thơ Đường luật

DẤU XƯA

      TỰA.
Ta, như môt lữ khách, lang thang tìm đất trọ,
khoảnh khắc dừng chân rồi mải mê lên đường.

Ra đi từ cát bụi mịt mùng, ta mộng về nơi yên
nghỉ,  cho dù yên nghỉ thiên thu.
Từ cuộc hành trình ấy, đôi khi ta thấy bóng
người chạm lên đá núi, khuôn mặt soi trên
sông hồ, tâm tình thấm vào lòng giấy.
Nỗi niềm một thuở, như vệt bụi, phai theo thời gian, khuất dần dấu xưa, lắng
vào hư vô.

Thủ Đức, cuối thu 2011
ĐOÀN THUẬN

SẮC HÌNH

Năm tháng ra đi chẳng trở về
Thuyền trôi lữ khách mãi say mê
Xuân tàn hoa hạ buồn hiu hắt
Thu khuất bờ đông lạnh sắt se
Cuộc sống như mây vào cõi mộng
Tình yêu tựa nước vỗ chân đê
Có không còn mất trong hình sắc
Một tiếng cười hay nỗi tái tê.

Hà Tiên,1972 .


HỒN ĐÁ

Sắc màu in thắm trong hồn đá.
Lẫn nét buồn xa khuôn mặt xưa.
Mùa tạc hồng hoang vào tịch mịch.
Khói mây hóa kiếp một làn mưa.

NÉT TƯỢNG

Khuôn mặt nào ai in vách núi.
Nét tượng phong sương giữa đất trời.
Hóa thạch bao mùa dòng nước mắt.
Môi cười mím chặt nỗi đau đời.

 

PHẬN HẠT

Củ hạt vùi mưa nắng.
Mộng ấp ủ mầm phôi.
Chồi non lên mặt đất.
Búp nõn ngóng mây trời.

 

LÚA RÀI

Dé lúa rài đầm vắng.
Đâu hay chuyện mất còn.
Nương thân mùa nước nổi.
Mầm xanh nứt mạ non.

DUYÊN PHẬN

Cát bụi lần theo mùa chuyển dich.
Số phận nhân duyên có ngọn nguồn.
Hương hoa gió thổi qua ngà xứ.
Phiêu bạt cùng mây thấm gió sương.

BÓNG HÌNH

Phẩm hạnh hiền nhân đâu tạc tượng,
Vẫn in tâm thức kẻ lương dân.
Hình bóng xác thân lũ bạo chúa,
Mục rã vùi quên dưới mộ phần.

 

DẤU XƯA [1]

Người đến rong chơi một cõi ta
Hồn nhiên đùa cợt giữa vườn nhà
Hài thêu dẫm nát đường rêu biếc
Áo lụa căng thon dáng ngọc ngà
Nguyệt quế nồng  hương  thơm suối tóc
Phong lan thắm sắc điểm môi hoa
Thơ ngây thoáng hiện rối di mãi
Bỏ dại hồn hoang buồn vắng xa.
.


DẤU XƯA [2]

Mùa đi rừng núi chợt phân vân
Ước cũ mơ xưa cũng nhạt dần
Gió thổi đìu hiu bờ cỏ dại
Mưa rơi mờ mịt bến hoa xuân
Nghìn thu nước chảy mòn thân đá
Một khắc đường về mỏi bước chân
Dâu bể ven trời đời lữ thứ
Đâu hay sương khói lạnh lòng trần.

.

tranh của Koukei Kojima
nguồn internet

 

VƯỜN HOANG

Nắng muộn hoàng hôn rụng xuống đồi
Vườn hoang dạ lý thả huơng  trôi
Sương mù nghịch lá sầu đông lạnh
Gió tối đùa hoa mắc cở chơi.

 

VƯỜN DÂU

Nắng muộn hoàng hôn rụng xuống đồi.
Vườn dâu dạ lý thả hương trôi.
Sương mù nghịch lá sầu đông lạnh.
Gió tối đùa hoa mắc cở chơi.

MÂY NƯỚC                      

Những giọt mưa rơi xuống cuối ngày.
Tăm hơi mờ mịt phía rừng cây.
Đường hoang ướt sũng bờ hoa dại
Khói sóng bềnh bồng phận nước mây.

CÚC DẠI

Phố khuất đồi thông già
Sương mờ thung lũng xa
Cúc dại buồn thu vắng
Hương thấm lạnh màu hoa.

 

LAN RỪNG

Phố khuất đồi thông già
Sương mờ thung lũng xa
Lan rừng đêm hạ vắng
Hương thắm lạnh màu hoa

Đơn Dương, 1968

 

LAN QUẾ HƯƠNG

Mấy đoá lan rừng tự toả hương
Mơ hồ thơm thoảng phía sau truông
Cay cay vị quế trong mưa nhẹ
Dịu dịu mùi trầm dưới nắng vương
Đọng lại ngàn năm màu quí phái
Bay qua một thoáng bóng y thường
Tưởng người cõi mộng đào nguyên cũ
Lỡ bước nhân duyên lạc phố phường.

