưng đằng sau cái cười nhạo đó âm thầm che giấu một tâm tình kiêu bạc thách thức
“ta trong giữa đời đục” !
Đã hơn mười mùa xuân thi sĩ ra đi , văng vẳng bên tai ta một câu hỏi đau đáu khi xuân về :
Mùa xuân em có về không?
Nhành mai cố quận trổ bông dịu dàng…
Câu hỏi nghe xao xuyến và nếu ta thay “cố quận” bằng một tên làng cụ thể thì câu thơ quả thực chính là tâm trạng của chính ta, của bao người xa quê, bao kẻ ra đi vì cuộc mưu sinh mong ngóng ngày gặp gỡ nhất là những dịp xuân về tết đến.… Nhưng “cố quận” của Bùi Giáng phải chăng là một từ phiếm chỉ , một miền đất đã lìa xa, một kỷ niệm, một ước vọng hơn là một thực tại. Và người em, và tình yêu nơi ông cũng chỉ gợi ta về một giấc mộng nơi “bờ nước cũ” của người “em xưa” .
Ta sẽ đến đứng bên bờ nước cũ
Mộng xanh ngần giậy nối giấc em xưa…
hoặc may mắn hơn, thì cũng chỉ là chốn đào nguyên tương tư hai hình bóng:
Bờ cõi dựng xuân xanh em còn đó
Bến đào nguyên anh khoác áo khinh cừu…
Bùi Giáng quả một thi sĩ đặc biệt, thật khó hình dung nền thơ Việt Nam hiện đại lại thiếu ông.Thơ tình của thi sĩ góp phần tạo nên cái sự riêng,cái nét đặc biệt đó .
Hà Quảng
.
.
.
.
Viết vào Bùi Giáng mong manh.
____________________________________
ĐỖ QUYÊN
“Đêm nay
Những lứa đôi gặp gỡ
Để ngày mai
Ra đời
Những đứa trẻ mồ côi”…
(Bertolt Brecht)
Trong bài Bài Thơ Ấy của Trung niên thi sĩ, có hai câu
“Viết vào tờ giấy mong manh
Bao nhiêu tình tự long lanh không lời”.
Đọc thơ Bùi Giáng là thuốc thử về quan niệm thơ, về mỹ học thi ca. Đã và sẽ không ai sai nhiều lắm, cũng không ai đúng là bao, khi bình bàn về thơ họ Bùi. Nhắc về cái tuyệt đỉnh trong thơ Bùi Giáng, độ cao sâu tư tưởng ở trước tác Bùi Giáng nhiều bao nhiêu cũng thấy thiếu; mà chỉ ra những câu thơ dở, những bài thơ tệ, những đoạn văn chán trong chữ nghĩa Bùi Giáng bao nhiêu cũng bằng thừa.
Cái Hay cái Dở ăn ở ở thơ Bùi Giáng
Hay dở dở hay: Đây là đầu mối của các bình giá về thơ Bùi Giáng!
Đa số các nhà phê bình đều đánh giá thơ Bùi Giáng đến mức cạn nguồn tiếng Việt ở độ ca ngợi. Tôi theo “phe” này, nhưng ngợi ca bằng lời nôm: thơ Bùi Giáng, một là: hay… ơi là hay; hai là: không phải chỉ có hay! “Phe” chê thì không nhiều, điển hình là Trần Hữu Thục, Thụy Khuê, Phan Nhiên Hạo…
Giá có ai cầm bút dọa… giết, tôi cũng không đồng ý với Trần Hữu Thục rằng: “Nói cho rõ ràng ra, thơ của Bùi Giáng dở. Trừ một số câu thơ hay – chưa hẳn là rất hay –, còn lại hầu hết thơ ông đều dở”, “Ta có thể nói, cái dở trở thành tính cách của thơ ông”. Cũng như ít san sẻ được với Thụy Khuê: “Bùi Giáng để lại hàng ngàn bài, có những câu thơ tuyệt hay, nhưng chính sự lập lại những khám phá ngôn ngữ buổi đầu khiến thơ ông trở thành khuôn sáo về mặt từ ngữ cũng như tư tưởng”. Vâng, sự nhàm lặp là có. Nhưng với cái “thằng” nhàm lặp chịu trách nhiệm ở nhiều câu dở, cũng khó có thể thể thổi tội hắn lên như vậy. Trong một dịp ngồi chuyện phiếm với Phạm Duy, tôi nhắc đến thơ họ Bùi với ý ca, họ Phạm gật gù vẻ cho qua, rồi không đừng được ông hơi nhăn mặt: “Nhưng lắm câu nhàm! Lặp lại quá, cậu ạ!” Cái nhàm ở cấu tứ, nhịp điệu, ngôn từ trong thơ Bùi Giáng, nhiều người nhận ra như thế. Nguyễn Hưng Quốc đã bình giá thơ Bùi Giáng mà tôi nghĩ có thể như một lý giải khả ái về vụ nhàm lặp: “Tôi cho đây là đặc điểm nổi bật nhất trong phong cách thơ Bùi Giáng: thơ Bùi Giáng chính là sự xoá nhòa của mọi đường biên quen thuộc vốn được mọi người chấp nhận như là một quy ước, một luật lệ trong văn học từ xưa đến nay”. Tôi thật tiếc cho Thụy Khuê khi chị tiếc cho một cái tiếc xây nên tất cả “ngôi nhà Bùi Giáng”, tác phẩm cùng con người: “Cho nên biết bao lần người đọc tiếc, giá Bùi Giáng đừng ham chơi, chịu khó dừng lại ở chỗ đáng dừng để những câu thơ sáng giá (…) khỏi bị lọt vào khu rừng hoang, ôm đồm những lời thơ vội vàng, mọc lên như cỏ dại”. Ô! Nếu như Bùi quân đừng thế này phải thế kia (đóng complet, leo lên mạng mà chat mà mail thì thơ của ông đã… giáng trần mất rồi!
Thưởng thức thơ, bất nhất như với ẩm thực. Vì “mùi sầu riêng” ở thơ Bùi Giáng mà sinh tranh cãi – đó là điều dễ hiểu. Như, trong bài Tặng Quán Phở Huyền Trân,
“Hai cô bán phở dịu dàng
Đừng nên nói bậy hai nàng buồn ta
Trẫm từ lịch kiếp phôi pha
( . . . )
Tuỳ thời thể dựng mà tuy nhiên là”
khi mà Nguyễn Hưng Quốc ngạc nhiên “Ai cũng thấy rõ hai câu đầu và sáu câu sau có giọng điệu khác hẳn nhau. Vậy mà, riêng tôi, thú thật, tôi không hiểu tại sao Bùi Giáng có thể chuyển từ hai câu đầu xuống sáu câu dưới một cách dễ dàng tự nhiên như vậy”, thì cũng thú thật là tôi hiểu tại sao rồi.
Cái dở trong thơ của các nhà thơ hay
Sẽ rất thú vị về những phát hiện vết đen trên mặt trời thi ca mà các chiêm tinh gia, thiên văn gia với đầy đủ kính viễn vọng, vô tình hay cố ý, hoặc bị ràng buộc bởi cách thức phê bình đã không nhận ra ở các bài phê bình mô phạm. Cái dở trong thơ của các nhà thơ hay. Đó không phải dọn vườn thơ ở các thi sĩ đã mang thương hiệu. Càng không là hành vi “lật đít tượng” hay “đốt đền”! Đó cũng không hẳn là “nói đến cái dở thì cũng chỉ cốt làm nổi cái hay” (Hoài Thanh). Tìm hiểu điều dở trong thơ ở các thi nhân, xét cho cùng, là – vươn qua các thi nhân cụ thể – để thấy cái thú vô tận trong cõi chung, bất định, bất toàn của nghệ thuật thi ca.
Với các bậc kỳ tài, có những cái dở tệ trong thơ có thể chấp nhận được. Nhưng, thơ rất khó tính: có những cái thơ không thể cho phép một nhà thơ đã đến thế mà lại có thể hạ một chữ thơ, một câu thơ, một bài thơ như thế. Điều đó nằm ở đâu: Đề tài? Nội dung? Chi tiết? Câu chữ? Cấu tứ? Hình tượng? Nhịp điệu? Âm vần? Xúc cảm? Tất cả đều có thể. Và ở từng tác giả, từng câu, bài cụ thể nó hiện ra mỗi cách, khi hiển hiện khi ẩn tàng. Trong thơ, chúng là cái dở vô cớ; nói nôm là lãng xẹt, vớ vẩn. Phân tích từng nhà thơ với văn phong, tính cách, cuộc đời, bối cảnh xã hội… ta có thể tiếp cận nguyên do của các cái dở vô cớ. Nói chung, với những nhà thơ tránh được lỗi này, ta gọi họ là những người biết tự biên tập thơ. Làm thơ là khó, là phiêu lưu; biên tập thơ là chuyện sống chết! Chiến công trong các chuyện sửa thơ thường được lưu truyền như giai thoại.
Bạn bè chúng tôi hay bày trò lập “Top” cho thơ Việt hiện đại. Đương nhiên kết quả rất khác nhau. Tùy sân chơi. Tôi ghi nhận được rằng Bùi Giáng thường có trong “Top-10”; thi thoảng lọt vào “Top-7”; rất hiếm khi trúng “Top-5”. Trong các nhà thơ được xếp hạng đó, hình như Thanh Tâm Tuyền, Huy Cận là các nhà thơ ít có những cái dở vô cớ. Xuân Diệu, Nguyễn Bính rồi Bùi tiên sinh nhà ta là các đấng tài hoa kiêm các đấng “hơi bị nhiều” các cái dở vô cớ, các đoạn, bài vớ vẩn. Thật chí vớ va vớ vẩn! (Ở đây không xét những gì gọi là “phục vụ chính trị” đưa đến cái dở vô cớ của một số vị nói trên. Nhấn mạnh: quan hệ giữa chính trị và chất lượng thơ lại là một đề tài khác. Ta đang hàm ý việc nhiều nhà thơ vốn không hạp gu chính trị thì dễ có cái dở vô cớ ở thơ trong khi phải phục vụ chính trị tức thời.)
Còn điều nữa, tương tự: Cái dở trong các bài thơ hay. Tìm hiểu điều dở, điểm bất cập trong những thi phẩm đã được xếp hạng kinh điển xét cho cùng, là – vươn qua các thi phẩm cụ thể – để thấy cái thú vô tận trong cõi chung, bất định, bất toàn của thi ca.
