ĐOÀN THUẬN

DƯỚI BÓNG MÂY

CÁT SỸ
Đoàn Thuận.

DƯỚI BÓNG MÂY

Nắng soi mặt nước, hơi bay
Vươn lên thành những áng mây lững lờ.
Mây Hàng vàng bóng trăng mơ.
Mây đen vần vũ mịt mờ bóng mưa.

Hồ đầy sóng nước hương thừa.
Búp sen cọng ngó đong đưa sương mờ.
Gió đưa từng mảng phất phơ.
Trôi qua rừng núi, thẩn thơ về trời.

Từ làn hơi nước chơi vơi.
Thiên đình buông thả mưa rơi xuống trần.
Địa đàng, vạn hữu bâng khuâng.
Người, vai ướt lạnh đôi chân bùn lầy.

Muôn mùa dưới những bóng mây.
Dòng đời chuyển hóa vần xoay luân hồi.

La Dạ,1960
CÁT SỸ

MẤY MÙA HOA DẠI

Hoa mùa chuyển nhựa hồng hoang,
như đời nhân quả tuần hoàn tử sinh,
như ngày khởi tự bình minh,
như đêm buông phút lặng thinh hôn hoàng.

Hạ thu mưa đổ lá vàng,
sầm, sim, huệ, cúc, hồng, xoan, tràm, muồng,
bằng lăng, dạ lý, quế hương
chờ cây thay lộc lạnh sương đông hàn.

Ngàn mai tự đón xuân sang,
anh đào, ngọc điểm, địa lan, sen đầm,
từng đàn én hạc xa xăm,
về ngang động diếc, đồi trâm, rừng dầu.

Bấc nồm ru ngọn sầu đâu,
lưu ly, thiên lý, nhạt mầu mơ xưa.
cây hoang cỏ dại bụi thừa
tiễn đưa từng cánh lưa thưa hoa tàn.

La Dạ,1968

THEO ĐƯỜNG HOA.

Đường hoa dẫn dắt tôi đi.
Sầu đâu bên suối, hoa quì dưới thung.
Dại khờ trước cõi mông lung.
Âm u rừng rú, chập chùng núi non.

Qua bao sáng tối mất còn.
Ruộng nương đưa đón gót son về đồng.
Hái hoa bắt bướm bên sông.
Giữa mùa lúa nước hương đòng đòng bay.

Giã từ trâu cặp trâu bầy.
Xa dần bưng đước, bãi lầy cỏ hoang.
Lò dò vào cổng trường làng.
Tôi ôm sách vở theo đàng bút nghiên.

Lang thang lưu lạc đôi miền.
Làng chài xóm rẫy, bến thuyền sân ga.
Tôi mơ có một mái nhà.
Bình yên trước cảnh ta bà bể dâu.

An Hội,1964
CÁT SỸ

.
tranh của Nguyễn Thanh Bình
nguồn internet

BẾN CŨ

Biệt ly bến cũ bờ xưa.
Thuyền lưu giọt lệ chiều mưa thôn nghèo.
Cánh bèo mang lá vàng theo.
Sông mùa nước nổi, trời heo hút buồn

CÁT SỸ

BẾN THÔN

Dặm ngàn thôn vắng quạnh hiu.
Một bờ thủy mặc buồn thiu bến thuyền.
Tìm đâu một cõi đào nguyên.

Ta mong được phút an nhiên.
Trong cô đơn giữa một miền hoang vu.
Bóng ai khuất mãi mịt mù.

Chỉ còn lá úa vàng thu.
Rụng đầy lối hạ qua khu rừng già.
Vương mang một thoáng hương hoa.

Từ xa vọng lại âm ba.
Tiếng chim khách nhỏ ngân nga lạnh lùng.
Nhòa vào sương gió mông lung.

Bến thôn nương rẫy dưới thung.
Con thuyền độc mộc neo cùng bè tre.
Giữa lòng tĩnh lặng sơn khê.

.

BẾN ĐỔ

Thuyền neo bến liễu đìu hiu.
Hoa bằng lăng rụng tiêu điều bến sông.
Hàng cây đổ bóng xuôi dòng.

Bao lần hạ bạt thu không.
Mấy mùa bão lũ đục trong nước nguồn.
Lửng lờ một mảnh trăng suông.

Người đi khuất nẻo đường truông.
Đò ngang gác mái bên xuồng câu đêm.
Chờ mong, hình bóng xa thêm.

Gió ru hoa cỏ êm đềm.
Trăng mờ soi lạnh mặt thềm đá hoang.
Lặng thinh sông nước mơ màng.

Đâu còn ai bước sang ngang.
Xóm chài sạt lở điêu tàn bấy lâu.
Đò đưa thay mặt chiếc cầu.

NHẠC MƯA

Mưa rào qua mái tôn nghiêng.
Nghe như điệu nhạc “độc huyền cầm” xưa.

Rì rào lộp độp tiếng mưa
Lăn tăn tí tách lưa thưa là đà.
Ù ù gió hú ngân nga.
Chạm lên phím gạch âm ba dội buồn.

Bổng trầm gõ nhịp nước tuôn.
Trường canh lặng lắng hồi chuông đêm tàn.
Độc huyền ngủ lạnh nhà hoang.
Mong mùa nhỏ nhẹ cung đàn gió mưa.

Sấm rền vọng lại âm thừa.
Vời xa bóng khói đong đưa không lời.
Đầm hồ nắng rọi lên hơi.
Từng làn mây nước chơi vơi ngang trời.

Thiên thu mưa tạnh lại rơi.
Như bao số phận đổi dời bể dâu.
Mây Hàng lờ lửng về đâu.
Lại buông thả giọt Mưa Ngâu xuống đời.

GIỌT SƯƠNG BÊN THỀM

Rêu hoang đón giọt sương mai.
Đêm chưa qua hết hiên ngoài lặng câm.
Đôi đàng lạ lẫm xa xăm.
Bỗng nhiên một sớm về nằm bên nhau.

Rêu nay mềm mại xanh màu.
Dù từng vàng vọt hư hao úa gầy.
Dù từng nhìn bóng sương bay.
Ngờ như một thoáng khói mây bụi đời.

Sương mù theo phận làn hơi.
Đông thành loáng nước ngang trời lêu bêu.
Một luồng gió lạnh nhẹ hều.
Lùa sương lăn xuống khe rêu mượt mà.

Rêu rong không để sương nhòa.
Cùng hương trầm lắng cỏ hoa êm đềm.
Thân thầm ấp ủ qua đêm.
Nào hay trời sáng bên thềm ngày lên.

Bốc hơi theo nắng bồng bềnh.
Sương đâu còn hạt nằm trên rêu mềm.
Đất trời như cách xa thêm.
Sương tan rêu nát, ấm êm hoang tàn.

CHIẾC LÁ KHÔ.

Lá khô từ cõi nào xa.
Bay ngang hẽm nhỏ chiều tà im hơi.
Bổng nhiên buông thả không lời.
Bên nền gạch vỡ rã rời hanh hao.

Thân khô cọng héo bàu nhàu.
Đong đưa mỏng mảnh rơi mau nhẹ hều.
Nằm im kế thảm xanh rêu.
Sau cơn gió thổi lêu bêu ngoài trời.

Lá đành ghé tạm góc đời.
Dựa lưng cát bụi dưới hơi sương mờ.
Lìa xa nhánh ngọn non tơ.
Hương mơ hoa mộng mịt mờ rừng xưa.

Một thời vui thú nắng mưa.
Nay như bóng lạ dư thừa chơi vơi.
Thu tàn lá úa vàng rơi.
Lạc loài một chiếc đơn côi lặng thầm.

MAI BÔNG-SAI.

Trong vườn một chậu bông-sai.
Dáng hình thu nhỏ cội mai rừng già.
Tuy mùa thiên cổ đã qua.
Hồn nhiên vẫn tự nở hoa nhung vàng.

Hạ tàn thu tận đông sang.
Bông sai lá rụng mơ màng dáng xuân.
Đâm chồi nứt mộng buâng khuâng.
Nõn nà nụ búp thơm dần môi hoa.

Dịu dàng nhẹ thoáng hương pha.
Lan từ nhụy phấn vươn ra cõi ngoài.
Nhòa vào phong vị trần ai.
Khiết thanh như thể nhạt phai giữa đời.

Mai rừng trụ lại dưới trời.
Trong khuôn chậu nhỏ một thời rêu phong.
Khi rừng hoang hóa mênh mông.
Thiên nhiên biến đổi, cộng đồng nhiễu nhương.

Thảo Điền,2014

LÃO KHÔNG TÊN

Ngoài hè, ai đó thở dài.
Buồn rầu tóc phả bờ vai gầy gò.
Lòm khòm dáng lạnh co ro.
Thều thào chép miệng, giọng ho khàn khàn.

Ngày tàn chiều xuống đêm sang.
Dò tìm vách cũ hoang tàn dựa lưng.
Nằm ngồi lớ ngớ lừng khừng.
Lơ mơ ngẩng mặt nửa chừng ngó mong.

Nhớ thương nước mắt lưng tròng.
Thấy đâu sương khói bềnh bồng đó đây.
Gậy lê quờ quạng qua ngày.
Lang thang xóm vắng, loay hoay phố nghèo.

Cô đơn phiền muộn ăn theo.
Không nhà người lạ, đường heo hút dài.
Lần về cát bụi một mai.
Buông tay yên nghỉ bên ngoài thời gian.

Gò Vắp, 2022

LÁI ĐÒ GIÀ

Con đò bến cũ chiều mưa.
Âm thầm gác mái chờ đưa khách về.
Bên hàng liễu rủ lê thê.
Trời cao đổ nước bốn bề âm u.

Sông sâu bóng thẳm mịt mù.
Bờ lau gió thổi vi vu âm buồn.
Ngờ như chim khách cuối truông.
Giật mình hót nhẹ lời suông gọi đò.

Đầu trần ông lái co ro.
Tựa lưng thành mạn mong đò sang ngang.
Tay rung khêu bóng tro tàn.
Nhen lên một thoáng khói nhang hương trầm.