 

TRƯỚC NGÀN MAI

Một cánh rừng mai nở bạt ngàn
Hương lùa theo gió khắp quan san
Cành cành búp mới khoe màu biếc,
Đoá đoá đài non thắm sắc vàng.
Chạnh nghĩ thương tình hoa phố thị,
Thêm buồn tiếc nuối thuở hồng hoang
Mùa đi bỏ mặc đời dâu bể ,
Cây cỏ dung nhan tự úa tàn.

 

LAN HOÀNG HẠC

Có ai đó đọc thơ chiều vắng
Để lời buồn chạm cánh phong lan
Đã vắng bóng chim mùa cổ điển
Sao dưới hoa còn đậu hạc vàng.

 

BÊN RỪNG MAI

Một mình về lại rừng mai cũ
Tìm dấu chân quen thuở dại khờ
Xác hoa vàng phủ lối mòn khuất
Cát bụi dày lên đôi bãi bờ.

 

CỘI  MAI

Đông sang trẩy lá cội mai già
Chuyển nhựa trăm năm dưỡng sắc hoa
Hạt mọng rơi thầm trên đất cũ
Hương nhu bay khuất phía trời xa
Mưa ươm nụ  mới màu biêng biếc
Nắng nhú chồi non dáng thướt tha
Én gọi mùa về xuân thở lại
Riêng ta tuổi dại mãi trôi qua

 

MAI SẺ

Tháng nhuận mai rừng sớm rộ ngang
Ta còn cội Sẻ đón mùa sang
Thân già búp mới đài xanh điểm
Gốc cổi nhành non lộc biếc tràn
Sắc thấm môi hoa còn chúm chím
Hương vương mắc lá đã mênh mang.
Tình hoa lắng đọng hồn sông núi
Hạt chuyển mầm xuân nụ nở vàng.

HƯƠNG MÙA

Hoa đẹp đâu hay người thưởng ngoạn
Tóc bạc không do số phận buồn
Hương mùa rong ruổi qua ngàn xứ
Phiêu bạt cùng mây thấm gió sương

HƯƠNG TRỜI

Hoa rừng vắng hồn nhiên tàn nở
Trăng rơi mờ lối sỏi đìu thiu
Cây đổ bóng hiên mai lặng tỉnh
Sương ngoài trời thấm lạnh hương đêm.

.
tranh cùa Bob Ross
nguồn internet

 

HÌNH TƯỢNG

Phiến đá tàn ông ngả sậm màu
Trôi vào bến cát đã từ lâu
Người nhàn thấy giống hòn non bộ
Kẻ sỹ nhìn ra nét bể dâu
Khuôn mặt nhân gian còn dấu kín
Mối sầu kim cổ mãi chìm sâu
Đôi khi gặp lại trong hình tượng
Bóng dáng người xưa bạc mái đầu.

MÂY TRỜI

Mây ngang đồi gió hú,
Che mờ bến tịch liêu.
Thấm lạnh bờ hoang dã,
Nghiêng mưa xuống bóng chiều.

HẠT MƯA

Hạt mưa từ bóng mây,
Tạt ướt đẫm rừng cây,
Theo suối sông về biển,
Hóa thành hơi nước bay.

La Ngà, 1968

NẮNG

Nắng đổ xuống sân phơi
Nỏ cong vệt bóng người
Mẩy vàng thơm hạt thóc
Khô trắng giọt mồ hôi.

 

HẠT BỤI

Có hạt bụi mồ côi
Trầm ngâm bên cuộc đời,
Bên dòng sông tịch mịch
Lăn mãi về xa xôi.

 

CHIẾC LÁ RƠI

Chiếc lá vàng khô bay trước cửa,
Hồn nhiên như thuở chưa lìa cành.
Chao nghiêng trước gió chiều thu muộn,
Lướt nhẹ qua thềm vạt nắng hanh.
Núi cổi chồi khô phai sắc biếc,
Rừng già đọt héo mất màu xanh
Năm tàn tháng tận ngày đêm bạc.
Phận mỏng phong phiêu âu cũng đành.


HẠT GIỐNG Ủ

Hạt giống chim gieo miền đất lạ,
Thân rài mộc dại phú cho mùa.
Mầm khô hạn cháy thiêu trời nắng,
Mộng úng triều dâng ngập lũ mưa.
Vạn hữu nương nhờ vào đất nước,
Muôn loài sống tạm tự sau xưa.
Nhân yên cây cỏ sum suê quả.
Ước vọng sinh tồn chẳng vắng thưa.