Hàn Mặc Tử có thơ rằng “Người thơ phong vận như thơ ấy”. Bùi Giáng có một đời thơ; và trên hết, còn có những bài thơ, có một trường thơ vĩnh cửu trong làng thi ca tiếng Việt.
Các tiểu phẩm, dịch phẩm, biên khảo, sách giáo khoa của thi sĩ dường như chỉ mang giá trị tinh thần, không nhiều người tìm được giá trị sử dụng. Đọc xong ít nhiều trang văn xuôi của ông, tôi chẳng biết dùng nó vào việc gì, nhưng đinh ninh chúng là thứ của chìm cho hành trang sáng tác, suy tư của mình. Còn với Phan Nhiên Hạo: ” (…) biết rõ, ngay từ lần đầu tiên đọc Bùi Giáng, tôi không thích văn chương ông. (…) và tôi không chịu được dịch thuật của ông. Thơ ông làm theo những thể điệu cũ, vừa trong sáng nhưng cũng vừa cầu kỳ, giọng điệu vừa đùa cợt lại vừa trịnh trọng, và phảng phất một không khí cổ. Còn dịch thuật, phải nói ông phóng tác thì đúng hơn. Mà phóng tác như viết kiếm hiệp. (…) kiểu văn chương “phiêu bồng” của Bùi Giáng dường như ở quá xa mặt đất đối với tôi.” Trang lứa đàn em Phan Nhiên Hạo bây giờ, chắc sẽ dành hàng giờ để sục xạo các mạng hơn là đọc những trang văn Bùi Giáng nửa đùa nửa thật, nửa thấp nửa cao. Nên tôi giật mình trước chi tiết Nguyễn Hữu Hồng Minh đưa ra: “Bùi Giáng rất hay nổi điên khi có một người nào truy bức ông đến cùng. Cho dù đó là thi ca hay học thuật. Tôi cho rằng ông tránh các cuộc va chạm nảy lửa và tàn khốc ấy với hai lý do: Một, cuộc đời ông quá đủ đầy như một minh chứng; và hai, ông không muốn tái lặp lại bất cứ một đặt đề, một định đề nào cho nghệ thuật”. Phải chăng chính tiên sinh nhận ra, hơn ai hết, chất lỏng lẻo, bất nhất, tang bồng trong các áng văn thơ đó và ngài ngại bị chất vấn đến cùng? Hay vì ngài là cái nòi không muốn đặt đích cho công việc, nên không chịu trước tác “thẳng lối ngay hàng” để có các trang bài mà Phan Nhiên Hạo trông chờ? Nền văn nghệ, văn hóa miền Nam 1954-1975 với đặc thù của mình đã sinh ra được vài kỳ nhân. Xã hội Việt Nam trong hơn một thế kỷ qua, chưa ở đâu có được những Bùi Giáng, Trịnh Công Sơn, Phạm Công Thiện như vậy. Những “thiên thần” đó đều có… “ma quỷ” trong mình.
Nhìn Bùi Giáng “đi vào cõi thơ”
Đi Vào Cõi Thơ, có thể xem đây là tập phê bình (nửa bình luận nửa nhận định) văn chương đặc trưng phong cách Bùi Giáng. Không khó đọc, như nhiều trang văn xuôi khác của ông. Nhà xuất bản An Tiêm, Paris, 1998, tái bản (từ bản in lần đầu 1969, nhà Ca Dao, Sài Gòn, 1969); hai cuốn, mỗi cuốn trên dưới 160 trang, khổ thường, trình bày sang, trong sáng. Nhìn chung các bài đều ngắn, 2-3 trang, nhiều bài chỉ 5-6 câu, nửa trang. (Gọi là trang cho tiện, chứ các trang của hai cuốn sách này chứa rất ít chữ). Ở cuốn Hai (mang tên Thi Ca Tư Tưởng – Sổ Đoạn Trường) kích cỡ các bài khá đều; cuốn Một thì thất thường: những bài chỉ 3-4 câu (về Dylan Thomas, Walt Whitman); vài bài thiệt dài: về Huy Cận (21 trang), Hoài Khanh (13 trang), Quang Dũng (8 trang), Tuệ Sỹ (8 trang). Nếu Anton Tchekhov làm phê bình gia, chắc ông sẽ không cần phải mơ đến “những bài gọn bằng một bàn tay” nữa. Chúng có trong Đi Vào Cõi Thơ rồi!
Bùi Giáng đã phê, bình, bàn… về nhiều nhà thơ, nhà tư tưởng cổ kim Đông-Tây. Ở cuốn Hai, vài chủ điểm chung chung cũng được đáo qua (dịch, thi ca, triết lý, Thượng Đế). Chừng 90 tác giả khá tiêu biểu được chọn làm tên bài, và hầu như tên bài cũng chỉ là tên tác giả cần bàn tới. Những tác giả được viết thành bài nhiều nhất là Hồ Dzếnh (7 lần), Nguyễn Du (6), Xuân Diệu (3), Huy Cận (3), Đinh Hùng (3), Phạm Hầu (2), Hoài Thanh (2), Đỗ Long Vân (2), Hoài Khanh (2), Mai Vân Thu (2), Khổng Tử (2), Shakespreare (2), Martin Heidegger (2)… Một lần tác giả tự bình mình, trong bài Bùi Giáng (trang 98, cuốn Một).
Nhà An Tiêm đã có một thao tác thừa mà rất nhà nghề, khiến tập sách và tác giả thêm điểm: Lưu ý độc giả rằng tác giả, vì các hoàn cảnh éo le, không thể viết tiếp các tập 3, 4, v.v… như dự định “để cố tránh sự ngộ nhận, bởi vì còn nhiều nhà thơ tài ba mà Bùi Giáng chưa đề cập đến.” Khỏi cần thanh minh. Mọi cách thức phê bình đều có chỗ mạnh yếu. Bản thân lối phê bình theo thị hiếu cá nhân đã là bất cập về tuyển chọn. Chả thế Hoàng Trung Thông từng viết về Hoài Thanh: “Đừng trách anh tại sao chỉ nói nhiều về người này mà ít nói về người kia.” Cũng như các tác phẩm hay dở dở hay của Bùi Giáng, tập sách này nếu biên tập chỉn chu, chắc phải bỏ đến mươi bài.
Phương cách luận thơ của ông cũng theo lối bình giải văn học, với nội dung và hình thức độc nhất vô nhị. Và, vẫn như Hoài Thanh – Hoài Chân làm Thi Nhân Việt Nam, cách tuyển chọn, bình giải ở đây không qui luật, hoàn toàn “phê bình cảm thụ hồn nhiên theo thị hiếu cá nhân”. Phong cách của Hoài Thanh thì sang cả, nhẹ nhõm mà tinh vi. Còn với Bùi Giáng “nhiều khi đọc lên thật bàng hoàng. Với nhận xét tinh tế, độc sáng về một khía cạnh nào đó của một tác giả thơ nào đó.” (Tạp chí Thời Văn, Sài Gòn; trang bìa cuối cuốn Hai). Tôi còn nhớ, khi đọc lần đầu, các bài như những đoản kiếm khi đâm thẳng lúc lao xiên vào nỗi ham biết về thơ ca, vào cái tò mò về Bùi Giáng của tôi. Trong bài về Hoài Thanh (trang 70, cuốn Hai), Bùi Giáng đã viết về người thày cũ của ông, rằng phong cách phê bình Hoài Thanh tạo ra “không biết bao nhiêu con đường cho những thi sĩ và phê bình gia đi sau”. Xin được nói thêm: Bùi Giáng là một. Người sau nên và có thể đi theo Hoài Thanh được; và người sau không nên mà cũng không thể đi theo Bùi Giáng được.
Bài đầu tiên của cuốn Một, về Tuệ Sỹ, là một áng phê bình không thể nào quên. Làm ta hiểu đúng và hiểu hay về Tuệ Sỹ, nhà sư-nhà thơ mà theo tôi có thơ hay nhất trong giới tu hành (tức tính cả Phạm Thiên Thư.) Các bài hay khác: Hoài Thanh, Hàn Mặc Tử, Nguyên Sa, Đỗ Long Vân, Huy Cận…
Bài Vui Nhất Và Buồn Nhất (trang 110, cuốn Hai) là tản văn ngắn, dung dị, châm đến một cốt tủy của thơ, ít người viết ra: làm sao nói được nỗi vui nhất bằng thơ! Xứng đáng đứng vào văn tuyển cho học sinh.
Bài Đỗ Long Vân (trang 66, cuốn Một) chỉ có ngần này câu chữ – “Đỗ Long Vân không làm thơ, nhưng lại là kẻ có tâm hồn thơ sâu đậm thâm thiết rộng rãi hơn bất cứ kẻ thi sĩ nào. Trường hợp ông cũng như trường hợp Trần Trọng Kim, Đào Duy Anh… mang tâm hồn thi sĩ giấn mình vào cuộc biên khảo ngậm ngùi” – mà sao lênh láng, ngậm ngùi. Ở sự đúng và sự thơ. Bài Đỗ Long Vân khác ở trang 87 cũng trúng lắm!
Bùi Giáng tài đúc những câu bảng hiệu cho nhiều tác giả: “Nguồn thơ Đinh Hùng trong Mê Hồn Ca là nguồn thơ lạ nhất trong thi ca Việt Nam.” (trang 38, cuốn Hai); “Ngôn ngữ thơ Việt Nam thành tựu bởi Nguyễn Du. Văn xuôi Việt Nam đạt tới cõi thâm viễn với Hoài Thanh.” (trang 70, cuốn Hai); “Thơ Huy Cận quả có như là cõi miền huyền bí nhất của tinh thể Đông Phương.” (trang 98, cuốn Hai).
Người thơ được thành bài nhiều lần nhất là Hồ Dzếnh: 7 lần! (Nguyễn Du chính thức là 6 lần, nhưng thơ và con người của “cha nàng Kiều” thì đi tới đi lui trong hai cuốn sách.) Tôi hơi khó hiểu vì sự hợp “gu” giữa hai nhà thơ này. Có thể giải thích thế nào: Cùng là thần lục bát? Cùng tâm trạng tha hương bỏ xứ, cô đơn? Đây cũng xin là một câu hỏi tới các nhà Bùi Giáng học. Đọc 7 bài bình ấy, tôi thấy nó không sai, không trúng; thú vị thôi, chớ không thần phục. Tôi cũng mê thích thi sĩ Minh Hương này lắm, coi ông như một trong các đại tướng của quân chủng lục bát Việt Nam, nhưng cái mê thích của tôi khác với Bùi tiên sinh nhiều quá. Chắc tôi chưa hiểu hết Hồ Dzếnh rồi! Sẽ phải đọc lại các bài Giang Tây, Phút Linh Cầu từng khiến Bùi Giáng “bải hoải chân tay”.