Đò neo lại dưới bóng râm.
Dù người khách hẹn, bao năm, không về.
Lái đò già khụ ngô nghê.
Đò xưa đậu mãi bên lề gió sương.

Bến Cát,2022

LỜI ÔNG LÁI ĐÒ.

Xa quê, sang một chuyến đò.
Vỗ vai, ông lái dặn dò đôi câu.
”Đường đời mưa nắng dãi dầu”.
”Trước bao nghiệt ngã, ngẩng đầu mà đi”.

Lời ông tựa một đạo nghì.
Tôi luôn ghi nhớ thầm thì trong tim.
Giã từ bến nước đồi sim.
Dại khờ phận mỏng nổi chìm một tôi.

May nhờ đèn sách một thời.
Giúp nhau thấu hiểu lẽ đời thực hư.
Bao người lương thiện nhân từ.
Dìu tôi vượt ngã riêng tư mê mờ.

Trầm luân duyên kiếp tóc tơ
Đẩy đưa vạn hữu đến bờ điêu linh.
Đêm yên tự ngẫm lại mình.
Lời xưa ông lái chân tình nhủ khuyên.

Giữa đời cát bụi đảo điên.
Trí tâm an tịnh muộn phiền sẽ qua.

TIẾNG RU ĐÊM

Câu hò tiếng nhạc ru đêm.
Hòa theo nhịp gõ bên thềm trăng non.

Đàn bầu khoan nhặt nỉ non.
Như buông giọt lệ mỏi mòn nhớ mong.
Khúc nôi lạc điệu thinh không.
Chìm vào khoảng lặng cõi lòng bi ai.

Ru hời hồn mộng u hoài.
Trầm buồn tựa tiếng thở dài đêm thâu.
Lời ru trôi nổi về đâu.
Mây bay gió cuốn bao câu tạ từ.

Đường trần xuôi ngược du cư.
Mơ xưa ước cũ trầm tư mịt mù.
Tình sầu sương phả vi vu..
Lời nguyền còn lại tiếng ru âm buồn.

Hà Tiên, 1970

tranh của Christen Dalsgaard
nguồn internet

.
tranh của Nguyễn Thành Trung
nguồn internet

ĐƯỜNG ĐỜI

Đường đời đôi ngã ngược xuôi.
Vui tươi hạnh ngộ, ngậm ngùi phân ly.
Mênh mông hữu hạn biên thùy.
Người đời trọ giữa chu kỳ tử sinh.

CÁT SỸ

GÓT CHÂN NGƯỜI

Gót chân đi mãi không mòn.
Từ ngày lững thững bé con dại khờ.
Khi xa tiếng mẹ ầu ơ.
Lò mò từng bước qua bờ đục trong.

Giữa lòng trời đất mênh mông.
Phân chia từng loại cộng đồng khác nhau.
Cho dù thuộc loại người nào.
Vẫn cần đi lại dựa vào gót chân.

Gót son lứa tuổi thiên thần.
Theo chân cha mẹ vào sân cuộc đời.
Chăn trâu ở đợ mồ côi.
Chân trần chân đất gót hôi nhớt nhầy.

Dân nghèo sống tạm qua ngày.
Ngón bè gót nứt chân đầy bọ sâu.
Dép da dép nhựa dép râu.
Đưa người khốn khổ qua cầu mưu sinh.

Người giàu sống dựa tư dinh.
Giầy da cao gót, giầy đinh ống dài.
Guốc hoa guốc mộc, hia hài.
Chân thon gót hạc trang đài kiêu sa.

Bước đi giữa cõi người ta.
Chân không vẫn cứng, hài hoa lại dòn .
Đường cây lối đá rãnh non.
Ai thường bước thẳng chẳng mòn gót chân.

Gò Vắp, 1969

CUỘC LỮ HÀNH

Đơn thân độc mã lên đàng.
Dò tìm đất trọ bên ngàn bể dâu.

Lần theo từng nhịp vó câu.
Núi cao rừng rậm sông sâu thác gành.
Ngựa nhoài sức kiệt lữ hành.
Yên cương bỏ lại bên nhành liễu tơ.

Đường trần cát bụi mịt mờ.
Gót chân bùn đất bám bờ lội mương.
Quẩn quanh lưu lạc dặm trường.
Làng chài xóm rẫy, ruộng vườn bãi dâu.

Sương sa pha bạc mái đầu.
Mồ hôi nước mắt thấm sâu nỗi niềm.
Nhịp đời khác nhịp trái tim.
Phận người mỏng mảnh nổi chìm trầm luân.

Hanh thông qua bóng gian truân.
Cao sang quyền quý đâu thuần an nhiên.
Địa đàng, cõi tạm du miên.
Ghé qua chờ giấc ngủ yên cuối cùng.

La Ngâu, 1972

TỰ BUỒN TÊNH

Đôi điều biết nói với ai.
Khi mùa thu chết bên ngoài hàng hiên.
Nhiều lần bên cạnh bạn hiền.
Giám đâu tâm sự, sợ phiền phức thêm.

Để rồi thao thức bao đêm.
Nghe sương khuya lạnh bên thềm rơi rơi.
Lơ mơ, tôi tưởng lệ trời.
Buông theo mây nước xuống đời long lanh.
Giọt sương nào cũng mong manh.
Tan vào cỏ dại rêu xanh lặng thầm.
Nơi nào nữa cõi xa xăm.
Gió ru từng bóng sương mầm lênh đênh.

Tôi khờ, nên rất dễ quên.
Việc đời lạ lẫm không tên khó dò.
Bút lá tre, mực học trò.
Ghi lên trang vở nỗi lo riêng mình.
Thế mà con chữ lặng thinh.
Chẳng cho tôi biết sự tình đã ghi.

Thật ra, tôi rất ngu si.
Không xem, đâu nhớ những gỉ đã quên.
Tự tôi lại thấy buồn tênh.

Đại Học Văn Khoa, 1964

.

MỘT ĐOẠN ĐƯỜNG.

Đôi khi chung một dặm trường.
Đi qua sông núi phố phường đó đây.

Trước bao sóng gió nước mây.
Nương nhau đối diện tháng ngày phiêu linh.
Buồn vui chia sẻ tâm tình.
Khi hoàng hôn xuống, lúc bình minh lên.

Thế rồi xa vắng buồn tênh.
Mỗi người mỗi ngả lênh đênh bên trời.
Một trang giấy trắng không lời.
Chưa ghi kịp nỗi bồi hồi vấn vương.

Bên nhau chỉ một đoạn đường.
Theo từng bước mỏi đoạn trường phân ly.
Phút giây kẻ ở người đi.
Bỏ quên ước hẹn “cùng vì tương lai”.

Đồng hành sánh bước kề vai.
Nhưng không đồng thuận đường dài lứa đôi.
Đồng song học hỏi trau dồi.
Nhưng không đồng điệu theo hồi ức xưa.

Dưới trời dông tố nắng mưa.
Đường đời xuôi ngược sớm trưa đổi chiều.
Lẽ nào người mãi phiêu diêu.
Trăm năm một khắc quạnh hiu cuối cùng.

MỘT CƠN DÔNG

Dông về gió lộng lá bay.
Bụi mù lối nhỏ đường rày bến sông.
Bọt bèo nước cuốn xuôi dòng.
Đò ngang gác mái, chợ không bóng người.

Nát tan cỏ dại hoa tươi.
Quán ăn im bặt tiếng cười khách quen.
Nhà nhà đóng cửa cài then.
Ngả nghiêng cột điện tắt đèn tối tăm.

Gió gào sét đánh sấm gầm.
Mái tôn gõ nhịp theo âm thanh trời.
Rì rào nước tạt mưa rơi.
Ầm ì tiếng bão rít lời núi non.

Lẽ thường nước chảy đá mòn.
Sau dông vạn hữu mất còn đương nhiên.
Xóm thôn vườn tược láng giềng.
Tang thương trước cảnh đảo điên đất trời.

Giọt mưa hay giọt lệ rơi ?

TIẾNG CÒI ĐÊM.

Giữa khuya hụ lớn hồi còi.
Xe rồ rượt đuổi qua đồi ầm vang.

Vô tình đánh thức dân làng.
Người vừa tỉnh ngủ, kẻ tàn giấc mơ.
Giật mình khóc thét con thơ.
Mẹ hiền thiu thỉu ru hờ đêm thâu.

Tiếng ga xe rú về đâu.
Theo luồng gió hú nơi bầu trời xa.
Ồn ào náo động đi qua.
Xóm nghèo đèn tắt, bờ hoa tối sầm.

Hàng cây lối nhỏ lặng câm.
Lá khô rơi rụng âm thầm bên nương.
Lờ mờ bóng đổ pha sương.
Còi nghe xa hút, bụi đường cuộn bay.

Âm buồn rền rĩ chân mây,
Như còn thao thức đêm đầy lo âu.

CHIA LY KHÔNG LỜI

Xa nhau không nói một lời.
Dù qua giấy mực hay nơi hẹn chờ.
Làm thinh như thể trong mơ.
Cúi đầu môi mím lặng lờ ra đi.

Đâu hay phút cuối chia ly.
Giật mình, tôi tự thầm thì tiễn tôi.
Quay về góc khuất đơn côi.
U buồn quạnh quẽ bồi hồi nhớ mong.

Nỗi niềm xa xót trong lòng.
Thề nguyền hư vắng, mơ mòng tịnh không.
Tình xưa tựa áng mây hồng.
Thả buông giọt nước thay dòng lệ rơi.

Người xa, xa lạ xa vời.
Vẫn âm thầm mãi không lời thở than.
Ngày đi chỉ thoáng bàng hoàng.
Bỏ tôi lầm lũi dặm ngàn gió sương.

Không lời nuối tiếc vấn vương.
Người quên, quên mất bạn đường ngày xanh.

NGHĨA TÌNH QUÊ MẸ

Nhà xưa đã bị di dời.
Cha vào cõi hạc bên trời vắng xa.
Lại thêm khuất bóng mẹ già,
Khuất vườn rau cải, mái nhà bên sông.

Xuôi dân lưu lạc phiêu bồng,
du cư kiếm sống long đong xứ người,
xa xôi bông cải xinh tươi,
đôi tay gầy guộc, nụ cười em xưa.