 

SẠ HẠT

Bông lúa rài châu thồ
Cơn lũ quét về đâu
Đêm phù sa đất nhớ
Người sạ hạt đồng sâu

 

SEN

Đời hạt vùi trong đất
Nứt lên xanh luống cày
Sen ngó từ bùn nước
Thả hương đầy sớm mai.

CÕI MÔNG LUNG

Thức giấc nhìn ra đêm tĩnh lặng,
Trăng tàn phả tối xuống hoang vu.
Rừng cây gió hú âm mê hoặc,
Núi đá mây che bóng ảo hư.
Phận nọ thân này thời giả tạm,
Duyên xưa kiếp cũ thuở chân như.
Mông lung hoá hiện đời hay mộng.
Ngẫm ngợi riêng ta giữa mịt mù

HỒN THẠCH THẢO

Thử chạm đời lên phiến đá thô
Ta nghe thạch thảo nở mơ hồ
Mây mưa hoá hiện hoàng hoa muộn
Gió cát trầm luân nhật nguyệt mờ.
Núi nát ba sinh sầu cổ độ
Tro tàn hương lửa lạnh hư vô
Làm sao tạc được hồn non nước
Một nỗi niềm riêng lẫn giấc mơ.

 

 

 

 

 

tranh của  Đặng Can
nguồn internet

 

ĐẤT TRỌ

Sông dài núi nhọn ngày tìm đến.
Sụp lở tan hoang lúc trở về.
Vết chân loan lổ bao loài thú.
Đất trọ hoa phai cỏ lụi tàn.

ĐẤT MẸ

Miền Trung đất Mẹ trời hành mãi,

Sóng vỗ sập nhà, lũ quét dân.
Xóm mạc hoang tàn khi bão tố,
Làng chài sạt lở lúc triều dâng.
Đồi cây động cát thành doi biển,
Ải núi truông đèo hoá đất cằn.
Nước biếc non xanh bức tranh cổ,
Tang thương một dải mỏng manh dần.

 

TRĂNG  BIỂN

Trăng lửng lơ treo đảo mộng mơ
Thuyền câu một lá thả mơ hồ
Dập duềnh thấp thoáng làn mây nhạt
Ẩn hiện lung linh dải lụa mờ
Khói sóng Hòn Bà mù bóng nước
Đồi dương đất Nghảnh lạnh cây bờ
Ta về xóm lưới Tân Long cũ
Thức nhớ mùa trăng thuở ấu thơ.

Tân Long, 1976

NÚI CÚ

Tà Cú sương mờ núi
Chiều đổ giọt chuông rơi
Chùa khuất lưng chừng biếc
Hoa bay lấp dấu người.

CHUÔNG CHÙA

Chuông chiều rung trúc biếc
Lay bóng dã quì vàng
Theo cỏ thơm lên núi
Hoa rụng buồn thu sang

GIẾNG THẦY

Tháng tám mưa rơi trắng Giếng Thầy
Ta về cứ ngỡ bóng mây bay
Rừng hoang lá rụng đầy đường cũ
Động vắng rêu lan lấp dấu ngày
Tiếng mõ khua rền lòng đất lạnh
Hương hoa gợi nhớ mối sầu dài
Tưởng vào cõi tịnh tâm nhàn nhã
Chợt thấy chưa qua cuộc tỉnh say.

HỒ TÔM

Xóm biển Hồ Tôm cuối Bãi Ngang

Giữa miền Động Trắng cạnh Sông Hàn
Dòng trăng loang loáng bầy tôm bạc
Lạch nước lăn tăn lớp cát vàng
Cụm khói sương mờ ngày bấc lạnh
Hàng dương liễu biếc buổi nồm sang
Bến bờ mấy độ mùa thay đổi
Mặt nước còn in bóng ấp hoang.

ĐÊM  KÊ GÀ

Suối Nhum qua Thuận Quí
vỗ sóng bờ châu sa.
Thuyền câu khơi Mũi Điện
thắp lửa đêm Kê Gà.

BẾN TÂN LONG

Xóm Lưới ôm bờ đước
Tiên Sa chặn thủy triều
Dân chài mơ biển lặng
Bến tạnh neo đò chiều.