Và cũng chính từ hai bàn tay ấy có biết bao lời bình rất… chán:
– Sáo tai, nhàm mắt: “Nghĩ tới Nguyễn Trãi, không còn can đảm đâu viết nên một lời gì cả” (trang 64, cuốn Một);
– Đại ngôn, tếu táo: “Đọc ông Nguyễn Du mãi cũng chán. (…) Thơ Nguyễn Công Trứ là một con zéro. Thơ Cao Bá Quát là một con zéro rưỡi (…) Hàng vạn bài na ná giọng điệu giống nhau. Chỉ còn mấy bài của Ngân Giang nữ sĩ và Vân Đài nữ sĩ là có linh hồn” (trang 30, cuốn Hai); “Người Việt Nam có thể không đọc Nguyễn Du, nhưng không thể nào không đọc bài thơ kia (bài Rằm Tháng Giêng – ĐQ) của Hồ Dzếnh” (trang 36, cuốn Hai);
– Không thuyết phục: “Thơ Nguyễn Thị Hoàng trang nhã như thơ Bà Huyện Thanh Quan, mà lại cũng cay đắng như thơ Hồ Xuân Hương, nhiều lúc nghe thống thiết như thơ bà Đoàn Thị Điểm” (trang 124, cuốn Một).
Họ Bùi bình chọn không ít các nhà thơ chưa, đang thành danh, nhưng tôi thấy hiếm có bài nào thành công. Không phải vì tên tuổi các vị đó không rạng rỡ như các vị thành danh, mà chính là ở chất lượng bài viết. Chúng làm dở một tác phẩm quí hiếm như Đi Vào Cõi Thơ! Dễ có cảm giác ông có các bài ấy vì thù tạc, hoặc vì ẩu! Có những bài tệ tới độ không phải bình thơ mà là bàn tán loạn! Như các bài Mai Vân Thu, Phạm Quang Bình…
Võ Phiến cũng nhận xét: “Nói về một thi sĩ khác, ông bảo khỏi cần trích thơ, chỉ cần nên ra các tên bài cũng đủ. Và ông liệt kê một loạt tên bài tùm lum; chỉ có tên bài thôi. Có nhiều thi sĩ, ông “đi vào cõi thơ” của người ta một hồi mà không thấy ông chọn được bài nào, thậm chí một ý hay một câu hay, một chữ đẹp cũng không! Như thể bận tâm chứng minh là một bận tâm nhỏ mọn quá, ti tiểu quá, không đáng lí đến.”
Võ Phiến đã tinh tường nhìn ra vài bất cập ở cách bình luận trong hai cuốn sách, khi tác giả động đến các thi sĩ cùng thời, các bạn thơ của ông: “Khi khác, Đi vào cõi thơ (1969) của các thi sĩ cùng thời với mình, Bùi Giáng càng tỏ ra tinh quái quá lắm. Chẳng hạn về trường hợp một thi sĩ nọ – đồng hương với ông – ông nói qua nói lại một hồi, rồi ông bảo trót đánh mất tập thơ của bạn nên không trích được bài nào. Sau này, có dịp cầm chính tập thơ nọ trong tay, tôi loanh quanh tìm mãi không thấy có bài nào trích được! Vậy Bùi Giáng có mất sách thực chăng? Và không tìm ra cuốn sách nào khác của bạn thực chãng? Lẽ nào ba muơi nãm trước ở Việt Nam thơ ấy khó tìm hơn ba muơi nãm sau ở Mĩ? Vả lại, không chỉ có trường hợp người bạn vừa kể. Chuyện như thế xảy ra đều đều”. Hai tác giả được Võ Phiến nhắc đến mà Bùi Giáng “chạy làng” là: Tạ Ký (trang 109, cuốn Một) và Đặng Tấn Tới (trang 168, cuốn Hai).
Tôi không khẳng định có thật là Bùi Giáng không có sách của hai-ba người đó hay không. Cũng không cho việc cả Bùi Giáng lẫn Võ Phiến không chọn được bài thơ nào thì tập thơ đó phải dở. (Chúng ta đang nói về phương pháp bình chọn theo “gu” mà!) Nhưng nếu Võ Phiến có lý thì, xin thưa rằng bảo “tinh quái” là ông nói yêu đấy thôi. Hay vì ông đã trọng tuổi nên dư lòng tha thứ! Kẻ viết bài này thua ông 2-3 thế hệ nên cũng ráng bảo Bùi quân là “quái”. Còn đám trẻ hơn, thế hệ “gọi con mèo là con mèo”, sẽ la lên: “Cụ Bùi xạo quá tụi bây nè!” Nếu như Bùi quân có thủ sách trong tay nhưng không khoái trích dẫn thì quả đấy là một giọng… trí trá (xin lỗi tôi chưa tìm được từ khác nhẹ hơn!) Ai cũng biết trong nghề phê bình, tội trí trá được xem là tệ nhất! Nhưng mà thôi, tha lỗi cho tôi chót nặng lời. Là Bùi “siêu quậy” của thi ca Việt Nam, lời nhận định của ông cũng quậy, “cũng đi rồi đến”. Chúng ta nên đọc ông với một tâm thế riêng trong tương quan của mình với ông.
Một điểm này thì vui vui. Điều chính của bài Quang Dũng (trang 88, cuốn Một) là bình bài thơ Kẻ Ở để chứng minh nhận định (cũng nên coi như một ”đại ngôn” của tác giả): “Thi ca hiện đại hay thi ca ngàn đời, thi ca Việt Nam hay thi ca thế giới – vâng – cũng chỉ riêng một Quang Dũng thôi”. Đoạn bình Kẻ Ở và toàn bài Quang Dũng có thể xem là thành công. Nó chỉ “thất bại” ở chỗ, tác giả lời bình cũng bị số phận như đa số dư luận yêu thơ khác – đó là biết bao nhiêu năm đã bé cái lầm về tác giả bài thơ quen thuộc. Quang Dũng “người Sơn Tây” không phải là tác giả của nó đâu ạ! Từ những năm 1989-1992, báo chí trong nước, rồi ngoài nước, đã “trả cát bụi về cho cát bụi”: bài thơ Kẻ Ở trước được biết của Quang Dũng chính là bài Dặm Về (hay Mai Chị Về) của Nguyễn Đình Tiên. Báo Cánh Én (Đức, số 15, 1992) đã có bài của V.X.L. tổng kết vụ này. Các nghi án văn học đều kèm theo tai nạn. Trời giáng ai nấy chịu. Đến “người trời” như Bùi Giáng cũng không thoát được. (Phụ lục 1)
Thục quốc danh tướng, Việt Nam lục bát thi sĩ và Bùi Giáng
Nếu Bùi Giáng (chỉ) là thơ, thì thơ Bùi Giáng (chỉ) là lục bát.
Tôi sẽ ví các danh tướng nhà Thục thời Tam Quốc với các thi sĩ lục bát tài danh Việt Nam! Một cách tương đối: Về ngôi thứ uy quyền, nếu coi Lưu Bị là Nguyễn Du, thì tiếp theo ai là ai? Quan Vũ, ấy là Nguyễn Bính; Trương Phi là Bùi Giáng. Vậy là xong nhà Lưu-Quan-Trương. Tiếp: Triệu Tử Long: Hồ Dzếnh. Rồi những Hoàng Trung, Ngụy Diên, v.v… là những Bàng Bá Lân, Cung Trầm Tưởng, Nguyễn Đức Sơn, Nguyễn Duy, Luân Hoán, Đồng Đức Bốn, v.v… Còn hạng xoàng xoàng Tôn Càn, My Chúc, Giản Ung… thì kể không kể xiết. “Lục bát là nơi thử thách bút lực của các thi sĩ” (Trần Đăng Khoa). Tôi đoán chắc không sai là ai đã làm thơ tiếng Việt thế nào cũng kinh qua một tá bài lục bát? Với rất nhiều người thơ, lục bát là mối tình đầu.
Bùi Giáng quí cưng Hồ Dzếnh lắm, quí hơn Nguyễn Bính bội phần. Trong hai cuốn Đi Vào Cõi Thơ nói trên, Dzếnh được bình những 7 lần (lại còn được yêu đến mức cải tên thành Hồ Xuân Dzếnh!); Bính được nhõn có 1 lần! Bất chấp, trong khi chưa hiểu hết Hồ Dzếnh, tôi vẫn coi Nguyễn Bính và Bùi Giáng là hai vị tả hữu quanh ông vua lục bát Việt – Nguyễn Du, Hồ Dzếnh ở sau, cách xa hai vị này. Và còn khoảng cách rất xa nữa mới tới các vị sau đó.
Rất nhiều câu thần ở lục bát hai ông thơ này. Thần thơ Nguyễn Bính là thần dân, thần đất. Ta ngẩn ngơ và ngẫm một hồi, không lâu. Ta hiểu, cảm được. Phần nào.
“Quê nhà xa lắc xa lơ đó
Ngoảnh lại tha hồ mây trắng bay”.
(Hành Phương Nam)
Hay chính câu mà Bùi Giáng chọn khi bình Nguyễn Bính ở Đi Vào Cõi Thơ:
“Mẹ cha thì nhớ thương mình
Mình đi thương nhớ người tình xa xôi”.
(Thư Gửi Thầy Mẹ)
Đọc Bùi Giáng ta gặp Nguyễn Du đều đều, ở những câu trang trọng, phức tạp:
“Biển dâu sực tỉnh giang hà
Còn sơ nguyên mộng sau tà áo xanh”
(Áo Xanh)
Và cũng gặp Nguyễn Bính thường xuyên, ở những câu chân chất như lời lách lẹ ra từ tim; như thế này:
“Hôm nay mưa gió đầy trời
Về sau sẽ có vài người quên nhau”
(Mê Cung)
Hay như thế này này, khi nhà thơ tự tả mình trong cái nhìn của cô hàng xóm:
“Vừa điên dại vừa thê lương
Vừa vui trời đất vừa buồn nắng mưa”.
(Lẩm Cẩm)
Lục bát Bùi Giáng là thơ của trời, lục bát Nguyễn Bính từ đất. Tư tưởng là nền cho thơ Bùi Giáng. Ở Nguyễn Bình là tình cảm. Có thể vì học vấn của họ Bùi thâm hậu, còn của họ Nguyễn thì chân quê! Nhiều câu thần của Nguyễn Bính, đọc xong bạn có thể vỗ đùi: “Giá Bính không viết, ắt mình hay thằng X. sẽ viết!” Cái thần Bùi Giáng là thần trời. “Ông trời xanh ắt cũng phải bối rối lắc đầu…” huống hồ. Bạn chỉ có thể vò đầu:
“Quét xong sân lá chợt buồn
Bỗng dưng chợt thấy nghìn muôn lỗi lầm” .