Dù đời dầu dãi nắng mưa,
tình làng nghĩa xóm vẫn chưa phai mờ.
Bên nôi vẫn tiếng ầu ơ,
ru câu lục bát ngày thơ ấu buồn.

Dịch giờ nhiễm khắp thị trường.
Bao người thất nghiệp tìm đường về quê.
Thân nghèo kiếp sống não nề.
Ăn nhờ ở đậu trên quê hương mình.

Đâu còn điều kiện mưu sinh.
Chỉ còn nước mắt nghĩa tình sẻ chia.

LỠ BƯỚC

Đường vui theo tuổi xuân đi.
Sắc không cát bụi lỡ thì dưới trăng
Dạo chơi lạc bước đôi đằng.

Thiên nhiên chuyển dịch thường hằng.
Rừng hoang núi cách sông ngăn đi về.
Lần quần trước một bến mê.

Sương mù bóng phủ lê thê.
Đồng khô cỏ cháy miền quê tiêu điều.
Khi nao mệt mỏi phiêu diêu.

KHÓI MÂY.

Ngỡ đời heo hút bến thuyền.
Hoa thanh xuân lạc xa miền khói mây.
Giật mình sao ta còn đây.

Dĩ nhiên đâu chỉ một ngày.
Tưởng ta lỡ bước lưu đày nhân gian.
Nhặt thêm một chiếc lá vảng.

Đi về cõi tạm địa đàng.
Đôi khi đất trọ yên hàn dừng chân.
Đường trần một thoáng bâng khuâng.

La Gi, 198

.

tranh của Lý Hoàng Long
nguồn internet

DU TỬ

Xa quê, chạy giặc tản cư.
Vào sâu rừng thẳm, đêm hư ảo buồn.
Cha nằm tắt thở bên truông.
Nỗi đau ly biệt, Mẹ tuôn lệ sầu.

Đời trôi theo cuộc bể dâu.
Nhà tan vườn nát, một màu tang thương.
Tôi như du tử tha phương.
Bao mùa xa Mẹ, xa trường làng xưa.

Dặm trường dầu dải nắng mưa.
Lang thang bến nước liễu thưa sông dài.
Dạt vào rẫy lúa nương khoai.
Nghe chim khách hót u hoài rừng hoang.

Phiêu diêu, gió hú bạt ngàn.
Non sông khói lửa, bàng hoàng phân ly.
Rời rừng, lần bước kinh kỳ.
Tìm đường học hỏi đạo nghì tổ tông.

Tứ Bần, du tử long đong.
Phà ngang, ga xép, phố đông, xóm nghèo.
Cơ hàn, côi cút, gieo neo.
Giúp nhau thoát nạn, mang theo mộng lành.
Dù cho số phận mỏng manh.

Rạch Chiếc,1962

LỜI MẸ RU

Con thơ ú ớ trong nôi.
Ví dầu tiếng khóc chào đời đong đưa.
Nhưng đâu hẳn một âm thừa.
Vang trong lòng mẹ dù chưa thành lời.

Ví dầu mẹ hát à ơi.
Ru con với ước mơ đời bình yên.
Mong sao chẳng phải buồn phiền.
Khi con khôn lớn nơi miền quê cha.

Ví dầu liễu rũ la đà.
Êm đềm bến mộng bờ hoa câu thề.
Cha rồi khuất nẻo sơn khê.
Đường trần như thể từ bề thê lương.

Ví dầu mai mốt đoạn trường.
Con còn có mẹ yêu thương mặn nồng.
Ngoài hiên rêu biếc tĩnh không.
Con ơi, hãy lắng tiếng lòng mẹ ru.

MỘT ĐỜI XA MẸ

Đầu đời, xa Mẹ lang thang,
qua rừng, lên núi, xuống làng chài xa.

Từ đồng lúa nước lúa ma,
quê mùa vào chốn phồn hoa phố phường.
Từ lưng trâu đến sân trường,
gót chân bùn đất dò đường bút nghiên.

Giữa đời trong đục ảo huyền,
cô đơn trước nỗi muộn phiền xót xa.
Độc hành bến nước sân ga,
chợ trời xóm trọ, lân la xứ người.

Đôi khi mím chặt môi cười,
nhìn thầm lá thắm hoa tươi rụng rời.
Thênh thang mây trắng xa khơi,
riêng tôi lận đận dưới trời gió sương.

Cuối đời, vẫn mãi tha phương,
buồn đau nhớ Mẹ, nhớ thương quê nhà.

Thảo Điền, 2014

NHỮNG QUÃNG ĐỜI

Tôi từ Tân Lý La Gi.
Xa quê xa Mẹ, ra đi xa ngàn.

Sáu Say, bến nước đò ngang.
Sông Dinh trầm mặc bên hàng liễu dương.
Đưa tôi lần bước dặm trường.
Bé con dưới bóng bụi đường sương pha.

Giã từ đất tổ quê cha
Bơ vơ khờ dại lạc qua xứ người.
Buồn đau dấu kín nụ cười.
Xót xa trước cảnh hoa tươi hoa tàn.

Tản cư qua cánh rừng hoang.
Bàu Dòi Sao Cháy Bưng Ngang Phò Trì.
Xuôi Nam, Xóm Rẫy Cù Mi.
Bình Châu Xuyên Mộc Phước Tuy Sài Còn.

Năm tư, chia cắt nước non.
Ngu ngơ đâu rõ mất còn đục trong.
Học hành kiếm sống chơi rong.
Giữa lòng Hòn Ngọc Viễn Đông một thời.

Bảy lăm, thống nhất đất trời.
Lui về dạy học tại nơi quê nhà.
La Gi La Dạ La Ngà.
Sống cùng huyền thoại Hòn Bà Núi Ông.

Nghỉ hưu, tôi lại phiêu bồng.
Lại rời Tân Lý, vào trong Thảo Điền.
Nơi xưa trọ học bút nghiên.
Bên bờ Rạch Chiếc, một miền tạm cư.

Cuối đời còn mấy năm dư.
Ngẫm trong an tịnh thực hư cõi lòng.

Thảo Điền,2014

ĐỜI DU TỬ.

Bao mùa ở trọ đó đây.
Phò Trì Xóm Rẫy những ngày bé thơ.
Nghe chim xanh hót trăng mờ.
Nhìn đồi hoa dại, thầm mơ trái rừng.

Giã từ Động Chú miền bưng.
Leo quanh Núi Nhọn, vượt từng Suối Sâu.
Tìm qua Bến Lội Bình Châu.
Trường làng tiểu học tập câu vỡ lòng.

Đi lên Bà Rịa phố đông.
Bơ vơ khờ dại giữa dòng gió sương.
Thầy cô bạn học sân trường
giúp tôi tiếp cận văn chương tú tài.

Sài Gòn tiếp bước tương lai.
Văn Khoa Sư Phạm luyện tài dưỡng tâm.
Dạy tư kèm trẻ nhiều năm.
Tập tành nghiên bút phương châm Thầy Đồ.

Ra trường về xứ Đông Hồ,
Mê âm vọng cổ bên bờ Thuận Yên.
Nơi trường trung học Hà Tiên,
đọc Chiêu Anh Các, ngẫm huyền thoại xưa.

Ba năm dưới bóng nắng mưa
được thay nhiệm sở dù chưa đến kỳ.
Hồi hương đất mẹ La Gi.
Sau lưng bỏ lại thời ly biệt buồn.

Lang thang bên suối cội nguồn.
Cùng hương đồng nội, với luồng gió thu.
Xa rồi đất trọ bụi mù.
Nhớ câu lục bát Mẹ ru thuở nào.

La Gi, 1972

BA LÁ

Cùng Ba Lá thả xuồng trôi.
Đàn bầu đệm nhịp chèo bơi xa nguồn.
Lam thôn dạ cổ nhẹ buông.
Du dương âm điệu ru buồn chơi vơi.

Câu hò văng vẳng xa vời.
Theo hoa cỏ dại bời bời thoảng hương.
Hồn nhiên bảng lảng hơi sương.
Lênh đênh bèo dạt dọc mương lục bình.

Nghe ca, Năm Lá lặng thinh.
”Lá rơi đắp mộ cuộc tình” mùa xưa.
Ba Bờ kể chuyện mây mưa.
Cùng cô chủ Út thích ưa bên đồi.

Đơn côi từ thuở thôi nôi.
Buồn vui Ba Lá nổi trôi vật vờ.
Thụ Ân, Năm Lá, Ba bờ.
Kết thân trên đất nhà thơ Đông Hồ.

Hà Tiên,1971

TỨ LA

Bè tre lướt nhẹ qua hồ,
dưới chân Núi Đất, bên bờ Rừng Dong.
Một vùng như thể tĩnh không.
như tranh thủy mặc, nước lồng bóng mây.

Nghe xa tu hú gọi bầy,
cùng âm gõ kiến, tiếng chày cuối truông.
như ru dăm cánh hoa muồng.
hồn nhiên buông thả ngọn nguồn phong sương.

Tứ La, bốn bạn tha hương,
nhịp bè hát khúc Trúc Phương, “Đò chiều”,
giữa hồ Núi Đất quạnh hiu,
nhớ đêm La Dạ, nhớ chiều La Gi.

La Gàn nhớ bóng chim di.
La Ngâu nhớ đảo Thiên Y, Hòn Bà.
Núi Ông tọa Đức Linh xa,
Sông Dinh nối cảnh “ly gia” biển trời.

Tứ La tưởng nghĩ không lời,
lòng thầm cảm tạ đất trời quê hương.

Hồ Núi Đất, 1972

MỘT CUNG ĐƯỜNG.

Bên em chỉ một đoạn đường.
Từ bờ ruộng cỏ đến trường làng xưa.
Dưới nhành dương liễu đong đưa.

Dìu nhau từng bước sớm trưa đi về.

Bút nghiên đèn sách mọi bề.
Xẻ chia học hỏi bên lề phổ thông.
Thầm mong chung một tấm lòng.

Kề vai góp sức đồng song đồng hành.

Một thời trong trắng mong manh.
Ước mơ thơ dại mộng lành về đâu.
Mây Hàng thả giọt mưa Ngâu.