ĐÁ DỰNG

Đá Dựng sông Dinh đập nước xanh
Mưa rơi mạch lắng tự đầu gành
Bờ nghiêng bóng rủ  bằng lăng tím
Bến dỗ thuyền neo giấc mộng lành
Một Cột chùa xưa  hồn cổ tích
Đôi hàng trúc biếc  nét đan thanh
Dòng xuôi về biển trôi năm tháng
Ai nhớ Đào Viên hội yến anh

 

HÒN BÀ

Hòn Bà, đảo nhỏ giữa trùng khơi
Tựa mảnh Thiên Y của đất trời
Phủ xuống đầu gành sâu chới với
Choàng lên ngọn sóng nổi chơi vơi
Cây nghiêng bóng nước hoa tàn rụng
Đá lắng hồn mây sương nhạt rơi
Bến mộng thuyền neo mùa biển lặng
Tiếng chuông chùa cổ vọng muôn đời

CHIỀU LA NGÂU

La Ngâu về khép cửa,
Vội ngã chiều lên bưng.
Dải mây choàng lạnh núi.
Xóm rẫy ngủ sau rừng..

PHỐ LA GI

La Gi, miền phố biển,
Bấc thổi lạnh rừng chiều
Nồm sang mưa bão rớt
Nghe xa nhạc thủy triều.

DƯỚI CHÂN TÀ CÚ

Chiếc lá vàng khô rụng cuối sân
Ta nghe thu muộn như xa dần
Tường vi mới nụ còn e thẹn
Nguyệt quế vừa hương cũng ngại ngần
Giếng cũ mưa ngang bờ đá bạt
Chùa xưa núi khuất giọt chuông ngân
Chiều đi bóng đổ buồn cô tháp
Cỏ lấp đường hoang lấm bụi trần.

 

XÓM DỐC CHÙA

Thôn Dốc Chùa xưa thấp thoáng hoa
Đồi nương thong thả xuống thung trà
Khe luồn sương trắng đôi bờ cỏ
Xóm núp thông xanh mấy nếp nhà
Lối núi phong lan hương toả ngát
Hồ thu mây nước khói bay nhoà
Giáp Hoàng tĩnh mịch đêm chùa cổ
Một giọt chuông nghe lạnh núi xa

 

SÔNG DINH

Sông Dinh chuyển nước nguồn xa thẳm.
Bến Đước thuyền neo ánh lửa chài.
Bờ dương liễu rũ đêm huyền thoại.
Phố Biển người đi nhớ một mai.

TIẾNG VẠC

Trăng đêm mờ ảo giữa mênh mông
Tiếng vạc rơi buồn cõi sắc không
Giật mình ngó lại đồng thinh lặng
Ta hay bóng tượng trước dòng sông.

LỐI SỎI

Lối sỏi khi về xanh sắc rêu
Khóm hoa trinh nữ ngủ sau chiều
Lá thu mấy độ vàng sân lạnh
Như thể hồn ta đã quạnh hiu.

 

VƯỜN CHIỀU

Vườn xưa trúc biếc nắng hoa lay
Núi khuất rừng xa chim gọi bấy
Dăm pho tượng đá hồn hoang lạnh
Mấy cánh sen chiều hương thoảng bay.

NHÀ XƯA

Nhà tôi ở cuối nẻo thôn dâu
Lối ngõ quanh co khuất phố lầu
Bụi bám tường vôi mùa bấc lộng
Rêu phong mái ngói bóng mưa ngâu
Vài pho tượng đứng buồn năm tháng
Dăm bức tranh treo bạc sắc màu
Tịnh xá am mây đều chẳng phải
Hồn xưa nếp cũ nghĩa tinh sâu.

 

TƯỢNG HOA                                                                                                              

Tượng đứng hồn nhiên bên khóm hoa
Đầu nghiêng mắt nhắm dáng hiền hoà
Yên nghe hương thấm vào sương trắng
Lặng thấy màu phai dưới nắng tà
Đá lạnh tiêu sơ buồn núi vắng
Vườn hoang tĩnh mịch nhớ rừng xa
Rong rêu hoá thạch tình mây nước
Biết gửi về đâu nỗi xót xa.

 

LỐI HẠ

Nước sông thuyền bến đỗ
Theo mắt triều lên khơi
Phượng bay đầy phố hạ
Nỗi nhớ người không lời.

 

CUNG ĐỜI

Chân người nhịp bước mỏi.
Nỗi nhớ chạm cung đàn
Niềm vui lên tiếng hát
Nhật ký bụi gieo vàng .

 

 

 

 

 

tranh của Nguyễn Tư

DUYÊN THƠ

Gió thoảng mây bay cát bụi mờ
Lòng trần sương khói vướng duyên thơ
Người về biển cũ tìm tri kỹ
Kẻ ngóng trời xưa gửi ước mơ
Ngại chốn đua chen phường hám lợi
Thương dời khốn khồ cảnh bơ vơ
Trang thư nét chữ mùa tơ tóc
Lắng một tình xuân, một cõi thơ.