(Ca Dao)
Thần! Thần đến thế là cùng!
Hỏi ngay giới phê bình hay các fan Bùi Giáng rằng bài thơ nào, 2-3 bài thơ nào là hay nhất. Chắc họ tắc tị! Bù vào họ sẽ đọc vanh vách một vài câu, thậm chí cả chục câu xuất thần. Không! Bùi Giáng đâu phải là nhà-thơ-của-những-câu-thơ-bạc-cắc. Trong tập Đi Vào Cõi Thơ, khi tự bình thơ mình, ông chọn ra hai bài đượm chất chuồn chấu nhất – tức Bùi Giáng nhất – đó là Giữa Phố và Bóng Dương Buồn Ngủ. Đã nhâm nhi đến cả tá lần hai bài này, tôi khó mà có ý gì khác với tác giả. Song, nếu là người tuyển chọn, tôi sẽ chọn hai-ba bài khác, của riêng mình. Với những độc giả đã chịu rồi, thơ Bùi Giáng tỏ ra rất hào phóng, “dân chủ”. Không như với đại đa số nhà thơ tên tuổi khác, các bài hay của họ dễ thành của chung trong lòng người yêu thơ. Ai cũng có thể có một Bùi Giáng, một thơ Bùi Giáng của riêng mình. Trong khi chúng ta thường có chung một Nguyễn Du, một Nguyễn Bính, một Xuân Diệu, một Hàn Mặc Tử, một Thanh Tâm Tuyền, một Hoàng Cầm, một Tô Thùy Yên… Và ngay cả một Đinh Hùng, một Trần Dần…
Thơ Bùi Giáng có trong sách giáo khoa cho học sinh chưa? Tôi cũng không biết! Nếu chưa thì nên có. Chọn vài bài thơ hay nhất của Bùi Giáng vào hợp tuyển văn học thì khó. Nhưng không khó lắm khi chọn thơ của ông vào văn tuyển, sách giáo khoa. Không xa tay tôi đang là tập Mưa Nguồn (NXB Hội Nhà Văn, Hà Nội, 1993.) Thi phẩm đầu tay của ông. “Có lẽ Mưa Nguồn là tập thơ đều tay và giá trị nhất của Bùi Giáng” (Đặng Tiến). Tôi giở không chủ ý, nơi trang 108, được bài lục bát Xuân Bình Dương. Nó có thể làm bài thuộc lòng cho học trò trung học thời a còng. (Phụ lục 2)
Công việc biên tập, in sách của Bùi Giáng được làm ra sao?
Tại sao thơ Bùi Giáng lại hay dở dở hay? Đây không chỉ là câu hỏi quan trọng cho giới phê bình nghiên cứu văn học, mà còn cho các nhà Bùi Giáng học. Vấn đề biên tập dự phần ra sao? Tôi muốn hỏi to một câu: Những khi thể trạng ông không điên-tỉnh, là người bình thường liệu Bùi Giáng có tham gia chịu trách nhiệm trong việc in ấn, phổ biến tác phẩm của mình không? Thực ra, các bản thảo “nguyên đai nguyên kiện” của một tác giả nào đó chỉ có giá trị nhất định đối với những ai làm công tác nghiên cứu văn bản. Một tác giả chỉ được đánh giá công bình qua các tác phẩm ra mắt độc giả trong sự kiểm soát nào đó của anh ta về sự công bố.
Ngợp và ngạt giữa cái phi phàm lại thú vị, cái khó hiểu đến kinh dị mà dễ thương, cái lộn xộn mà vẫn đâu ra đấy trong trước tác của Bùi Giáng, công tác biên tập sách, bài vở của ông ở miền Nam trước 1975, ở Việt Nam và hải ngoại sau đó, dường như đã không qua cách thức bình thường. Con người ta vốn sợ bỏ rơm rác ra khỏi một kho vàng. Cứ y như là khi phải ra đi rác rơm mang theo vàng vậy! Là người không có đời sống tinh thần và vật chất ổn định, là người viết tự do tuyệt đối (về phong cách, nhu cầu in ấn, tính chuyên nghiệp), tác phẩm của Bùi Giáng dựa trên ý thức của một người phi học, vô nghề. Cho dù có đúng là Bùi Giáng “không che dấu cái dở của mình. (…) Chẳng những thế, ông lại còn cố ý phô bày nó ra, phô bày một cách chân tình, hồn nhiên, toàn diện”, nhưng những người biên tập đã làm gì cho tròn trách nhiệm? Chính các điều dang dở và các điều dở trong bản thảo đã góp phần tạo phong cách hay dở dở hay ở văn chương Bùi Giáng. Và thách đố cho những ai bạo gan biên tập sách, bài vở của ông là ở đấy. In sách thì phải cho ra sách. Ô cửa này của văn minh nhân loại thiên tài nào cũng phải qua, nếu đã vào vòng định giá. Nhất là ở thời này, khi văn hóa truyền thông coi việc truyền khẩu, giai thoại và các sản phẩm của nó như một cái gì man rợ!
Tôi ngưng đoạn này trong sự đồng tình cùng ý với Phạm Thị Hoài: “Không sửa sang cho ông, như thường miệt mài gọt rũa hay tưởng đang gọt rũa mình công phu lắm, với cái cớ rằng chữ nghĩa của ông từ ngàn khơi đổ về, chẳng ai biên tập một đại dương. Không thẩm định, không đòi hỏi, không đặt niềm tin, không thất vọng, ta nhẹ ban cho ông hai chữ “thiên tài”.”
Bùi Giáng và Những đứa trẻ mồ côi
Lời đề từ ở trên cho bài này là nguyên một bài thơ của Bertolt Brecht. Lời, ý và tứ rõ ràng, lại mang nhiều nghĩa, nghĩa nào cũng rõ ràng. Rất Đức tính. Thực tế, hiển hiện. Trữ tình, sâu ngút. Ta hãy đọc nó (bốn câu đầu) bằng nụ cười, rồi (một câu cuối, hai chữ sau cùng) bằng nước mắt. Sau, đọc lại cả bài bằng nước mắt hay nụ cười cũng được. Các lần đọc sau, nước mắt khác nước mắt lần đọc trước, nụ cười cũng khác. Để chiêm nghiệm luật nhân quả như một lẽ thường tình, một điều bất an. Từ khi đọc nó lần đầu, chừng 30 năm nay, tôi giữ bài thơ nhỏ nhắn trong mình như ôm trọn bông hồng đơn rực sắc với những cánh gai dài nhọn. Mỗi nghĩa của bài thơ ám ảnh tôi trong từng vụ việc cụ thể.
Độc giả người Việt Nam và người ngoại quốc của văn học, rồi lịch sử, văn hóa Việt Nam cận-hiện đại là những đứa trẻ mồ côi. Nhiều “đêm-ngày” đã qua, trong số họ, kẻ chỉ có Trần Đức Thảo, Hoàng Xuân Hãn, Tố Hữu, Nguyễn Đình Thi; đứa là của Nhất Linh, Hồ Hữu Tường, Mai Thảo; dăm tên mau mắt hơn thì có thêm Đào Duy Anh, Trịnh Công Sơn, Trần Dần, Bùi Giáng…
Mong cho bài tạp văn này về Bùi Giáng không phải theo phận đứa trẻ mồ côi. *)
Canada, 2003 – 2009
Đỗ Quyên
BÙI GIÁNG
Nhà thơ của các nhà thơ
_____________________________
ĐỖ LAI THUÝ
Bùi Giáng, cũng như các thi sĩ thiên tài, đều vượt quá mọi đóng khung. Tuy nhiên, nhà phê bình, vốn là một động vật thích phân loại, nên, một mặt để thỏa mãn mình, mặt khác để hiểu thi nhân, ít nhất là trên đại thể, thì có thể tiếp cận ông từ cạnh khía kiểu nhà thơ.
Bùi Giáng, tôi nghĩ là một thi sĩ – triết gia, một nhà thơ đồng thời là một nhà triết học. Thi sĩ – triết gia, khác với triết gia – thi sĩ, tồn tại trước hết với tư cách nhà thơ, sau đó mới đến nhà triết học. Kiểu nhà thơ này không phải đến Bùi Giáng mới có, mà từng tồn tại trong văn đàn thế giới như Goethe, Hoelderlin, Braudel, Tchutchev…, hay Nguyễn Gia Thiều, Nguyễn Du, Tản Đà… ở Việt Nam.
Tiếp tục truyền thống thi sĩ – triết gia này, Bùi Giáng đã nâng tầm vóc của nó, ít nhất trong trường hợp Việt Nam, lên cao thêm một bước. Việt Nam vốn không phát triển lắm về triết học. Các tư tưởng triết lý, vì thế, phần lớn có nguồn gốc từ các nền văn hóa lớn bên ngoài. Việc tiếp nhận chúng thường theo nguyên tắc tương ứng chứ không phải đồng thời, như trường hợp Tản Đà đầu thế kỷ XX tiếp thu tư tưởng của các nhà triết học Ánh Sáng thế kỷ XVIII. Các thi sĩ – triết gia của Việt Nam, vì thế, xét trên cạnh khía thời đại, thường lỗi thời ít nhất một nhịp. Điều này hẳn ít nhiều ảnh hưởng đến tầm vóc và, do đó, tư thế đối thoại với thế giới.
Bùi Giáng, ngược lại, tiếp thu chủ nghĩa hiện sinh của J-P.Sartre, A.Camus, K.Jaspers… một cách trực tiếp và đồng thời, khi nó còn đang sống động và đang phát triển. Rồi từ triết học hiện sinh đi đến hiện tượng luận, sau đó hiện tượng luận hiện sinh của Heidegger. Bùi Giáng, chủ yếu, đi đến với triết học Heidegger bằng trải nghiệm riêng của mình. Từ cảm nghiệmvong thân đến vớitự do, Bùi Giáng không hiểu triết học như một thầy giáo, mà sống triết học như một bậc thầy. Bởi thế, ông có đầy đủ tư cách triết gia, để phê phán Sartre trong Heidegger Và Tư Tưởng Hiện Đại, trao đổi thư từ học thuật với chính Heidegger và nhà thơ René Char. Quả thật, lần đầu tiên trong lịch sử văn học Việt Nam có một nhà thơ Việt Nam sống cùng nhịp với các trào lưu tư tưởng lớn của thế giới đương đại.