Đông sang thu tận bên cầu chia ly.

Em xa tôi buổi xuân thì.
Đi lên phố núi hẹn kỳ tình yêu.
Anh đào bên nớ hoa nhiều.

Thùy dương lá rụng tiêu điều bên tôi.

Một cung đường ngắn, vậy thôi.
La Gi, 1966

MỘT THOÁNG HƯƠNG.

Bỏ đi sao lại quay về.
Chuyện xưa tựa một giấc mê muộn màng.

Tôi như chiếc bóng chiều hoang.
Lẫn vào cát bụi địa đàng gió sương.
Bao mùa lưu lạc tha phương.
Dám đâu mơ mộng hồi hương xuôi dòng.

Bên trời bước mỏi long đong.
Thầm mong em được mặn nồng tình yêu.
Nhưng sao, nay gió đổi chiều.
Đưa em về lại cõi hiu quạnh buồn.

Bao điều tôi đã bỏ buông.
Giờ như thêm thoáng vấn vương hương trầm.
Lở về, lở độ ghé thăm.
Xin đừng nhắc chuyện trăm năm vuông tròn.

Ước mong rồi cũng mỏi mòn.
Phủ phàng son sắt mất còn như nhiên.

Cư xá Hỏa Xa SG,1968

.
tranh của Montserrat Gudiol
nguồn internet

 

NHƯ BỤI

Buông theo cánh gió phiêu diêu.
Ru vào quên lãng bao điều tiếc thương.
Tịnh yên qua những đêm trường.
Ngỡ ta như bụi gió sương nhuận trầm.

CÁT SỸ

TIỂU BẦN

“Tiểu bần”, đứa trẻ nghèo nàn.
Ngây thơ đói rách dung nhan quê mùa.
Ngủ nơi xó chợ hiên chùa.
Ăn nhờ từ thiện, bao mùa tựa nương.

Đứa qua đám ruộng bờ mương.
Mò cua, mót lúa, tìm đường nuôi thân.
Chân bùn vai bụi đầu trần.
Chăn trâu chăn vịt, lần quần nắng mưa

Đứa đi kiếm việc dư thừa.
Thối hôi đơ bẩn, thuê chưa ai mần.
Người chê gớm ghiếc, ngại ngần
Trẻ không cơm áo rất cần làm thay.

Đứa đi xin việc từng ngày
Rửa xe, cào dọn nhớt nhầy ga-ra.
Tưới cây, nhổ cỏ vườn nhà.
Tay sai lặt vặt trong gia đình giàu.

Tuổi thơ từng bước qua mau.
Đâu hay số kiếp phận nào tiếp theo.
Dù cho sống một đời nghèo.
Chỉ cần thoát khỏi gieo neo đọa đày.

Buồn đau gửi gió mây bay.
”Tiểu bần” mong mỏi tháng ngày ấm no.

”TỨ BẦN”

”Tứ Bần”: Bá, Thuận, Quê, Cà.
”Bốn chàng nghèo mạt”, xa nhà lang thang.
Ngô nghê trước bóng địa đàng.
Tìm nơi trú tạm dưới làn khói sương.

Cõi đời mù mịt bụi đường.
Mỗi người một phận, khó lường đục trong.
Chàng nào cũng mộng thong dong.
Nhưng rồi có lúc long đong buồn rầu.

Quê qua xóm ruộng chăn trâu.
Làm thêm vườn tược, trồng rau trồng cà.
Chiều đi chăm sóc vườn hoa,
Đồng lương phụ trội gấp ba bình thường.

Thuận mong được đến sân trường.
Lưng trâu từ biệt, theo đường bút nghiên.
Giúp già giữ trẻ kiếm tiền.
Đi lên đại học, có quyền ước mơ.

Cà mồ côi sống bơ vơ.
Lao công phụ thợ, ở nhờ ga-ra.
Học mò sửa được xe nhà.
Vào trường Phú Thọ, chuyển qua học nghề.

Bá chuyên làm mướn làm thuê.
Đổ phân hốt rác, khuân bê phụ hồ.
Đôi khi buộc phải chạy xô.
Không cần lười biếng, tốn mồ hôi thôi.

Bần hàn rồi cũng pha phôi.
Gió hiền ru nỗi bồi hồi du miên.
Tứ Bần quên lãng muộn phiền.
Giúp nhau tìm phút an nhiên giữa đời.

Gia Định,1964

THẰNG “CÀ”

Bé Cà không có cửa nhà.
Mồ côi cha mẹ, lân la qua ngày.
Ngu ngơ bụi phủ thân gầy.
Ăn xin, ngủ chợ, hát hay, hơi buồn.

Thế rồi, có một lái buôn.
Bán người giúp việc cho nguồn ga-ra,
Cụ ông mua nhận nuôi Cà.
Ban đầu học chữ, sau qua học nghề.
Xuất thân từ trẻ nhà quê.
Nổi danh thợ giỏi chuyên về xe hơi.

Bổng nhiên hai gã tay chơi.
Đánh Cà nát miệng thành đời cà lâm.
Xương quai hàm gãy lặng câm.
Đường về âm phủ Cà nằm chờ đi.

Nhưng trần gian cũng diệu kỳ.
Giáo sư ngưới Nhật cứu nguy cho Cà.
Đất trời Nhật Bản bao la.
Mong Cà về với mùa hoa Anh Đào.

Gia Định,1964

THẰNG “QUÈ”

Quê, thân nghèo mạt ngu ngơ.
Hái rau bắt óc bên bờ ruộng quê.
Không nhà không chốn đi về.
Thập thò ở lén bên lề chuồng trâu.

Chủ nhà bắt được, gõ đầu.
Cho vào thế chỗ chăn trâu thay mình.
Quê quì lạy tạ lặng thinh.
Vì thôi không phải lội sình mò cua.

Cỡi trâu quanh ruộng lúa mùa.
Bạn cùng hoa súng hoa mua hoa muồng.
Từ lâu chẳng rõ ngọn nguồn.
Mẹ cha vắng lặng giữa muôn tiếng cười.

Nhà bên, cô gái xinh tươi,
Thường hay han hỏi chuyện người gần xa.
Và rồi có một đại ca.
Đập Quê nát gót, thành ra “Thằng Què”.

May sao ông chủ không chê.
Thằng Què được phép lết lê tưới vườn.
Dường như trời đất còn thương.
Cho Quê sống tiếp đoạn đường đau chân.

Gia Định,1964

THẰNG “THỐI”

Bá, nghèo nên dọn rác phân.
Nguồn vui sống tiếp đời cần lao thôi.

Phân người không thối cũng hôi.
Bình thường như chuyện đổi ngôi sang hèn.
Khai thơm, dơ sạch, đỏ đen.
Đại tiện tiểu tiện ngồi quen bồn cầu.
Che mồm bịt mủi cúi đầu.
Nghe phần nát rữa lùa sâu xuống hầm.

Thế rồi giữa một đêm rầm.
Hai chàng công tử dao cầm trên tay.
”Lôi đầu Thắng Thối,ra đây”.
Rồi đâm chân Bá, máu bay đầy nhà.

Bá đành chống nạn đứng xa.
Nhìn người thế chỗ dọn chà cầu tiêu.
Nghĩ mình số phận hẩm hiu.
Làm nghề dọn rác cũng nhiều khó khăn.

Lẽ nào nơi bến sông Hằng.
Có ai giành ngắm bóng trăng dần tàn.
Bá mong cuộc sống bình an.

Gia Định,1964

 

THẰNG “THẸO”
1.
Đâu ai xấu xí như tôi.
Má trái đầy sẹo lại hơi méo mồm.
Gẫy răng nếu sụm móm xồm.
Nghĩ mình dị dạng khó dòm khó coi.

Tôi đành ôm phận lẻ loi.
Lui vào góc khuất, ở nơi vắng người.
Khi nghe có tiếng đười ươi.
Như lời chế nhạo chê cười thảm thê.

”Này Thằng Thẹo, chúa nhà quê”
”Không ai xấu tệ gớm ghê như mày”.

2.
Năm tôi lên tỉnh tìm Thầy,
Để thêm chữ nghĩa, bớt ngày u mê.
Nhà nghèo, đi học xa quê.
Ăn nhờ ở trọ, làm thuê kiếm tiền.

Một hôm, bạn gái láng giềng
tặng tôi chiếc cặp còn nguyên chưa dùng.
Bổng nhiên, một cậu anh hùng
đấm tôi rách mặt, đá vùng háng mông.

Chỉ nghe bạn gái khóc ròng
nhờ Sư già cõng tôi rong về chùa.
Sư rằng: “buông bỏ hơn thua
tận lòng ẩn nhẫn theo mùa bút nghiên”.

Chuyện làm đau xót Mẹ hiền.
Nhớ con khuôn mặt chữ điền dễ thương.
Nhưng sao rách xước dị thường.
Khuyên tôi về lại ruộng nương quê.

3.
Vết thương thành sẹo ngày qua.
Nỗi đau nhức nhối cũng pha phôi dần.
Nhưng tôi vẫn cứ ngại ngần.
Nhớ Sư dạy phải dự phần bút nghiên.

Đột nhiên, tôi gặp bạn hiền.
Tiểu thư đài các hồn nhiên chân tình.
Sống yên trong một tư dinh.
Giúp tôi kèm trẻ gia đình, lương cao.

Thế rồi, chỉ một tháng sau.
Hai chàng công tử cầm dao tuốt trần.
Một chàng đội nón quân nhân.
Cấm tôi không được đến gần tiểu thư.

Cho ăn một trận đòn nhừ.
Tôi không đánh trả, né đừ thoát thân.
May sao tránh được tử thần.
Sau ngày lành bệnh, tôi cần bỏ đi.

Ba năm trở lại kinh kỳ.
Mới hay bạn cũ đã đi tu rồi.
Đến thăm, chỉ thấy lệ rơi.
Tiếc thương tình thắm một thời bên nhau.

Vết bầm trên má phai màu.
Vết thương trong nỗi buồn đau vẫn còn

 

MỘT TIẾNG THỞ DÀI

Đá tôi bắng bốt-đờ-sô.
Mắng tôi bằng những lời thô tục tằn.