THU VỀ
NHỚ NGUYỄN KHUYẾN

Một chúm vàng tơ giữa lá cành
Mưa ngâu tiểu cúc chợt thêm xanh
Nhớ xưa Nguyễn Khuyến về Yên Đổ
Treo ấn Tam Nguyên biệt thị thành
Lánh đục về trong bên trúc biếc
Chia cay xẻ đắng với dân lành
Nụ hoa bé nhỏ mùa thu ấy
Giữ mãi hương mưa đượm khiết thanh.

Huế, 1989

TƯỞNG NIỆM
NHÀ THƠ CHÂU ANH

Tin Bác Châu Anh đã đi rồi
Nghe như trời đất vỡ làm đôi
Cho dù cõi tục nhiều phiền luỵ
Chẳng lẽ non tiên ít chuyển dời
Sao để thơ buồn treo lối mộng
Thôi đành nỗi nhớ lặng hồn tôi
Trăm năm lữ khách về quê cũ
Lới cạn tình sâu tiễn biệt người.

Tân An,6.2007

 

KHÔNG ĐỀ

Biển có nơi không mặn
Trăng lắm lúc mây mờ
Người như một dấu lặng
Một cõi về hư vô.

DẤU LẶNG

Nhịp đời tựa dấu lặng
Điệu nhớ lạnh cung đàn
Niềm đau lên tiếng hát
Lời rụng đầy đêm hoang.

TRƯỜNG  XUÂN

Trường Xuân Song Mộc thuở nao già,
Đồng Khánh ngân vang mãi khúc ca.
Năm tháng cho dù thêm vạn tuổi,
Vườn Hồng luôn vẫn nở ngàn hoa.
Hương rừng hương biển hương thơm đượm,
Lộc đất lộc trời lộc biếc ra.
Ân đức nghĩa nhân truyền hậu thế,
Hồng Lân hưởng thọ giữa quê nhà.

HOÀNG TRẦM

Nhật nguyệt theo mùa khuyết lại tròn
Vần xoay can giáp giữ chân bon
Trăm năm chẳng ngắn đời khôn dại
Một khắc đâu dài thuở bé con
Thế sự thôi đành râu tóc bạc
Hiếu trung vẫn trọn tấm lòng son.
Hoàng Trâm hương thấm ân trường thọ
Thanh thản yên vui giữa mất còn.

CHIM KHÁCH

Nghe con chim khách núi
Về hót giữa vườn hoa
Bạn đường xa chẳng tới
Ngõ vắng mờ sương sa.

CỔ THI

Nắng khuất dần trang giấy
Bỏ quên lời cổ thi
Trà sen thơm nét bút
Sách khép tiễn chiều đi.

NGƯỜI CỐ QUẬN

Tuy đã tha phương khuất dặm ngàn

Thương người cố quận nhớ dung nhan
Bao mùa gắn bó cùng non nước
Mấy độ buồn đau với xóm làng
Phận mỏng trúc mai đành nhận chịu
Duyên hờ dâu bể vẫn lo toan
Minh Trinh nghĩa trọn tình trong trắng
Đất cũ yên vui thơ với đàn.

ĐỜI LỮ THỨ

Cát Sỹ dù về phố Thảo Điền.
Tình xưa nghĩa cũ  vẫn y nguyên.
Thân già đất trọ buồn xa xứ.
Tóc bạc mùa đi lạc một miền.
Bạn hữu chân tình đâu được mấy.
Chân trời giả tạm khó an nhiên.
Lăng thầm tưởng niệm trường quê cũ.
Cầu nguyện thân nhân sống được yên.

.

 

.

 

 

 

.

CHIM CHIỀU

LỮ KHÁCH

Chiều hoang đổ bóng chim về tổ,
Lữ khách tìm nơi nghỉ lại đêm.
Núi thẳm rừng xa đôi cánh mỏi,
Thân đơn chốn lạ bước chân mềm.
Đường bay vạn dặm phiêu linh mãi,
Đất trọ không người tĩnh mịch thêm.
Hư ảo chân trời mây viễn xứ,
Mùa trôi xa lắc mộng êm đềm.

LỮ HÀNH

Ngày ta đến núi đồi trùng điệp ,
Lúc trở về rừng lạnh vắng hoang
Vết loang lổ dấu chân loài thú,
Đất trọ xưa cây cỏ lụi tàn.

 

NỖI QUÊ

Nửa đời bỏ ruộng đi theo sách
Nhớ điếng nhà xưa dáng mẹ gầy
Hương cơm lúa mới canh bồ ngót
Khói bếp đêm hè vương mắt cay.

XUÂN THA PHƯƠNG

Những đàn chim én đã bay xa
Vài hạt mai non chuyển sắc ngà

Sân gạch khách về chân lạ lẫm
Thềm hoang nhà vắng dấu hài hoa
Mùa đi lưu lạc đâu người cũ,
Xuân đến tha phương nhớ mẹ già.
Cảnh giới vô thường luôn biến dịch,
Chân trời lặng lẽ một mình ta.