Trước đây, trong thời tiền hiện đại/hiện đại, vẫn thấy những trường hợp thi sĩ và triết gia tuy có chỗ trùng, nhưng rốt cục, vẫn là hai con người riêng biệt. Như một sự phân thân. Còn ở Bùi Giáng thì cuộc đời, thơ ca và triết học là một, là một thứ tam diện nhất thể, đúng hơn tam vị nhất thể. Như con khỉ Mỹ Hầu Vương trở thành Tôn Ngộ Không sau khi ra khỏi lò bát quái của Thái Thượng Lão Quân, Bùi Giáng trở thành Bùi Giáng, một thi sĩ – triết gia, sau khi đã chưng cất được một hợp chất từ ba yếu tố cuộc đời – thi ca – triết học trong “nồi hầm” văn hóa thời đại có nhiệt độ cao và áp xuất lớn. Hơn nữa, ở thời hậu hiện đại, thi sỹ và/là triết gia cùng đưa ra những diễn ngôn mới, đúng hơn, diễn ngôn về diễn ngôn, không hề chịu một quy định trước nào, cũng không có tham vọng trở thành phổ quát, chỉ khát khao tỏ lộ cá tính riêng thuộc của mình. Hay, nói khác đi, cuộc đời của Bùi Giáng thi sĩ và tư tưởng gia, tuy là nhiều, nhưng đều dẫn đến một đích nhắm là tìm gặp cái Uyên Nguyên, cái Bản Nguyên trong thế giới vạn vật. Heidegger thường tụng ca thi gia và tư tưởng gia, những kẻ canh giữ ngàn đời cho ngôi nhà của tồn tại như/là/qua/bằng/bởi ngôn ngữ. Thế nên, Bùi Giáng, xuất nhập cả trong thân phận thi gia lẫn tư tưởng gia, chẳng qua cũng chỉ là những cách thế tuy khác nhau, nhưng đều dẫn trở về ngôi nhà của tồn tại.
Hợp chất của cái “nồi hầm” siêu tổng cộng các yếu tố văn hóa thời đại đó chính là cái mà Bùi Giáng gọi là tư tưởng hiện đại. Tư tưởng hiện đại, theo Bùi Giáng, trước hết là tư tưởng đương đại, mà trong thời đại của ông là hiện tượng học hiện sinh và, sau đó, là toàn bộ những điểm khả thủ của tư tưởng nhân loại không phân biệt đông tây kim cổ được nhìn từ tư tưởng đương đại. Bùi Giáng gọi động thái này là “trùng phục thu hồi”, một kiểu tiếp thu sáng tạo như ngày nay thường nói. Tư tưởng hiện đại, bởi thế, luôn là sự giao thoa giữa cái đương đại và cái đã qua, đưa cái đã qua trở thành đương đại. Nội dung của tư tưởng hiện đại của mỗi thời có thể mỗi khác, tùy theo sự thông diễn của người đương thời, nhưng cái gọi là tư tưởng hiện đại thì như một hằng số thời nào cũng có. Đó chính là sự “thiết lập Vĩnh Thể trên dòng Tồn Lưu” của Bùi Giáng.
Tư tưởng hiện đại của thời đại Bùi Giáng chính là hiện tượng học thông diễn mà thi nhân gọi là giải minh hay minh giải học. Sống, làm nghệ thuật cũng như làm học thuật, trước hết là phải thông (thông diễn, thông giao, tương thông, liên thông) đã, tức thâm nhập vào đối tượng, trở thành đối tượng, biến đối tượng thành một chủ thể, sau đó phải diễn (diễn giải, diễn dịch, diễn giảng, quảng diễn), tức trình bày cái thông của mình cho người khác. Thông diễn, như vậy, là một quá trình tham dự của một chủ thể vào một đối tượng để biến đối tượng đó thành một chủ thể mới, không chỉ với người khác mà cả với chính chủ thể trước. Thông diễn học, vì thế, là một khoa học chủ quan, hay nói khác vừa là một khoa học vừa là một nghệ thuật. Nó có khả năng biến một sự kiện (khách quan) thành một chân lý (chủ quan), bởi như Kierkegaard nói: chân lý là chủ quan. Với tư cách là trí tuệ cảm xúc, thông diễn học là phương thức nhận thức chủ yếu, phù hợp với cái nhìn thực tại mới của con người trong xã hội hậu công nghiệp, tin học và công nghệ cao.
Thơ Bùi Giáng thể hiện một cái nhìn thông diễn học rất rõ. Sự vật và con người trong thơ ông không bao giờ là tự thân, tự đầy đủ, mà luôn trong trạng thái đương – là, không hoàn kết, luôn ở thế tương giao, đối thoại với người đọc. Điều này đã được đề cập đến ở phần trước, khi nói về trò chơi ngôn ngữ, và còn đặc biệt rõ hơn trong các công trình nghiên cứu của Bùi Giáng, như Heidegger Và Tư Tưởng Hiện Đại, Con Đường Ngã Ba, Thi Ca Tư Tưởng, Đường Đi Trong Rừng… đầy những trích dẫn, vận dụng rất nhiều tri thức đông tây kim cổ từ các triết gia Hy Lạp cổ đại đến Khổng Tử, Lão Tử, Trang Tử, Đức Phật, các nhà văn, các nhân vật tiểu thuyết, thậm chí đến người thật như Kim Cương, Monroe, Phùng Khánh… Điều này cũng thể hiện rất rõ trong các tác phẩm biên dịch như Lời Cố Quận, Lễ Hội Tháng Ba của Heidegger, Mùi Hương Xuân Sắc dịch Heidegger, Nerval và Camus… Bùi Giáng sử dụng lối dịch – thông diễn. Kể cả khi dịch một tác phẩm văn chương, ông cũng dịch với một tinh thần đồng điệu, chứ không dịch câu chữ. Nhờ sự trái thói này, mà chúng ta có được những tuyệt phẩm dịch thuật như Hoàng Tử Bé và Cõi Người Ta. Tuy vậy, cách làm phá cách, không chịu tuân theo lề lối, đúng hơn là theo một thứ lề – lối – phi – lề – lối của tương lai, đã làm nhiều người không chịu nổi, nhất là những nhà nghiên cứu trường trại, hoặc những người có đầu óc chuồng trại.
Một trong những cách sống thể hiện sự nhất quán của thi cách và nhân cách Bùi Giáng đó là bệnh điên của thi nhân. Đành rằng xưa nay thiên tài và điên là chị em ruột. Nhưng cái điên của Van Gogh, của Dostoievski thì ai cũng nhận ra đó là bệnh. Chỉ có trường hợp Bùi Giáng thì mới có chuyện một điên mười ngờ. Bởi thế, tôi tạm gọi đó là điên – Bùi – Giáng. Người ta đã, và hẳn còn sẽ, tốn nhiều giấy mực để bàn về chuyện Bùi Giáng có điên thật hay không. Tạm gác sang bên vấn đề bất khả giải này, hay có giải được cũng có thể chẳng chứng tỏ dược nhiều điều, thì có thể thấy, Bùi Giáng trước hết là người ngộ chữ, thậm chí còn ngộ chữ có nòi. Khác với những kẻ mọt sách thường là nô lệ cho chữ có sẵn, người ngộ chữ tuy cũng đam mê chữ thái quá, nhưng lại thích đùa nghịch chữ, làm mới chữ. Sự thái quá là không bình thường, bị coi như một thứ bệnh, bệnh điên. Mà sáng tạo, nhất là sáng tạo văn chương nghệ thuật, thì bao giờ cũng thái quá, cũng không bình thường, cũng điên rồ. Điên – Bùi – Giáng, bởi thế, có thể xếp vào loại điên – nghệ – sĩ, một thứ điên mà không điên, không điên mà điên.
Bùi Giáng, trước hết, rất ý thức về cái điên của mình. Đây là một điều mà ở người điên thuần bệnh lý không bao giờ có. Kể cả với người lúc tỉnh lúc điên, vì khi ở trạng thái này thì anh ta lại quên hẳn trạng thái kia. Người điên, vì thế, không biết là mình điên, tức hoàn toàn bị vô thức điều khiển, và sẽ khăng khăng phủ nhận nếu có ai đó bảo mình điên. Bùi Giáng, ngược lại, làm rất nhiều thơ về sự điên của mình, như “Người Điên Uống Rượu”, “Ông Điên”, “Thơ Điên”, “Quá Khứ Của Anh”… Thậm chí Bùi Giáng còn sáng tạo ra cả thứ ngôn ngữ của người điên, mà, theo ông, ngôn ngữ què quặt của người tỉnh khó mà hiểu được nó, nhất là ngôn ngữ của người điên có nghề nghiệp:
Người điên ngôn ngữ điệp trùng
Giở chừng như mộng giở chừng như mê
Thưa em ngôn ngữ quặt què
Làm sao nói được nghiệp nghề người điên
(“Người Điên”)
Không những xác định cái điên của mình, mà Bùi Giáng còn dấn thân quyết liệt vào nghề nghiệp điên. Bởi lẽ, thi nhân tìm thấy ở điên niềm hạnh phúc. “Điên là hạnh phúc thần tiên ở đời”. Hạnh phúc là khi mình đồng nhất với mình. Điên là trạng thái trùng khít hoàn toàn giữa con người và bản thân hắn ta. Một sự trùng khít ở cấp độ bản năng, thực vật. Điên Bùi Giáng thì không hẳn là vậy. Ông vẫn nhận ra sự nghiêng lệch giữa mình và thế giới, và vì thế mà muốn co vào cái điên của mình như một vỏ bọc, để mình được là mình. Điên của Bùi Giáng, bởi vậy, chính là một thái độ sống, một cách tồn tại ở đời.
Như vậy, Bùi Giáng, ý thức hoặc vô thức, đón gặp sự điên của mình, để, một mặt vượt thoát khỏi mọi can thiệp của cái xã hội, vốn quyền uy và thực dụng, vào lối sống riêng của mình; mặt khác, bằng hành động điên rồ gửi sự minh triết đến cho mọi người, nhất là những con người bình thường. Hình ảnh Bùi Giáng ăn mặc lôi thôi lếch thếch, cổ đeo đầy ống bơ, giày dép, đứng ở ngã tư đường phố Sài Gòn, chỉ lối cho con người và xe cộ qua lại, gợi nhớ đến các nhà tiên tri cổ đại. Hoặc Bùi Giáng “nuôi” rất nhiều lợn đất, gà nhựa ở nhà và đi đâu ông cũng nhớ về cho chúng ăn. Và mỗi khi cho rằng loại gà lợn này đi chơi đâu xa, Bùi Giáng thường rải gạo dọc đường để cho chúng nhớ lối mà về nhà. Những cảnh tượng ấy, quả thực, cũng giống như một cuộc trưng bày nghệ thuật trình diễn hoặc sắp đặt giàu ý tưởng. Hay, đúng hơn, Bùi Giáng đang làm thơ. Một bài thơ bằng các vật liệu phi ngôn từ của loại thơ cụ thể.