Anh cầm gậy sắt hung hăng.
Đập trên đá dưới, nghiến răng chửi càn.
”Đồ thằng mắc dịch nghèo nàn”.
”Cấm không được chạm tay nàng tiểu thư”.

Tôi đâu biết rõ thực hư.
Chỉ lo chống đở đòn nhừ bủa vây.
Dù bầm tím một cánh tay,
Vẫn không đánh trả, không gây giận hờn.
Chỉ tan nát một cây đờn,
Một chân bàn viết tróc sơn nứt dài.

Rồi anh chống nạnh rất oai.
Thấy tôi bình thản nhìn hai chiếc giày.
Một chiếc đế gót đã bay.
Một chiếc rách nát, khoen dây đứt rời..

Tôi mời anh đến ghế ngồi.
Mong nghe dạy bảo đôi lời đúng sai.
Nhưng anh cà nhắc ra ngoài.
Chỉ nghe một tiếng thở dài, vậy thôi.

Gia Định,1969

CON CHIM GÃY CÁNH

Con chim gãy cánh nằm im.
Bên bờ cỏ dại hoa sim rụng đầy.
Nhìn đàn theo gió tung bay.
Khuất mờ vào những áng mây cuối trời.

Chim đau rên rỉ nhẹ lời.
Dần dà lắng tiếng im hơi âm thầm.
Nương thân dưới bóng cây râm.
Uyên ương di rét xa xăm lạnh lùng.

Khung trời trước mắt mông lung.
Non cao rừng thẳm chập chùng mù sương.
Âm u giá lạnh đêm trường.
Âm thanh gõ kiến cung thương nhịp trầm.

Nhắc chừng trụ được bao năm.
Lẽ nào chết giữa lặng câm núi rừng.
Lăn vào khe núi dựa lưng.
Chim gồng đứng thẳng, cánh sưng đứt rời.

Mỏ im mắt nhắm lệ rơi.
Thân đơn một cánh rã rời ngã nghiêng.
Chỉ còn một phận Chim Chuyền.
Qua nhành lá thắm nơi miền rừng xanh.

Núi Cú,1960
.

tranh của Pedro Fausto
nguồn internet

MỘT NGÔI TRƯỜNG

Thì thôi, phố hạ mù xa.
Đã bao mùa phượng đi qua đời mình.

Sao còn trong nỗi lặng thinh ?
Những trang vở, những dáng hình ngây thơ
nghiêng nghiêng trong ánh chiều mờ
và nghiêng trên một vần thơ đầu đời.

Một con đường nhỏ xa xôi.
Một ngôi trường ở trong tôi không lời.

TRƯỜNG TẢN CƯ
tưởng nhớ Thầy Hai Thắng

Tản cư hạ gió thu mưa
Giữa vùng Sao Cháy lưa thưa xóm nhà.
Ngôi trường mở đến lớp ba
Vách cây mái lá, nắng hoa rơi đầy.

Dù Thầy đi lính đánh Tây,
Lời xưa Thầy dạy còn đây trong lòng
Vắng Thầy, trời đất mênh mông
Bạn bè lớp cũ chìm trong tháng ngày

Đồi xanh lau lách cỏ cây
Thẳm sâu nỗi nhớ bóng ngày bé thơ.

Tân Thắng, 1960

LỚP MỤC ĐỒNG

Chăn trâu thả láng thả bưng
giúp nhau học chữ ven rừng bên sông,
ê a từng tiếng vỡ lòng,
giữa đồng mông quạnh tịnh không học trò.

Que than thay bút trời cho.
làm bài tập viết trên mo cau rừng.
với con chữ đói, chữ sưng,
chữ gầy, chữ rách, chữ lừng lửng no.

Đôi dòng chữ chạm trang mo,
ghi vài mơ ước ấm no sau này.
Trên lưng trâu cặp, trâu bầy,
mơ sao được sống tháng ngày thư sinh ?

Hoa sen từ giữa bưng sình,
hương như thơm thảo trước bình minh xanh.
Mục đồng học lóm loanh quanh,
thầm mong quê mẹ an lành một mai.

LỚP CŨ TRƯỜNG XƯA ..

Giã từ lớp cũ trường xưa.
Giã từ đất mẹ nắng mưa bao ngày.
Giã từ đường phượng hoa bay.
Hương nhu thơm thảo tóc mây một thời.

Tản cư lớp học lên đồi,
trong rừng Sao Cháy, bên trời núi non.
I tờ chữ viết bé con,
đưa tôi lần bước dặm mòn bút nghiên.

Năm tư, rời khỏi bưng biền.
Lớp qua Láng Đá rừng thiêng Dinh Thầy.
Lớp theo trâu cặp trâu bầy.
Học hành giữa chốn cỏ cây ruộng đồng.

Lên thành, học lớp trường công.
Tú tài đại học hơn vòng thập niên.
Ra trường Sư phạm, chuyển miền
dạy Văn trung học Hà Tiên, miệt vườn.

Sau thời phiêu bạt tha phương,
hồi hương dạy học nơi trường Bình Tuy.
Vinh Tân Quảng Đức La Gi
giúp tôi tịnh dưỡng đạo nghì cha ông.

Rồi khi thống nhất non sông.
Cấp 3 Trung học Phổ thông thay dòng.
Từ trường Nguyễn Huệ Bán công,
về hưu tôi lại buồn lòng xa quê.

Thủ Đức, 2004

PHƯỢNG VĨ

Hè về lại nhớ mái trường
Nhớ hoa phượng vĩ để hương cho đời.

Từ hành lang giọt nắng rơi
Nhớ bao bạn học một thời hồn nhiên
Trán thơ ngây, mắt dịu hiền
Những trang sách mở nghiêng nghiêng mái đầu.

Nhớ dòng phấn kể xưa sau
Chuyện cha ông, chuyện tình sâu nghĩa nồng.
Như trời cao như dòng sông
Nhớ người dựng nước Lạc Hồng lâu nay.

Một cánh chim, một ánh ngày
Trường xưa lớp cũ, bóng mây bồi hồi.
Mùa về quê Mẹ xa xôi.
Nhớ sao cây phượng cuối trời nở hoa.

Hà Tiên, 1971

BÊN CỔNG TRƯỜNG CŨ

Tôi về trường cũ một lần.
Dưới mưa trước cổng ngại ngần hỏi thăm.

Nghe người bảo vệ lầm bầm.
”Ông nào lạ lẫm xa xăm đến trường”.
Tôi như kẻ lạ lạc đường.
Dừng chân bên cột vách tường đụt mưa.

Thầy cô đồng nghiệp bạn xưa.
Sân trường bụi phấn mấy mùa luân lưu.
Ai còn dạy, ai về hưu.
Yên vui, bất hạnh, thực hư thế nào ?

Đàn em cắp sách ngày nao.
Người đi kẻ ở ra sao giữa đời ?
Trước bao hoàn cảnh đổi dời,
Thầm mong người cũ một thời bình an.

Giã từ đất mẹ trường làng.
Cuối đời tôi lại lang thang xứ người.

.
 tranh của Samuel Palmer
nguồn internet

THƯ PHAI

Trang thư dòng chữ mực màu.
Mùa pha trắng giấy, bụi nhàu vàng phai.
Lời xưa ý cũ ngắn dài.
Vẫn trong tâm thức dù ngày tháng trôi.

LỜI THƠ KIỀU

Đọc Kiều, trang sách Tố Như.
Tôi nghe “đau đớn lòng” từ câu thơ.
Từ “điều trông thấy” đôi bờ.
Cùng niềm khao khát giấc mơ yên lành.

Rạch Chiếc,1962

ĐIỆU LAM THÔN

Câu hò lục bát chơi vơi.
Lam thôn nước nổi, chim trời reo ca.
Sắc thanh âm điệu quê nhà.
Đưa ta vào dưới bóng hoa bồi hồi.

CÂU HÁT DẶM

Đôi câu hát dặm dân gian
Ru lời sông núi, điệu đàng lam thôn.
Dư âm len nhẹ vào hồn.
Như sương đêm giọt xuống cồn rêu xanh.

Gia Định, 1969

CÂU SÁU TÁM

Chợt nghe bấc lạnh câm câm.
Giật mình tóc đã hoa râm lâu rồi.
Tôi qua cồn cát và ngồi.
Chờ câu sáu tám ru lời biển khơi.

CON CHỮ BỤI.

Bao mùa bạn vói bút nghiên.
Lưng gầy cõng sách qua miền quê xưa.
Đôi trang viết phủ bụi thừa.
Lặng yên con chữ buồn chưa thành lời.

Rạch Chiếc, 1962

ĐIỆU RU

Điệu ru lục bát đôi câu.
Âm mưa tiếng gió, lời cầu kinh đêm.
Rêu hoang cỏ dại bên thềm.
Nằm nghe tiếng rụng êm đềm giọt sương.

An Hội,1964
CÁT SỸ

.
tranh của Christen Dalsgaard
nguồn internet

CHÂN BÀN VIẾT

Chiếc bàn viết gãy một chân.
Lâu chưa sửa chữa tựa thân phế tàn.

Vài viên gạch bể kê ngang.
Chồng lên thay nạng chống bàn đỡ nghiêng.
Gạch cong nứt, chẳng còn nguyên.
Thường khi rung lắc làm phiền chủ nhân.

Người ngồi viết tự quen dần.
Dù ba chân gỗ có chân bị kiềng.
Nhưng bàn vẫn đủ bút nghiên.
Bóng đèn trang sách vẫn yên phận mình.

Riêng người vắng bóng gia đình.
Không nhà cửa, ghé hiên đình sống chui.
Không bàn ghế, trước buồn vui.
Đành kê giấy trắng lên đùi viết thư.

Ghế bàn nào cũng mục hư.
Chỉ cần mặt phẳng thẳng như mặt bàn.
Để ghi lại thoáng mơ màng.
Theo mùa sương khói lang thang dưới trời.

NGỌN ĐÈN DẦU.

Thắp lên một ngọn đèn dầu.
Trong đêm tăm tối, dưới bầu trời sương.
Đồng quê xa cách phố phường.
Thôn nghèo không điện lối đường âm u.