NHỚ QUÊ

Chiều đông giá lạnh đời cô lữ
Quán trọ quê người nhớ đất xưa.
Kiếm sống tha phương đi biệt xứ,
Mơ về cố quận khuất bao mùa
Dân nghèo xóm mạc bên nương rẫy,
Nấm mộ cha ông dưới nắng mưa.
Mẹ chắc mong con buồn tựa cửa,
Vời trông bến nước chuyến đò đưa.

NHỚ MẸ

Xa xôi nhớ Mẹ nơi quê cũ
Tóc bạc lưng còng dạ héo hon
Sầu đông ủ rủ đêm sương lạnh.
Bếp củi tàn tro mảnh áo đơn.

NHỚ RỪNG MAI

Ta mơ trở lại rừng mai cũ,
Tìm dấu chân quen thuở dại khờ.
Hoa vàng lấp lối về xa khuất,
Cát bụi dày lên lạnh bãi bờ.

VỀ
TRUNG HỌC BÌNH TUY

Năm bảy mươi hai có một thầy
Hà Tiên nhiệm sở chuyển về đây
Trường tư Quảng Đức kèm cua tối
Công lập Bình Tuy dạy lớp ngày
Giữa chợ bon chen đều chẳng biết
Ngoài đời khôn dại cũng không hay
Ăn lương chính ngạch ở nhà mướn
Một vợ hai con sống đủ đầy.

 

THĂM
TRƯỜNG CHÂU VĂN TIẾP

Trường Châu Văn Tiếp ta về thăm
Bạn hữu thầy cô đã bặt tăm
Mái ngói nghiêng rêu sầu mấy hạ
Hành lang khuất dấu lạnh bao năm
Con đường hoa mộng vào mê đắm
Nếp áo thư sinh  lấm bụi lầm
Trong bóng phong sương mùa chuyển dịch
Mưa thu từng giọt rơi âm thầm.

NHỚ BẠN    

Bên tách cà-phê ngồi một mình
Vườn mai đợi nắng ấm bình minh
Nghe chim khách hót trên cành trúc
Nhớ tiếng cười vui thuở học sinh
Gác trọ chiều mưa câu chuyện phím
Đường hoa áo trắng mối tâm tình
Ta nay tóc bạc còn lưu lạc,
Bạn khuất thầy xa núi lặng thinh.

THĂM GÁC TRỌ CŨ

Lưu lạc nay về gác trọ xưa
Nancy hẻm nhỏ , cạnh song thưa
Đây hành lang gỗ đêm trăng lạnh
Kìa mái nhà tôn chiều tạnh mưa
Văn Nhiệm , Ngọc Sơn hay đọc sách
Tiến Hùng, Hữu Khổ thích bông đùa
Mỗi người một vẻ làm ta nhớ
Sách vở đèn khuya đã mấy mùa.

 

 

TẬP LÀM THƠ

Làm thơ Đường Luật thật công phu,
Hạn vận niêm thanh đối ngẫu từ.
Bố cục theo khai thừa chuyển hợp,
Nội dung hướng thiện mỹ chân như.
Trắc bằng cưỡng lạc đừng sai luật,
Bất luận phân minh tránh ảo hư.
Tứ tuyệt bốn câu cô đọng ý.
Năm vần bát cú tám dòng thư.

 

 TRANG  TỰ SỰ             

Từ biệt mái xưa  buổi thiếu thời
Dưới hoa mấy nẻo đất và người
Sau mùa bấc biển, dấu xưa khuất,

Trước lửa đầu non, sắc phượng rơi.
Khoảng lặng của hoa, mùa thạch thảo
Lời chiều dưới tượng, tạ ơn đời.
Rong chơi cát bụi cùng đời sậy.
Mộng lửa đêm mưa ở cuối trời.

[từ in nghiêng  là tên tập thơ của Đoàn Thuận]

THỬ TẠC TƯỢNG

Nhặt đá vùi quên ở vệ đường
Ta về gột rửa dấu phong sương
Tìm trong vết nứt màu hoang phế
Thấy giữa vân hoa sắc đoạn trường
Tạc nỗi buồn xưa lên thạch thảo
Ghi niềm vui cũ xuống sa cương
Mai sau núi lở sông hồ cạn
Tượng vẫn bên đời vọng cố hương

 

TƯỢNG BÁN THÂN

Tạc mặt con người chẳng giống ai
Đâu thành thần tượng hay anh tài
Hằn sâu nếp trán chiều suy tưởng
Nứt lệch làn môi điệu cảm hoài
Hảo hán giang hồ râu cắt ngắn
Giai nhân thục nữ tóc buông dài
Tìm chi giữa cõi hồn nhiên trước
Diện mục đời ta lúc đậu thai.