Người điên cũng như người chứng ngộ đều cùng chung một cõi vô trí. Nhưng người điên thì ở bề dưới của trạng thái đó, còn kẻ chứng ngộ thì ở vùng trên. Di chuyển giữa hai đường biên đó, Bùi Giáng không bao giờ điên thật và cũng không bao giờ chứng ngộ, cảnh giới của thực tướng là vô tướng, chân ngã là vô ngã. Ông vẫn còn đặt một chân ở cuộc đời, vẫn đau khổ vì cuộc đời: “Anh đã định suốt thiên thu vạn kỷ/ Làm thằng điên rồ dại suốt thiên thâu/ Nhưng em ạ, dường như anh vô lý/ Lúc đoạn trường anh đứt ruột khổ đau”. Vì còn đau khổ nên ông vẫn cần ngôn ngữ, vẫn tin vào lời, dù lời của ông đã gần với không – lời, tư duy của ông đã gần với không – tư duy. Có lẽ, nhờ thế mà chúng ta có được một Bùi – Giáng – Tuyệt – Tự – Thi, một thứ thơ tuyệt vời ngôn ngữ (tự) và một nhà thơ không thể có người thứ hai nói dõi. Ông như một Bồ Tát không bước hẳn vào cõi vô ngôn, vô trí mà vẫn ở lại với Lời để cứu Lời.
Cuối cùng, như để lại một mật ngữ, trongLời tựa cho cuốn Martin Heidegger Và Tư Tưởng Hiện Đại, Bùi Giáng viết về F.Nietzsche như là để nối cái điên của mình vào cái “đại điên” của những vĩ nhân trong lịch sử: “Cái dịu dàng như hươu non đành chực bóp chết lòng mình để rống to như thú dữ. Nhưng lập tức lời nguyền rủa bốn phía vang lên. Và Nietzsche đã điên. Trước Nietzsche mấy chục năm, Hoederlin cũng đã điên. Cùng với bao kẻ khác đã điên. Để ngày nay… Để ngày nay chúng ta tụ hội về đây xôn xao nêu câu hỏi: Cớ sao mà điên? Nêu một cái rất ngây thơ tròn trĩnh.”
Như vậy, với việc đưa ngôn ngữ trở về với sự vật, rồi lại coi sự vật, trật tự sự vật, tức cuộc đời, tức thực tại chỉ là các trò chơi ngôn ngữ, tức thống nhất vào ngôn ngữ cả sự biểu đạt thực tại lẫn thực tại được biểu đạt, Bùi Giáng đã vượt qua chủ nghĩa hiện đại, mở một cánh cửa vào hậu hiện đại, để hôm nay, càng lúc càng đông nhà thơ trẻ, với những kích thước tài năng và tầm vóc tư tưởng khác nhau, chen chân qua khung cửa hẹp ấy. Nếu trước đây, Nguyễn Du mở ra thời kỳ trung đại cổ điển trong văn học Việt Nam, nâng nó lên ngang tầm khu vực Đông Á, còn Tản Đà vào những thập niên đầu thế kỷ XX đã mở đầu cho thời hiện đại, đưa văn học Việt Nam vào quỹ đạo thế giới, tuy có sự lệch thời gian, thì Bùi Giáng ở những mười năm cuối của cùng thế kỷ ấy đã đi đầu trong việc mở ra một thời đại mới cho văn học Việt Nam, văn học hậu hiện đại. Có điều lần này, ít nhất với trường hợp Bùi Giáng, sự phát triển của văn học Việt Nam so với thế giới không còn là sự phát triển tương ứng nữa mà là đồng thời, tức nhịp bước cùng thế giới. Và quan trọng là sau ông đã rậm rịch những chân bước khác. Bởi thế, theo cái cách mà Heidegger gọi Hoederlin, tôi cũng muốn vinh danh Bùi Giáng, cũng như Nguyễn Du và Tản Đà trước đây, những thi nhân làm thay đổi hệ hình tư duy nghệ thuật thời đại, không phải là “nhà thơ giữa các nhà thơ, mà là nhà thơ của các nhà thơ”.
Hà Nội, tháng 11.2011
ĐỖ LAI THUÝ
.
.
.
BÙI GIÁNG,
một bài thơ lạc vận
________________________
Nguyễn Đình Toàn
.
Bùi Giáng đã được nói đến nhiều. Mỗi người đọc ông nói đến ông theo một cách. Người ta nói đến thơ ông, nói đến tư tưởng của ông, nói đến cách thế ông sống, tùy theo cách nhìn của mình.
Người ta nhìn thấy ở ông, rõ hơn, kiến thức của ông, tư tưởng của ông, như một hội tụ lớn của tư tưởng Đông Tây.
Người ta cũng nói đến ông như một người điên.
Nếu ai đã có dịp nhìn thấy ông mang trên mình đủ các thứ: nồi, niêu, xoong, chảo, vành bánh xe đạp, đầu đội mũ sắt, vắt trên vai những miếng băng vệ sinh nhặt được ở đâu đó, tay cầm một chiếc gậy, đứng giữa đường, thổi còi, vung tay chỉ lối cho xe cộ, thì coi ông là một người điên cũng không có gì quá đáng.
Nhưng cũng người điên ấy, vai mang một tấm biển, đi rong qua các phố, trên tấm biển có những dòng chữ viết tay:
Hoan hô đồng chí Phạm Tuân
Khi không anh bỗng nhẩy tưng lên trời
Thì nhiều người lại cho rằng đó là một người điên giả vờ. Một sự việc quan trọng như thế, một người Việt “đi dép lốp mà bay vào vũ trụ” như thế, mà nói tới một cách giễu cợt vậy sao?
Ông đã bị công an bắt giam.
Nhưng rồi sau đó người ta cũng thả ông ra, vì… ông điên! Và có lẽ vì điên nên ông không biết sợ, ông nói toáng lên những điều có người nghe rồi cười, có người không muốn nghe, cả những điều người ta không dám lập lại dù là để báo cáo đi nữa!
Người ta cũng nhìn thấy ông, mặc bộ quần áo rằn ri của quân đội cũ, đứng trước cửa trường Đại Học Vạn Hạnh, nhìn các đám sinh viên nam nữ qua lại, mủm mỉm cười, bảo: “Lịch sử bức bách tụi bay quá!”
Còn rất nhiều những giai thoại liên quan tới Bùi Giáng, liên quan tới những cơn điên của ông, liên quan tới thơ ông.
Cũng vô lý như làn kia dưới lá
Con chim bay bỏ lại nhánh khô cành
Lá cũng mất như một lần đã lỡ
Trời đã xanh như tuổi ngọc đã xanh
Trời còn đó giữa tháng ngày lỡ dở
Hồn nguyên tiêu ai kiếm lại cho mình
Bờ trùng ngộ một phen này phen nữa
Tờ cảo thơm như lệ ứa pha hồng
Hồn hoa cỏ Phượng Thành Hy Lạp úa
Nghe một lần vĩnh viễn gặp hư vô.
Đọc một lần, đọc hai lần những câu thơ ấy của Bùi Giáng, ai có thể cả quyết ông nói tới điều gì?
Cái mất, cái còn, cái cổ xưa, cái cận đại, Hồn nguyên tiêu / Phượng Thành Hy Lạp úa / Bờ trùng ngộ một phen này phen nữa / điển tích và những câu nói cửa miệng xen lẫn, bờ trùng ngộ là gì mà có cả một phen này phen nữa?
Đọc liền một lúc một bài thơ của Bùi Giáng, đọc một hơi mươi mười lăm câu thơ của ông, người ta có cảm tưởng ông đùa rỡn với một điều gì đó hết sức nghiêm trọng. Nhưng đã nghiêm trọng sao lại đùa? Đọc một hai câu thơ của ông thôi, có khi chúng ta lạnh mình, tựa hồ bị thổi tạt bởi một cơn gió rét không biết tự phương nào lại.
Đất hoa khóc vĩnh biệt trời
Ngàn cây cố quận đổi lời sương thâu
Đất khóc, trời khóc hay người khóc? Nhưng khóc cái gì mới được chứ? Đất trời có vĩnh biệt đã vĩnh biệt lâu rồi, không còn gì để khóc. Ngàn cây cố quận đổi lời sương thâu. Hãy tưởng tượng một sớm hay một chiều nào đó, ta trở về quê cũ, ngẩng mặt trông những hàng cây, gió thổi lùa sương từ cành này qua cành khác. Cành nói với lá. Lá nói với hư vô, nói với ta, hay chỉ vì gió lay nên cành động? Cố hương. Cố quận. Cố nhân tình. Mờ mờ, ảo ảo.
Cảnh cũng là người và người cũng là cảnh, lẫn lộn trong sương mù.
Ta cười cợt, ta nghiêm chỉnh, ta nhớ quên, ta làm bộ hay ta biết rõ, tất cả đều diễn ra cùng một lúc với cái chết. Cái chết như sương mù bôi xóa.
Nhưng nghĩ như thế cũng có thể là nghĩ sai về thơ Bùi Giáng.
Hãy nghe ông nói về thơ ông:
“Thơ tôi làm ra là để tặng chuồn chuồn, châu chấu, xin các ngài học giả hãy xa lánh thơ tôi”.
Hoặc:
“Muốn bàn tới thơ, diễn dịch thơ, người ta chỉ có thể làm một bài thơ khác”.
Ông còn bảo rằng:“Kẻ nào tự xét mình từ trong tinh thể mà ra chả có chi là phiêu bồng tí chút thì chả nên cưỡng cầu tự ép uổng ghé vào thi ca thâm xứ mà chi”.
Như thế, Bùi Giáng vừa làm thơ vừa muốn đóng cửa thơ.
Nguyễn Vy Khanh, trong một bài viết về thơ Bùi Giáng cũng cho rằng “người ta đã viết nhiều về hành trạng Bùi Giáng hơn là thơ của ông”.
Nhưng hành trạng sống của ông cũng là thơ ông.