Bao lần sao rụng trăng lu.
Ruộng vườn cây cỏ gió ru u buồn.
Bao mùa giông tố mưa tuôn.
Bờ sông vắng lặng, bến truông mịt mờ.

Ánh đèn xóm chợ lắt lơ.
Bóng con đom đóm phất phơ ngoài trời.
Nhòa vào sương khói chơi vơi.
Giấc mơ bếp lửa thoảng hơi ấm lòng.

Đèn dầu thắp sáng đêm đông.
Soi lên trang giấy trắng không một lời.
Người đi biền biệt xa khơi.
Nghiên khô gác bút, bụi rơi âm thầm.

La  Dạ, 1968

CHIẾC GHẾ

Người nhà cần chiếc ghế ngồi
ăn cơm uống nước, nghỉ ngơi chuyện trò.

Người bươn chải lại so đo.
Ghế đôn ghế đẩu, bành to nệm dày.
Ghế nhôm ghế nhựa ghế mây.
Ghế giường, ghế xếp, ghế xoay đủ tầm.

Người sang ngự giữa thăng trầm.
Xà cừ tràng kỷ, gỗ trầm sô pha.
Ghế vàng ngôi báu kiêu sa.
Quan qua thảm đỏ, ngồi sa lông ngầu.

Mục đồng ngồi ké lưng trâu.
Mồ côi lưu lạc ngồi lâu vệ đường.
Lương dân, dưới bóng gió sương,
dựa lưng trời đất, ngồi thương thân mình.

Ghế buôn đủ kiểu dạng hình.
Người đời đủ loại thường tình nghênh ngang.
Ghế lùn thấp phận cơ hàn.
Ghế cao quyền lực đại quan cường hào.

Người về cat bụi mai sau.
Ghế cây ghế đá, ghế nào mang theo ?

NGÒI BÚT LÁ TRE.

Cũ mèm ngòi bút lá tre.
Nằm im dưới bụi, bên khe cổng chùa.

Bao mùa sương gió nắng mưa.
Thân ten rỉ sét, đầu tưa tét cùn.
Cán cây xa cách mịt mùng.
Không còn giấy mực ở chung một thời.

Mực bơm, bút máy lên ngôi.
Viết tay nguyên tử thay đời bút bi.
Bút lông mực xạ bút chì.
Giấy hoa giấy dó đến kỳ làm thinh.
Nhường cho bàn phím màn hình.
Nhẹ tay gõ chữ, máy in ra bài.

Qua thời khăn đóng áo dài.
Thầy đồ lều chõng miệt mài bút nghiên.
Cọ tre chấm mực rẻ tiền.
Đã như yên nghỉ nơi miền lãng quên.

TỜ GIẤY CŨ..

Nhiều tờ giấy bị bỏ quên.
Nằm trong hộc gỗ không tên không ngày.
Ngoài trời sương gió mây bay.
Trong khay bụi bặm bám đầy mặt thư.

Lâu đời giấy má cũng nhừ.
Mù mờ ý nghĩa thực hư thế nào.
Vài hàng chữ tháo viết mau.
Mực đen giấy trắng sắc màu nhạt phai.

Thời gian lặng lẽ trôi dài.
Giấy con mọt nhấm gián nhai bèo nhèo.
Thư từ nhật ký nhăn nheo.
Công văn khế ước giao kèo tả tơi.

Đôi trang sách rách rã rời.
Vùi quên dưới bụi im hơi qua mùa.
Giữa đời còn mất hơn thua.
Vô tư tờ giấy thẹn thùa lặng yên.

TRANG VỞ MO CAU.

Chăn trâu một thuở nhà quê.
Ăn nhờ học lỏm la lê cơ hàn.
Viết, cây chuốt nhọn, que than.
Giấy, mo ép phẳng từ nang cau rừng.

I tờ lớp lá triền bưng.
Thả trâu học ké lừng khừng nhớ quên.
Tờ mo, trang vở không tên.
Từng lằn sọc trắng hằn lên dòng hàng.

Đầu que khắc chữ nằm ngang.
Than đen ghi đậm lên nang mo dày.
Từng con chữ ốm chữ gầy.
Thay lời sông núi cỏ cây ruộng vườn.

Trang mo cau thấm gió sương.
Thấm dòng nước mắt buồn thương dại khờ.
Lời văn ý chữ ngây thơ.
Chìm vào khoảng lặng mù mờ tâm tư.

Tân Lý,1972

DÒNG THƯ XƯA.

Lá thư từ tạ ngày nào.
Hành trang nghiên bút qua bao dặm đường.
Qua bao ngày tháng gió sương.
Vẫn như thủ thỉ vấn vương tâm tình.

Từng con chữ nhỏ lặng thinh.
Thời còn áo trắng thư sinh học đường.
”…mãi nhung nhớ, mãi tiếc thương”
”dù đời trắc trở đoạn trường bao nhiêu…”

Người xa trường cũ phiêu diêu.
Dòng thư mực tím ít nhiều nhạt phai.
Dáng hình ai bóng u hoài.
Ngây thơ hương tóc áo dài, về đâu ?

Đèn đêm soi tỏ đôi câu.
Nhìn ra giọt mực đọng sầu ly tan.
Màu loang nét chữ mơ màng.
Nỗi buồn chạm nhẹ thoáng hoàng hoa xưa.

An Nhơn,1962
.

tranh của David Petrovvich
nguồn internet

MỘT NGÀY QUA.

Hừng đông trời tỏa ánh hồng.
Trưa đưa ngày vượt bầu không qua chiều.
Đôi bờ cỏ dưới nắng thiêu.
Hoa sầu lá muộn cây xiêu bóng tà.

CÁT SỸ

CHIỀU TÀN

Ngày trôi bỏ lại bóng chiều.
Bên bờ sông vắng ít nhiều âm u.

Lẫn trong một thoáng bụi mù
Cùng làn gió nhẹ vi vu âm buồn.
Hoàng hôn mở cửa đêm suông.
Đi vào khoảng lặng từ nguồn thinh không.

Sao Hôm thắp sáng ánh hồng.
Soi lên những áng mây bồng bềnh trôi.
Đôi vì sao lạc đổi ngôi.
Nháy trong tăm tối tựa đôi mắt trời.

Địa đàng mây nước buông lơi.
Bao người luân lạc đường đởi ngược xuôi.
Tiễn đưa ly biệt ngậm ngùi.
Tìm nơi ngơi nghỉ buồn vui mơ màng.

Chiều tàn, đêm phủ không gian.
Sương mơ bảng lảng dặm ngàn non yên.

ĐÊM MƯA LẠNH

Mưa đêm lành lạnh phố phường.
Vi vu tiếng gió hú buồn nơi xa.
Hẻm con cao thấp tầng nhà.
Vô tình che khuất bao la bầu trời.

Ngờ như vật đổi sao dời.
Thị trường nhộn nhịp đã rời phố quen.
Mưa bay mờ nhạt ánh đèn.
Âm u bóng tối cài then dòng đời.

Dưới mưa bùn đất rã rời.
Dân nghèo phận bạc bời bời xót đau.
Mưa buồn tuông giọt lệ trào.
Khi mùa dịch tể lan mau mọi miền.

Lâm râm mưa rụng ngoài hiên.
Khe rêu đá cũ tịnh yên bên thềm.
Không người vắng lặng đường đêm.
Phố nhà phong tỏa buồn thêm cõi lòng.

Gò Vắp,2021

MỘT ĐÊM DÀI

Vẫn tôi tuổi mọn dại khờ,
nhìn trăng khuya rụng xuống bờ thinh không,
ngờ như hoa mộng giấc nồng.

Một mình đứng giữa mênh mông
cô đơn gõ nhẹ cửa lòng buồn tênh,
còn chi để nhớ để quên.

Nghe xa vọng tiếng sấm rền,
cung đàn điệu hát không tên cõi trời,
bồng bềnh theo áng mây trôi.

Đêm dài lớ ngớ một tôi.
Mong ngày nắng ấm bên đồi liễu dương.

NGÀY MỚI

Nắng lên từ lúc hừng đông.
Hé ra thoáng ánh sáng hồng chân mây.
Báo tin mới rạng một ngày.

Tuần hoàn thời khắc vần xoay.
Đêm tàn bóng tối phả đầy xuống thung.
Ngày sang thắp sáng không trung.

Xóa đi u ám mịt mùng.
Xua tan sương muối lạnh lùng núi sông.
Tỏa hơi nóng giữa mênh mông.

Trên cao mây trắng mây hồng.
Dưới đời nắng sưởi ấm lòng muôn dân.

BỐN MÙA VẦN XOAY

Bốn mùa xuân hạ thu đông.
Xuân xanh hạ nắng thu không đông hàn.
Mai lên đứng bóng chiều tàn.
Hoàng hôn vào tối, khuya sang đầu ngày.

Thời gian như thể tên bay.
Đời người sinh tử vần xoay luân hồi.
Bé thơ khóc nhịu bên nôi.
Khụ già chống gậy về trời lưu niên.

Đời như một giấc du miên.
Chập chờn thức ngủ, ảo huyền mộng mơ.
Vầng trăng lu tỏ mây mờ.
Gió ru cây cỏ bến bờ đục trong.

Đầu giêng năm mới xuân hồng.
Thiên thai vẫn một tấc lòng đào nguyên
Niệm cùng vạn  hữu mọi miền
Như nhiên an lạc theo nguyền ước xưa.

MỘT THOÁNG

Cũng phai thôi những ngày xuân
Trăm năm còn đọng nơi sân nắng chiều.

Trên non lau lách đìu hiu.
Dưới mây đầu phố cây xiêu bóng tà.
Đường về thôn chợt rơi hoa.
Lửa hương như đã phôi pha lâu rồi.

Ta lên dốc núi quen ngồi.
Bời bời nghe cát bụi dời về xa.
Theo mùa mưa móc sương sa.
Âm u bến mộng, xót xa tình đời.

Lệ trời mây thả buông lơi.
Lệ người thấm ướt đôi môi duyên thầm.
Hương hoa một thoáng xa xăm.
Phận buồn dịu lắng lặng câm trong hồn.