 

BẾN VẮNG

Dòng sông lặng lẽ về xa thẳm
Bến vắng thuyền trôi người khuất dần
Bờ liễu rũ buồn mùa gió bấc
Du tử vè quê như ngai ngần.

 

HẠC VÀNG

Người về đọc lại câu thơ cổ.
Ý chạm màu lên khóm địa lan
Xa vời tiếng trúc lầu Hoàng Hạc
Lẫn tưởng còn bay cánh hạc vàng.

 

VỀ HƯU

 Như hoa nở lụn chuyện ngày thường,
Kẻ sỹ về hưu ẩn một phương.
Ngõ trước đôi khi rêu dại phủ,
Vườn sau lắm lúc cỏ hoang vương
Mai gầy ủ lộc chờ mưa nắng,
Trúc thẳng lên măng đón gió sương.
Phố cũ đường xưa đầy cát bụi
May còn mái ấm vợ con thương.

Tân An, 2003

 

TỰ THUẬT

Trọn một đời tôi dưới mái trường,
Bao mùa phượng thắm để tơ vương.
Thư sinh áo vải buồn xa Mẹ,
Giáo chức trường làng sống với lương.
Sách cổ dăm pho nghiền ngẫm ý,
Lan rừng mấy chậu tự nhiên hương.
Nhà xưa xóm cũ về nương náu.
Một tấc lòng quê trước gió sương.

.

 

 

 

.

.

TỰ BẠCH

Khách lạ ngờ ta sống khác thường,
Về hưu lẳng lặng giữa quê hương.
Đôi lần khẩn thiết ra ngoài phố,
Suốt tháng an nhiên ở góc vườn.
Tạc tượng ghi sâu tình cố quận,
Trồng hoa ôn lại thú văn chương.
Thăng trầm cơm áo đầu mau bạc,
Chẳng bạc lòng son, chẳng khác thường.

Tân An, 2003
Đoàn Thuận

 

TỰ TRÀO
[bài 1]

Lỡ thầy lỡ thợ hay lần khân
Lúc tỉnh khi say đâu một lần
Dạy học quanh mùa không đủ chữ
Phụ hồ đôi lúc chẳng nên thân
Buồn tình tạc tượng chơi, vài bức
Hứng chí làm thơ thử, mấy vần
Ít bạn nhiều hoa giàu gió cát
Đi về quanh quẩn một vuông sân.

 

TỰ TRÀO
[bài 2]

Nghèo mạt chân quê xấu lạ thường
Nửa đời bầm dập sống tha phương
Chăn trâu ở mướn thời thơ ấu,
Dạy học làm thơ buổi thị trường.
Chẳng biết cúi luồn, nhiều kẻ ghét,
Không quen nịnh bợ, ít người thương,
May sao cũng có con và vợ,
Đỡ tủi quên buồn bớt vấn vương.

 

LỤC TUẦN

Ta tự mừng ta tuổi sáu mươi.
Đất trời thương tặng những buồn vui.
Tưởng đâu đã khuất vào thiên cổ,
Nhìn lại còn nguyên giữa hiện thời.
Tài nọ danh kia còn huyễn hoặc,
Thân này kiếp trước tự luân hồi,
Vòng quay con giáp như viên cuội,
Thả xuống thinh không một tiếng rơi.

 

XUÂN HƯU TRÍ

Đinh Hợi mừng xuân chỉ bấy nhiêu.
Lương hưu gói ghém thà hồ tiêu.
Trà sen khách vắng không lo thiếu,
Bánh tét nhà đông chẳng sợ thiu.
Trúc biếc năm qua luôn tiết thẳng,
Mai vàng tháng nhuận vẫn hoa nhiều.
Đời ta hữu hạn trong vô hạn,
Biết đủ dường như đủ mọi điều

Lagi, xuân Đimh Hợi

 

SÂN LÁ VÀNG

Ta tự thường xuyên quét lá vàng
Xin mùa thu chậm chuyển mưa sang
Cho cây sân trước còn xanh tốt
Để cỏ vườn sau bớt mọc hoang
Cát bụi đầy đường mòn gót tục
Bùn lầy ngập bến vắng đò ngang
Đới nhiều rác rưởi càng lo dọn
Dù phận đơn côi sức lực tàn.

 

TỰ CẢM

Cây cỏ theo mùa tự nở tàn,
Hương trời mấy cõi vẫn mênh mang.
Người đi núp bóng nơi quyền thế,
Kẻ đến tìm vui chốn mộng vàng.
Chân tín giữa đời nuôi trí sáng,
Nghĩa nhân muôn thuở dưỡng tâm nhàn.
Dù cho trái đất đầy dông bão,
Gia đạo ngàn xưa chẳng xoá tan.