Thơ ông làm là để tặng chuồn chuồn châu chấu tại sao chúng ta lại lấy đọc rồi trách ông tư tưởng rời rạc, không có hệ thống?
Trữ tình chăng?
Bây giờ riêng đối diện tôi
Còn hai con mắt khóc người một con
Hiện thực chăng?
Bây giờ em để quần đâu
Cỏ trên mình mẩy em sầu ra sao?
Cười cợt chăng?
Que diêm que lửa que lời
Cõi trăm năm cũng một đời ba que.
Hai câu thơ vừa rồi rút trong bài “que diêm” Bùi Giáng viết sau năm 1975.
Thơ Bùi Giáng như vậy.
Ông không khóc nhưng hình như thơ ông có nước mắt. Ông cười cợt khi nói lời nghiêm trang. Ông nói với chính mình nhiều hơn với người khác.
Về cái chết của mình ông đã để sẵn trong tập Mưa Nguồn cách ngày ông qua đời mười năm mấy câu này:
Ngày sẽ hết tôi sẽ không ở lại
Tôi sẽ đi và chưa biết đi đâu
Tôi sẽ tiếc thương trần gian này mãi mãi
Vì nơi đây tôi sống đủ vui sầu
Bùi Giáng là ai?
Một trung niên thi sĩ như ông vẫn tự gọi?
Một nhà thơ lớn của Việt Nam?
Hay giản dị: ông chỉ là một người điên?
Rất nhiều người, trong đó có cả những nhà văn, nhà thơ, nhà phê bình văn học của chúng ta, đã thử trả lời câu hỏi ấy, nhưng hình như vẫn chưa có câu trả lời thỏa đáng.
Mỗi người nhìn ông một khác.
Người ta viết, nói về Bùi Giáng như một cách tự giải đáp những thắc mắc của mình về Bùi Giáng nhiều hơn là thơ của ông.
Và khi nói về thơ của ông dường như người ta lại nói về các giai thoại quanh ông, những điều bàn tán về ông nhiều hơn.
Nhưng nếu người ta đã có lần đọc Bùi Giáng, yêu những bài thơ, những bài phiếm luận của ông liên quan tới thi ca, triết học, tôn giáo, chuyện tào lao dính tới Brigitte Bardot, Kim Cương hay Mẹ Phùng Khánh của ông, thì người ta sẽ vô cùng thích thú vì thấy tất cả những điều đàm luận kia chẳng khác những tấm gương phản chiếu nhiều khuôn mặt của Bùi Giáng: cười cợt, đau đớn, nghiêm chỉnh, điên rồ…
Nhà thơ Huy Tưởng coi Bùi Giáng là “Thông tuệ và tài ba ngất trời điên đảo”.
Nhà văn Mai Thảo viết: “Bùi Giáng chất ngất một trời chữ nghĩa, trùng trùng một biển văn chương.”
Nhà phê bình Huỳnh Hữu Ủy cho rằng: “Đi cho tới cùng cái sâu thẳm nhất của ngôn ngữ tới đỉnh cao chót vót của nó sống với nó trong từng mỗi giây phút, trong từng mỗi sát na, xưa nay có lẽ chỉ mới có Bùi Giáng là một.”
Nhà văn Cung Tích Biền cho thấy một Bùi Giáng trong thơ và ngoài đời như sau:
“Sống giữa đời ông có khả năng lấy mật đắng, ớt cay làm ngọt. Ăn cơm để thiu rất nhiều ngày. Ông ăn chè ngọt nấu cả với tương chao, nêm vài con mắm. Ông nổi tam bành lúc người đời lẽ ra nên cười, được phúc, đắc lợi. Ông rất vui với những ngày chói lòa ánh dương trong một thị thành mà nhìn xe cộ tưởng hươu nai.”
“Ông lạ trong sinh hoạt đời thường, lạ trong thi ca, tư tưởng. Ông rất đỗi cô đơn, tự đọa đầy, vầy cuộc chơi múa hát chỗ vô thanh, đùa giỡn quỷ thần, tương đắc kẻ ở mộ, nhớ những người sẽ tới. Ông trào lộng tuyệt cùng giữa bi đát. Nói chung, cuộc sống của ông khá bí ẩn và kỳ dị.”
Như thế, có vẻ như người ta không tiếc lời ca ngợi Bùi Giáng.
Nhưng cũng không thiếu những người nghĩ khác.
Chẳng hạn như Thụy Khuê.
Thụy Khuê viết:
“Trong gần nửa thế kỷ làm thơ, Bùi Giáng đã để lại hàng ngàn bài, có những câu thơ tuyệt hay, nhưng chính sự lập lại những khám phá ngôn ngữ buổi đầu khiến thơ ông trở thành khuôn sáo về mặt từ ngữ cũng như tư tưởng. Những dạ thưa, tồn sinh, trùng lai, phố thị của Bùi Giáng,
tà huy của Nguyễn Gia Thiều, mù sa, trăm năm của Nguyễn Du ban đầu làm xao xuyến người đọc… Nhưng vì lập lại nhiều lần, chúng bị phá giá.”
Còn Trần Hữu Thục trong một bài nhận định của mình đã viết rằng:
“Nói cho rõ ràng ra, thơ của Bùi Giáng dở. Trừ một số câu thơ hay, chưa hẳn là rất hay, còn lại hầu hết thơ ông đều dở. Tôi có cảm tưởng rất nhiều câu thơ của ông làm chẳng khác gì những câu thơ ngây ngô của mình khi mới bắt đầu tập tễnh làm thơ hồi còn học trò.”
Xin trích dẫn mấy câu lục bát của Bùi Giáng:
Giật mình lúc chợt nghĩ ra
Rằng toàn thân thuộc đã qua đời rồi
Có những câu ta thật sự không hiểu ông định nói gì:
một hôm gầu guộc gầm ghì
hai hôm gần gũi cũng vì ba hôm
Xen vào đấy là những câu có thể làm chúng ta sởn người khi đọc:
Đất hoa khóc vĩnh biệt trời
Ngàn cây cố quận đổi lời sương thâu
Hoặc chỉ một câu thôi đủ làm chúng ta ngẩn ngơ:
Còn hai con mắt khóc người một con
Bùi Giáng điên thật chăng?
Người ta kể lại rằng, một cán bộ cao cấp của Hà Nội khi gặp Bùi Giáng đã nói, họ đánh giá cao những tác phẩm của ông, nhưng muốn rằng Bùi Giáng phải thay đổi cách suy nghĩ, phải tỏ ra tiến bộ mới có thể làm việc trở lại được, hiểu theo nghĩa mới được “phép” viết lách trở lại. Bùi Giáng đã đứng dậy chỉ vào mặt người này, hỏi lại:
– Thế nào là tiến bộ? Trời đất có bắt núi non tiến bộ không? Nếu núi non tiến bộ mãi mày đi đâu mà ở?
Đó có phải lời nói của một người điên chăng?
Đây là một giai thoại bịa đặt hay có thật?
Trở lại với thơ Bùi Giáng.
Hình như ông không làm thơ theo quan niệm, theo cái cách người ta thường nghĩ.
Ông rũ bỏ thơ ra khỏi mình như những bụi bậm, như một oan nghiệp.
Mai Thảo mất trước Bùi Giáng.
Trước khi chết Mai Thảo có để lại bốn câu thơ:
Và ở Sài Gòn vẫn còn Bùi Giáng
Tối tối về chùa, đêm làm thơ
Ngày ca múa, khóc cười giữa chợ
Kẻ sĩ điên thế kỷ mù rồi
Hai người có gặp lại nhau chăng?
Nếu có, họ sẽ nói gì với nhau nhỉ?
Thanh Tâm Tuyền gọi Bùi Giáng là “một thiên tài tự hủy ghê gớm nhất của thi ca hiện đại”.
Nguyễn Hưng Quốc coi “thơ Bùi Giáng là những phún xuất thạch phun lên từ hỏa diệm sơn của hồn ông”.
Nguyễn Hoàng Văn cho rằng “thơ ông [Bùi Giáng] là khối trầm hương chữ nghĩa”.
Còn Bùi Giáng tự nói về mình thế này:
Miệng anh còn đủ lưỡi môi
Mà răng rụng hết lấy gì nhe ra
Mím môi ôm mặt khóc òa
Hôn em một chút cho đỡ già nua thôi.
Tóm lại khó có một bức chân dung Bùi Giáng. Chỉ có một hình ảnh từa tựa. Ông là một bài thơ lạc vận và đôi khi thừa chữ.
NGUYỄN ĐÌNH TOÀN
.
.
.
.
.
Những câu thơ thư pháp
của
BÙI GIÁNG
____________________________
Người từ vô tận tái sinh
Đi qua trần thế mang tình nhân gian
2.
Gởi trời một giọt mù sương
Trao về cho đất vô thường cỏ thơm.
3.
Trăm năm tao ngộ một giờ
Tình thương vô tận bất ngờ tái sinh.
4.
Gió lay lắt bốn phương về dồn tụ
Bụi thu mờ ai phủi với hai tay.
5.
Ngày sẽ hết tôi sẽ không trở lại
Tôi sẽ đi và chưa biết đi đâu
Ta sẽ nhớ trần gian này mãi mãi
Vì nơi đây ta có cả vui sầu.
6.
Ta cứ ngỡ trần gian là cõi thật
Thế cho nên tất bật đến bây giờ.
7.
Ta cứ ngỡ xuống trần chơi một chốc
Nào ngờ dau ở mãi đến hôm nay.
8.
Ta ngó mãi những chiều về trở lại
Mang những gì về trong cõi trăm năm.
9.
Còn ở lại một ngày còn yêu mãi
Còn một đêm còn thở với trăng sao.
10.
Xin cảm tạ nghĩa trần gian đây đó
Bạn tâm giao người xa lạ tâm tình.
11.
Nắng buồn thương nhớ bên nhau
Nhìn lưa thưa lá niềm đau trong cành.
12.
Trời khuya khoắt phiêu du trăng bỡ ngỡ
Người đi đâu sông nước lạnh vô cùng.- Em ngó mãi những chiều về trở lại
Mang những gì về trong cõi trăm năm. - Ôi biệt ly tơi bời đời hư ảo
Em ra đi – đời bưng mặt khóc òa.
.
.
.
Phật giáo trong thơ Bùi Giáng
__________________________________
YẾN TỬ
.
Không kể đến những thiền sư thi sĩ, Bùi Giáng là người duy nhất trên văn đàn Việt Nam có nguồn thơ thâm mật, trác tuyệt lấy từ cõi Phật giáo uyên nguyên. Ngôn ngữ Phật giáo trong thơ Bùi Giáng vừa là “thuật ngữ chuyên môn” của Kinh, vừa là thứ rất riêng của Bùi Giáng.