Cũng phai thôi những nụ hôn.
Trăm năm còn động bên cồn đá xanh..

Long Hải,1974

TIẾNG MƯA RƠI

Âm thanh tí tách mưa rơi.
Chạm lên phiến đá, lên đời rêu hoang.
Thinh không thạch thảo địa đàng.
Lặng câm núi lạnh, lụi tàn rừng cây.

Chuyển mùa nắng quái mây bay.
Khốc khô suối cạn, lắt lay bụi đường.
Môi trường đất nước nhiễu nhương.
Lội lầy bến đỗ, dầm sương chợ đời.

Rừng xa núi thẳm biển khơi.
Đồng không mông quạnh chơi vơi bóng người.
Xuân thì đâu mãi xinh tươi.
Niềm đau buồn lệch môi cười, ướt mi.

Đường trần kẻ ở người đi.
Sum vầy một lúc, biệt ly muôn đời.
Âm thanh tiếng nước mưa rơi.
Nghe như giọt lệ bên trời tiễn đưa.

GIỌT SƯƠNG TAN.

Hiên ngoài một giọt sương rơi.
Tan trên mặt gạch thành hơi sa mù.

Nương theo gió sớm vi vu.
Hòa vào làn khói phiêu du qua vườn.
Đâu còn hình dáng giọt sương.
Chỉ còn hơi lạnh vấn vương ngang trời.

Thu vàng lá rụng chơi vơi.
Đông hàn buốt giá lả lơi bụi đường.
Dù bao biến đổi tang thương.
Tưởng như còn đọng bóng sương u hoài.

Tưởng như mây nước thiên thai.
Trời cao tụ lại bên ngoài thời gian
Hay như hạt móc địa đàng.
Buông thầm nước mắt bàng hoàng chia ly.

Tàn phai từ giã xuân thì.
Giọt sương nào cũng ra đi theo mùa.

SÓNG BẠC ĐẦU.

Đôi lần ra đứng bên cầu.
Nghĩ quanh con sóng bạc đầu vì ai.
Triều dâng nước dạt bãi dài.

Sóng đâu tuổi tác hình hài,
Chỉ dòng nước bạc lưu ngoài biển xanh.
Gió xô vỗ trắng đầu gành.

Muôn thu ‘sóng gió’ tung hoành.
Sóng trào ngập đất biến thành bể dâu.
Gió gào thổi bạt rừng sâu.

Từ đây con sóng ‘bạc đầu’.
Như vì trời đất sắc màu trần gian.
Không ‘vì ai’ chốn địa đàng.

Ta rong chơi bước lang thang.
Dưới trời mưa nắng, dặm ngàn cỏ cây.
Sương sa pha trắng tóc mây.

TUỔI ĐỜI NGƯỜI

Trăng ba mươi đã về già.
Trăm năm một thoáng bóng ta ven trời.
Thinh không lắng giọt tình rơi.

Đóa hoa nở nụ chào đời.
Chưa tròn tháng tuổi đã rời rã thân.
Hương phai lãng đãng tan dần.

Hằng Nga rời bến sông Ngân.
Sang thăm Chú Cuội nơi vầng trăng khuya.
Ngày lên đêm vội chia lìa.

Rêu non sớm mọc râu ria.
Trên môi đá mẻ, bên rìa miệng hang.
Tươi khô theo nhịp mùa màng.

Tuổi đời vạn hữu lan man.
Trẻ già, sinh tử, nở tàn, tháng năm.
Tùy theo số phận thăng trầm.

.
tranh của Kha Trung
nguồn internet.

DƯỚI MÁI RÊU.

Ta về lộp lại mái rêu.
Nghe hương đất cũ ngoài lều gió mây.
Nghe buồn xa lắc tháng ngày.

Nhà xưa nghiêng dưới bóng cây.
Nền thềm nứt nẻ bám đầy rêu hoang.
Cửa tre vách lá rách toang.

Ta về trước cảnh điêu tàn.
Lập vườn tượng đá giữa hàng trúc mai.
Cuối đời yên ả nơi này.

Không còn làm thợ làm thầy.
Ta xin làm bộ lấy ngày làm đêm.
Lặng thinh cho lặng lẽ thêm.

Tân An,2003.

RÊU PHONG ĐỀN CŨ

Sống trong lặng tĩnh đời thường.
Rêu xanh bám trụ chân tường đền xưa.
Nơi từng tịnh dưỡng diệu thừa.
Yên nhiên trước nắng gió mưa sương mờ.

Thân rêu đôi lúc lơ mơ.
Lá teo lí nhí phất phơ trong chiều.
Gốc gầy thiu thỉu đìu hiu.
Thầm mong mưa móc liu riu mái đền.

Hương pha nhụy phấn không tên.
Hoa chèn kẽ nứt đất nền rã riêng.
Cùng làn mây nước du miên.
Từ trời buông thả xuống hiên địa đàng.

Đền đài xưa cũ điêu tàn.
Thềm hoang cỏ dại, bụi loan cung đường.
Am mây trầm lắng khói sương.
Tĩnh trong tĩnh tại khe tường rêu phong.

XÓM RUỘNG MỚI

Về thăm xóm ruộng một chiều.
Đồng bằng lúa nước nay nhiều đổi thay.

Ruộng vườn thưa thớt bóng cây.
Đường ngang lối dọc, chợ ngày quán đêm.
Người về đất cũ đông thêm.
Nhà tường gạch ngói, nền thềm đá xanh.

Khuất dần mái lá chòi tranh.
Cầu tre sàn gác kè quanh rạch hào.
Đờn cò vọng cổ hát rao.
Lắng sâu vào chốn xanh xao đước bần.

Nay theo cấu trúc nhiều tầng.
Quan trên biệt thự, nông dân nhà vườn.
Đường xe tráng nhựa thông thương.
Nối liền phố thị nông trường miền quê.

Cảnh đời khác trước mọi bề.
Tôi như khách lạ chưa hề qua đây.

CÀ PHÊ, MỘT TÁCH

Cà phê, một tách một tôi.
Bên thềm nhà vắng, ghế ngồi dựa hiên.
Một đời bụi phấn bút nghiên.
Một giây lặng lẽ xua phiền muộn đi.

Cà phê, một ngụm nhâm nhi.
Hương nhu ngào ngạt thầm thì trên môi.
Như thơm một thoáng bồi hồi.
Nụ hôn tình thắm đầu đời đã qua.

Cà phê, một giọt phin pha.
Một giọt đáy tách đậm đà chất quê.
Một mùi vị thuở u mê.
Chìm vào hoa cỏ bốn bề gió sương.

Cà phê đắng, một chút đường.
Một phần dịu ngọt nhún nhường đắng cay.
Buồn đau lánh bước bùn lầy.
Tịnh tâm giữa cuộc tỉnh say ở đời.

.

TRÀ XANH, MỘT TÁCH.

Sớm mai rót một tách trà.
Tôi ngồi chờ nắng trời xa lên dần.

Cuối đời lụ khụ cù lần.
Trà xanh vị chát thay phần cà phê.
Đâu hay khờ khạo u mê.
Cà phê phin đặc bỏ bê nhạt phèo.

Âm thầm một góc chèo queo.
Ngờ rằng hiu quạnh ăn theo nỗi buồn.
Ngoài hiên đôi giọt sương buông.
Lơ mơ ngỡ bóng nước nguồn phong ba.

Nhâm nhi nghĩ ngợi qua loa.
Ngụm trà không thể xóa nhoà niềm riêng.
Cũng đâu xóa được ưu phiền.
Cho thân phận mỏng tịnh yên dưới trời.

Trà sen thơm tự bay hơi.
Một tôi một tách, không lời chê khen
Dù thời trai trẻ đã quen.
Cà phê sáng tối đậm đen pha đường.

Nay tôi tóc rối pha sương.
Vẫn ghiền vẫn nhớ thoáng hương ngày nào.

BẾN LIỄU

Lặng thinh bến liễu thu vàng.
Tàn hoa hương rụng xuống hàng lau thưa.
Gió ru nhành liễu đong đưa.

Có khi giữa nắng chợt mưa.
Hanh khô rớt bụi, nước đưa lạnh về.
Liễu buồn lá rủ lê thê.

Đò neo đợi khách xa về.
Bờ hoang bải vắng bốn bề quạnh hiu.
Liễu khô bóng đổ tiêu điều.

TỰ TA

Đất trời tự nắng tự mưa.
Một ngày bình thản tiễn trưa vào chiều.
Hồn nhiên đêm tối quạnh hiu.

Tự ta chuốc lấy bao điều.
Mẹ xa du tử liêu xiêu bên trời.
Độc hành đất lạ vậy thôi.

Tự mình cảm thấy đơn côi.
Người xưa nâng chén ly bôi tạ từ.
Đường trần đâu mấy năm dư.

CÁT SỸ
.

tranh của Anton Romako
nguồn internet.

CÁT SỸ                                 .
dưới bóng mây.

DU TỬ KẾT NGHĨA.                     .
Năm 1946, Cha tôi qua đời trên đường chạy giặc.
Xa Mẹ, tôi theo Cô Dượng tản cư tại vùng Sao Cháy, thuộc làng Cộng Hòa.
Tại đây, tôi và Trần văn  Đoàn, Lê Phổ kết nghĩa anh em.  Đoàn chết trận
tết Mậu Thân, tại Ban Mê Thuộc. Phổ chết vì sốt rét tại Tháp Chàm vào 1977.
Năm 1993, nhóm bạn cũ ở Gia Định lấy tên Đoàn và tên tôi ghép lại thành
bút danh  “Đoàn Thuận” cho tập thơ Mùa Bấc Biển của tôi, và từ đó có
một tên Đoàn Thuận.