 

THẦM NGHĨ

Hạt lúa từ mồ hôi
Toả hương trên phận người
Lẫn trong màu nước mắt
Niềm đau cùng nụ cười.

 

Ý MỌN

Xin trời theo ngọn gió
Đi tìm chiếc lá bay
Muôn ngàn năm lộc biếc
Cho xanh đồi trọc cây.

 

 

 

 

 

NHƯ BÓNG MÂY

Mới đó mà ta tám mốt đây
Đời người như thể bóng mây bay
Lưng còng cát bụi hai vai mỏi
Tóc muối phong sương một mái đầy
Thư pháp, tay rung nhoè nét bút
Ý thơ, trí nhọc cạn lời hay
Tạ ơn trời đất cho thêm tuổi
Để được rong chơi giữa cõi này.

Hạnh Thông Tây,2022

 

CHUYẾN ĐÒ MUỘN

Thuyền nan đỗ muộn chuyến đò quê,
Khách lạ dò tìm đất trọ thuê.
Ngõ cụt vườn hoang đêm vội xuống,
Đường mòn cỏ lấp dấu chân về.
Lò mò lạc mãi bờ tăm tối,
Lẩn thẩn lầm hoài bến mộng mê.
Với túi hành trang đầy cát bụi,
Ngồi buồn dưới liễu rũ lê thê.

Cà Ty, 1977
CÁT SỸ

 

GIẤC MƠ MAI
       
Đất trọ ngày trôi năm tháng tận
Ta về quạnh quẽ ngóng trời xa.
Đường đời vội vã người xuôi ngược.
Phố chợ ồn ào khách lại qua.
kẻ mọn bôn ba nơi viễn xứ.
Thân hèn lạc bước chốn ta bà.
Mơ mai trở lại miền u tịch.
Nghỉ tạm như nhiên dưới bóng hoa.

         Thảo Điền, 2014
         ĐOÀN THUẬN

.

 

 

 

.

SÔNG DINH
Cát Sỹ ký họa 1972

TÁC GIẢ

Đoàn Thuận tên thật là Trần văn Thuận, tự Cát Sỹ.
Sinh năm 1943 tại  Lagi,  Binh Thuận.
Giáo viên. Nghỉ hưu ở Thảo Điền, Tp.HCM
[Nguyên hiệu trưởng Trường PTTH Nguyễn Huệ, La Gi].

TÁC PHẨM

Thơ Tự do::
+   Mùa bấc biển. [nxb Văn nghệ Tp.HCM,1994]
+   La Gi ngàn xanh [nxb Trẻ 2001[
+   Lửa đêm mưa.  [nxb Trẻ, 1998
+   Khoảng lặng của hoa. [ nxb Trẻ, 2001]
+   Tượng. [nxb Trẻ, 2002]
+   Đời sậy  [nxb Trẻ 2003]
+   Sắc phượng. [Hội VHNT Bình Thuận,2006 ]
+   Rong chơi cùng cát bụi. [nxb Văn Học, 2012]
+   Mái xưa  [nxb Văn học,2013]
+   Dưới hoa [nxb Văn Học 2013]
+   Sài Gòn và tôi. [ in vi tính
+   Búp sen (thơ thiếu nhi) [in vi tính]
+   Mùa trọ học  [in vi tính]
Lục bát:
+   Lời chiều.(lục bát tứ tuyệt)  [nxb Trẻ, 1996]]
+   Lửa đầu non. (lục bát trường thiên)  [nxb Trẻ, 1999]
+  Tạ ơn đời (lục bát tam cú)  [nxb Văn học 2013
+   Đường Thi [ thơ dịch]  [nxb Văn Học, 2012]
+  Thơ thiền Vương Duy (thơ dịch)  [nxb  Thời Đại,,2014]
+  Mây mưa  (truyện thơ) [ in vi tính]
Thơ Haiku:
+   Mùa thạch thảo [nxb Văn Học, 2013]
+   Giọt mùa (thư pháp) [ in vi tính]
Thơ Đường Luật:
+  Dấu xưa  [in vi tính]

Thơ Trào phúng:
+ Đất và Người  [ nxb Thanh Niên, 2013]
+  Những điều nghe thấy[ in vi tính]
+ Tiếng dội từ đất  [ in vi tính ]
+ Nghe thấy và nghĩ [ vi tính ]
+  Họa hủy diệt [in vi tính]


từ trang tđl.2
^^ về đầu chương tđl

<<về trang chủ

Trang: 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16

Trả lời

  1. Bài viết Tổng quát Phép Họa Thơ Đường Luật Rất rỏ ràng, chi tiết, đầy đủ, trân trọng cảm ơn.


Bình luận về bài viết này

Trang web này sử dụng Akismet để lọc thư rác. Tìm hiểu cách xử lý bình luận của bạn.