Với thứ ngôn ngữ đó, Bùi Giáng đã đưa kinh Phật về với cõi ba đào tuý luý tình mộng đổ xiêu của mình, cõi thơ Bùi Giáng trở nên lãng đãng bóng dáng, ngôn ngữ tinh mật thuyết thoại cùng bể dâu tuế nguyệt. Thơ Bùi Giáng vì vậy thấy gần gũi mà xa lạ; giản dị mà khó hiểu vô cùng.
Bùi Giáng suốt kiếp rong chơi – rong chơi cả trong tư tưởng, mặc dù ông đã phiêu du qua lắm ngõ ngách của cõi Đông – Tây nhưng chưa một lần ông chọn cho mình một ốc đảo cụ thể nào để quay về nương tựa. Trong ông là cả một đống tư tưởng hỗn-độn-hoà-hiệp của “đìu hiu con nhạn Hocderlin, con ngỗng trời bất tuyệt Nguyễn Du, con hạc vàng huyền ảo Nervel, con sư tử hống thời phương thảo lục Nietzsche”, của đức Lão, đức Khâu, đức Phật…
Công bằng mà nói, Phật giáo là nguồn “tài trợ” hào phóng cho cả thơ và đời Bùi Giáng. Xét về lối sống, Bùi Giáng đã phụng hiến cả đời mình. Ông học thói tiêu dao đã lệch xiêu của Đạo giáo, học kiểu sống tuỳ duyên, sắc sắc không không của Phật giáo theo cố chấp riêng của mình… Nhưng đậm đặc hơn cả vẫn là tư tưởng của Phật giáo. Ở điểm này, chưa thấy tu sĩ Phật giáo nào “học cùng bài” với ông lại làm như ông cả. Bởi ông là môt dạng thức của việc áp dụng thái quá và tổng hợp những tư tưởng mà ông học hỏi được. Vì vậy mà Bùi Giáng sống một đời phá chấp phá tướng gần như huỷ hoại, cố vùng vẫy thoát ra mắc lưới “chấp có lại dính chặt vào chấp không”: phá tướng phong nhã, hào hoa, nhà cao, cửa rộng lại trở về ưu ái chiếc áo trùng điệp màu sắc bẩn thỉu, quần lớp ba lớp bảy ngắn ngoài dài trong, ngủ phố, ngủ hè…
Phật dạy con người trở về với bản lai diện mục, Bùi Giáng hô hào đi tìm “nguyên mộng”, “nguyên xuân” và “trở về cố quận”. Thế giới thơ Bùi Giáng là thế giới biểu tượng thơ mộng và dịch giải ra, ấy là lời Phật. Bùi Giáng có lúc cao hứng còn cho rằng: có ngày “mưa nguồn”* sẽ chuyển dịch thành “kinh điển thơ ca… lúc đó Tăng Ni… sẽ ngâm thơ thay cho tụng kinh đọc chú”. Bùi Giáng nói như vậy, tất nhiên, trừ ông ra mãi mãi sẽ không có ai nói lời tương tự. Cho nên, nội lực thâm hậu của Bùi Giáng chỉ có thể là “tiếp dẫn đạo sư” cho nguồn thơ Việt, là ngọn gió tọc mạch khiến cho mây bình nguyên vần vũ đảo điên chứ không thể không ít nhiều làm đổ rụng, xiêu lệch tư tưởng Phật giáo uyên nguyên. Nhưng trừ những cố chấp đó ra, Bùi Giáng vẫn tỏ ra xứng đáng với danh hiệu “thi sĩ Bồ tát” mà giới bạn đọc đã dành tặng cho ông.
Xưa nay người ta nói nhiều về chữ “Tâm”: Nguyễn Du “lẩm cẩm” nói đi nói lại trong “Kiều”; Nguyễn Trãi bằng cách này cách nọ cũng mang chữ “Tâm” đi thuyết thoại lòng người; Trịnh Công Sơn diết da gào kêu đằm thắm: “Sống trên đời sống cần có một tấm lòng”… và đến Bùi Giáng thì “tướng tuỳ tâm hiện”. Nhưng “tâm” Bùi Giáng thì hiện rặt những tồn hoạt đổ xiêu, trăng thuở trước, sóng ngàn sau… Qua đổ rụng thấy hoa lá rung rinh, qua thể thân chuyển dịch thấy thể thân được tao phùng với bao điều mới mẻ, tinh khôi trong mỗi phút, mỗi giờ:
“Đường đi ngõ quạnh lang thang,
Niềm vui tao ngộ muôn vàn lạ thay.
Trái tim mỗi mỗi mỗi ngày,
Mỗi giờ phút đọng mây trời rung rinh”.
Ấy là sự chuyển dịch, đổi thay của không gian, thời gian, bản chất và hiện tượng. Thời gian đi là nước đi. Hay đời người cũng đi? Bùi Giáng buộc mình ý thức trong từng sát-na sự ra đi của xác thân, của tình yêu, của vạn vật trong cõi ban sơ:
– Thân xương máu đã đành là uỷ mị.
– Em ở lại với đời ta em nhé.
– Em về mấy thế kỷ sau.
Nhìn trăng có thấy nguyên màu ấy không.
“Mỗi sáng tôi nhìn mặt trời mọc trong mây,
Mỗi chiều tôi nhìn mặt trời lặn trong mây,
Suốt ngày tôi lắng tai nghe tiếng chim hót trong lá cây reo,
Và nhìn thấy rất nhiều mùa xuân mênh mông đang đi tới”.
(Nhìn thấy – “Đêm ngắm trăng” tr.27)
Có ý thức từng hơi thở vào ra mới thấy sự quý trọng và cần thiết của hơi thở. Bình lặng thở vào, mỉm cười thở ra, dẫu “mặt trời lặn”, “mặt trời mọc” thì hơi thở cũng trong lành và tĩnh tại.
Nhìn vạn vật đổi thay, em hãy là tấm gương sáng trong để tất cả qua đi soi mình vào đó. Sống là phụng hiến, là vươn lên. Nếu em buông thả cho tất cả qua đi trong vô ý thức, cuộc đời sẽ xám đen một màu ảm đạm. Đừng tỏ ra bất cần và chẳng hề tỉnh táo để nhận diện sự mầu nhiệm xung quanh. Nhưng nếu em “đưa tay nắm bắt để cầm; (em sẽ) nghe trong chút nắng sương chầm chậm bay”. Nắng giữ chẳng được, buông thả không xong, tất cả qua đi trong ý thức. Cứ nghe chim hót, lá reo. Cứ nhìn mặt trời mọc, mặt trời lặn mỗi sớm, mỗi chiều để thấy một bình minh, một mặt trăng đang nhón gót đến gần. Đừng cố níu giữ làm gì, rồi mặt trời sẽ mọc, mặt trời sẽ lặn, mỗi ngày mỗi mới, em sẽ tìm ra đúng nghĩa một đời vui.
Tha thiết cầu cứu cho chuồn chuồn, châu chấu, nguyên mộng, nguyên xuân… thơ Bùi Giáng vì vậy văng vẳng lời kêu “phản quan tự kỷ”. Chỉ với thiên nhiên huyền nhiệm, ta đã giàu có mà ta lại làm “cùng tử lang thang” đi tìm cầu mọi thứ để khi sức mòn lực kiệt mới thảng thốt gào kêu: Cố hương ơi, đường trở về sao quá xa xôi! Ôi quê hương, cố quận! Ôi, nguyên mộng, nguyên xuân! Cuối cùng rồi ta cũng gặp ngươi, gặp lại tình ta. Hoát nhiên ta “đại ngộ” vì sao Bùi Giáng nói:
“Hỏi rằng người ở quê đâu
Thưa rằng tôi ở rất lâu quê nhà”.
hay :
“Từ đâu ngươi đến? – Từ đây ta về”.
Hành trình lữ thứ để quy hồi cố quận, có ai ngờ, càng đi càng xa. Hãy đi để trở về, “hãy đến đi để thấy”, “hãy như thực tri chứng”. Cũng như:
“Người nằm ngủ thấy gì,
Thấy rất nhiều nắng lạ,
Những chùm bông rất xanh,
Có lẽ bông là lá.
Người nằm ngủ thấy gì,
Chẳng thấy gì hết cả.
Ngài thử nằm ngủ đi,
Đừng hỏi gì hết cả”.
(Có lẽ – “Mưa nguồn…” tr. 359)
Nắng, lá, bông ngươi thấy không như thấy. Cái ngươi thấy sẽ khác cái ta thấy. Hãy ngủ đi để thấy, hỏi có ích gì. Hãy bỏ chân xuống tháng ngày, đừng bắt chước bọn thi sĩ lếu láo “quanh năm ru rú trong tháp ngà mà liên miên thuyết thoại về dâu biển tinh sương chan hoà tuế nguyệt”? Lời suông có ích gì, chỉ méo mó xiêu lệch mà thôi. Không ai lấy cắp được đoá hoa trong tâm hồn người khác, mặt trăng rỗng tuếch tư niệm soi xuống nhân gian như ngàn vạn đoá hoa dâng tặng hồn người. Bùi Giáng cảm nhận được và cố chỉ cho người khác nhưng lại khuyến cáo “ngón tay không phải là mặt trăng”. Không đến sẽ không thấy, kẻ “như thực tri chứng” trong trường hợp này chỉ biết ngước mắt nhìn trăng thơ mộng mà cảm thương: ước gì ta có thể cho ngươi vầng trăng đẹp này!
Đọc thơ Bùi Giáng không bằng hiểu Bùi Giáng. Hiểu Bùi Giáng không bằng cùng Bùi Giáng bỏ chân xuống tháng ngày. Bảo rằng nhìn thơ Bùi Giáng qua nhãn quan Phật giáo là nhạt nhẽo, méo mó… Hãy đến đi, để thấy… Dẫu sao, Bùi Giáng cũng từng nhắn nhủ: “Chúng ta quên một cách quá dễ dàng, vắng một nhà tư tưởng tác động một cách thiết cốt nhất, chính là những điểm ông bị kích bác hơn là những điểm ông được tán đồng”. Biết vậy, Bùi Giáng mặc ai khen, ai chê, đã “tự tại với tâm” thì “tự tại với pháp”.
Yến Tử
(Nguồn: Liễu Quán)
.
__________________
từ tr.2
^^về đầu chương biên luận
<< về trang chủ