TẤM MO.                          .                                       .
Sau 1954, tôi về Tân Lý thăm Mẹ, ở lại chăn trâu cho anh Năm Cận
và anh Hai Tứ. Khi thả trâu láng, tôi có tham gia “lớp học bỏ túi” Láng Đá
và kết thân với Lê Tráng, Vũ Tư và Trần Hiệu. Tuy ở bên nhau chưa tới
hai năm nhưng rất thân khi cùng học chữ, khi đá banh, khi đi hái trái rừng…
Để phân biệt với những nhóm khác, nhiều bạn chăn trâu gọi chúng tôi là
“những tấm mo”. Vì chúng tôi thuờng dùng “mo cau rừng ép thẳng” thay
giấy và “gai nhọn” thay bút để ghi lại đôi điều cần thiết. Giấy mực có thể
bị mưa làm nhầu nát nhưng mo cau vẩn còn lưu lại “nét chữ gai”.
Chúng tôi cũng mơ ước “được cắp sách đến trường” và thường giúp nhau
để “tự học”. Nhờ đó, sau này bốn “Tấm Mo” đều rời lưng trâu và có Tú Tài.

TỨ BẦN.                                     .
Sau năm 1956, khi rời khỏi lưng trâu, tôi lên tỉnh thành tìm mọi cách
để được đi học. Tại đây, tôi nhận ra nhiều điều và lùi vào góc khuất với
thân phận bé nhỏ của mình. Sau chiến tranh, nhiều người tàn phế,
nhiều trẻ mồ côi, nhiều quả phụ, nhiều người thất cơ lỡ vận, nghèo mạt…
Gần gụi với tôi là những người trẻ cùng hoàn cảnh, những kẻ đơn côi
lang thang vất vưởng… Trong số đó, Cà, Bá, Quê thân thiêt với tôi nhất
vì chúng tôi có một điểm chung. Chúng tôi thường bị khinh khi, bị đánh đập,
bị tước đoạt quyền sinh sống, nhưng chúng tôi chỉ chống đở để tự bảo vệ,
không đánh trả, không sợ hải; chỉ ẩn nhẫn để nhận ra bản chất của sự việc
và chọn con đường “chân thiện mỹ” để tồn tại. Do đó, những người
ganh ghét chúng tôi gọi chúng tôi là “Tứ Bần”, tức là “Bốn tên Nghèo Mạt”,
cũng là bốn ý chê bai “bần hàn”,”bần tiện”,”bần thần” và “bần bật”.

Bạn Cà rất đặc biệt trong bốn anh em chúng tôi. Cà mồ côi cha mẹ
từ thời Pháp thuộc, thành trẻ ăn xin nơi xó chợ đầu đường. Một lái buôn
lượm Cà bán cho một ga-ra. Ông chủ ga-ra mua và nuôi Cà ăn học thành
thợ giỏi, được chọn vào trường Phú Thọ học khóa kỹ sư.Thế rồi, Cà bị
bốn chàng “công tử” đánh gãy xương quai hàm, nằm bất tĩnh bên cổng
trường. Một giáo sư người Nhật nhận Cà làm con nuôi đưa về Nhật chữa trị.
Năm 1964, Cà từ Nhật trở về thăm quê và bốn anh em chúng tôi
gặp lại nhau tại Cité Talence. Lúc đó, chúng tôi đều vào đại học
và cuộc sống không còn “bần” nữa, nhưng vẫn ghi vào “Lưu bút ngày xanh”
bốn “tên bần” theo cách gọi của các “công tử”,như một kỹ niệm “buồn cười”.   .

BA LÁ.                         .
Năm 1969, khi dạy học ở Hà Tiên, có hai phụ huynh thường đến rủ tôi
dong thuyền trên kênh, quanh rừng đước, vào những đêm trăng và hình thành
“nhóm Ba Lá”.  “Ba Lá” là xuồng ba lá và cũng là ba người như “Ba chiếc Lá
bay qua kênh”,theo lời giải thích của người lập nhóm. Nhóm đầu tiên gồm có
Ba Bờ, Năm Lá, mồ côi cha mẹ khi mới lọt lòng. Ba Bờ bị bỏ quên bên
“bờ ruộng”, Năm Lá nằm trên “năm lá sen”. Lớn lên, Ba Bờ Năm Lá
ngồi chung trong một chiếc xuồng chăn vịt.                       .
Thường khi, chúng tôi thả xuồng trôi tự do trên kênh để nghe Năm Lá
hát những bài ca chế theo điệu lam thôn rất buồn, hay để nghe Ba Bờ
kể chuyện tình ái một thời giữa Ba Bờ vá Út Trâm. Năm Lá nhắc
Tám Thuận “ráng” ghi lại những lời kể của Ba Bờ
và “Chuyện Ba Bờ” ra đời từ đó.

TỨ LA.                                  .
Bốn địa danh La gồm có La Gi, La Dạ, La Ngâu, La Gàn.
Năm 1972, tôi chính thức được chuyển nhiệm sở từ Hà Tiên
về Bình Tuy dạy học. Về lại quê Mẹ La Gi, tôi may mắn gặp lại
bạn chăn trâu một thời, trong đó có Vũ Tư, Lê Tráng và Lê Phổ.
Chúng tôi đến bốn địa danh nói trên, tìm hiểu về nguồn cội và
ghi lại trong tập Huyền thoại Hòn Bà Núi Ông. Tập tùy bút này
bị tịch thu vào tháng 4 năm 1975.        .
Năm 1997, chúng tôi sưu tầm được một ít bài về La Gi
và biên tập thành “La Gi ngàn xanh”, như một lưu niệm.        .

Thảo Điền, 2012
CÁT SỸ.                                      .
Đoàn Thuận.

.
.

.

.

.
ĐOÀN THUẬN
Tên thật là Trần văn Thuận, tự Cát Sỹ.
Sinh năm 1943 tại  Lagi,  Binh Thuận.
Giáo viên. Nghỉ hưu ở Thảo Điền, Tp.HCM
[Nguyên hiệu trưởng Trường PTTH Nguyễn Huệ, La Gi].

đtdđ: 0907 497 529
email: doanthuancs@gmail.com

SÔNG DINH
Cát Sỹ ký họa 1972

TRANG VIẾT
Đoàn Thuận
Lục bát:]
+   Lời chiều.(lục bát tứ tuyệt)  [nxb Trẻ, 1996]]

+   Lửa đầu non. (lục bát trường thiên)  [nxb Trẻ, 1999]
+  Tạ ơn đời (lục bát tam cú)  [nxb Văn học 2013
+   Đường Thi [ thơ dịch]  [nxb Văn Học, 2012]
+  Thơ thiền Vương Duy (thơ dịch)  [nxb  Thời Đại,,2014]
+  Dưới bóng mây [in vi tính]
*   Mây mưa  (truyện thơ) [ in vi tính]

Thơ Tự do::
+   Mùa bấc biển. [nxb Văn nghệ Tp.HCM,1994]
+   La Gi ngàn xanh [nxb Trẻ 2001[
+   Lửa đêm mưa.  [nxb Trẻ, 1998
+   Khoảng lặng của hoa. [ nxb Trẻ, 2001]  
+   Tượng. [nxb Trẻ, 2002]            
+   Đời sậy  [nxb Trẻ 2003]
+   Sắc phượng. [Hội VHNT Bình Thuận,2006 ]
+   Rong chơi cùng cát bụi. [nxb Văn Học, 2012]
+   Mái xưa  [nxb Văn học,2013]  
+   Dưới hoa [nxb Văn Học 2013]
+   Sài Gòn và tôi. [ in vi tính
+   Mùa trọ học[in vvi tính]
*  Búp sen (thơ thiếu nhi) [in vi tính]

Thơ Haiku:
+   Mùa thạch thảo [nxb Văn Học, 2013]
+   Giọt mùa (thư pháp) [ in vi tính]

Thơ Đường Luật:    
+  Dấu xưa  [in vi tính]

Thơ Trào phúng:     
+ Đất và Người  [ nxb Thanh Niên, 2013]
+  Những điều nghe thấy[ in vi tính] 
+ Tiếng dội từ đất  [ in vi tính ]          
+ Nghe thấy và nghĩ [ vi tính ]          
+  Họa hủy diệt [in vi tính]

Tùy bút
+  Sậy dại trước gió mùa.

DƯỚI
BÓNG MÂY
thơ
CÁT SỸ
[Đoàn Thuận]
______________________________________________

Biên tập và chế bản :
TRẦN CÁT TƯỜNG

Nội dung: Cuộc đời của một Du Tử.
Tranh:      Trích từ nguồn internet
[tên tác giả ghi dưới bức tranh]

______________________________________

In bằng vi tính,
số lương hạn chế,
lưu hành trong thân hữu.

*

từ tr.đoàn thuận 20
>trở về đầu chương

<<về trang chủ

Trang: 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22

Trả lời

  1. Em muốn tìm hiểu kĩ hơn về nội dung của bài Nhớ lại tuổi thơ trong tập Lửa đầu non mình có tài liệu hay nội dung gì chia sẻ giúp em được không ạ?

  2. Hồng Nhung thân quí.
    Đây là bài
    NHỚ LẠI TUỔI THƠ

    Đôi khi ngồi nhớ lại đời.
    Thấy ta côi cút một thời trẻ con.
    Bấm chân bùn vượt lên non.
    Cha vào thiên cổ. Mẹ mòn mỏi xa..

    Dưới trăng đâu tỏ màu hoa.
    Ôm bao mộng ước ta qua đồng chiều.
    Tưởng đời như một cánh diều.
    Vi vu bay giữa bao nhiêu mây trời.

    Ấu thơ ơi, thuở đầu đời.
    Một ly rượu ngọt ta mời mọc ta.
    Từng ngày ga xép tàu qua.
    Từng trang sách mở, dần xa tuổi mình.

    “Nhớ lại tuổi thơ” là nhớ lại “một thời côi cút, khi Cha đã qua đời Mẹ vắng xa, lưu lạc nơi xứ người với những ước mơ khờ dại…”. Bài thơ này không còn nằm trong tập “Lửa đầu non’, mà nằm trong tập “Mái Xưa”.Hiện nay,tôi có 26 tập thơ ghi lại đôi điều về cuộc sống nhưng rất ít người biết.

    Dạo này, Hồng Nhung ra sao ? ở nơi nào? Có thể liên lạc với tôi qua email : doanthuancs@gmail.com.
    Đoàn Thuận.


Bình luận về bài viết này

Trang web này sử dụng Akismet để lọc thư rác. Tìm hiểu cách xử lý bình luận của bạn.