lưu bút

TÙY  BÚT CÁT SỸ.

* TRƯỜNG CA LA GI *
___________________
 

THÁNG HAI về ĐỒNG TÂN LÝ

Tháng hai, động tố lại gần
Hạt mai già rụng đầy sân rêu vàng.

Bãi dài bấc vẫn mênh mang.
Bầy chim di rét nối hàng về xa.
Trời trong chẳng bóng mây qua.
Đất đai chờ hạt mưa sa vào mùa.

Bên đìa vẫn tím hoa mua.
Dậu bờ vẫn lá dang chua xanh màu.
Người về hát trước nương rau.
Nghe trong lau lách sắc màu mùa vui.

Sông Dinh trầm mặc về xuôi.
Bến Tân Long tiễn đưa người câu khơi.
Bãi bờ sóng vỗ muôn đời.
Làng hoa Tân Lý ru lời Bình An.

Ru qua biển bạc rừng vàng.
Ru con mú kẻm vào khoang thuyền đầy.
Ru con mực ống như say.
Ánh đèn phố nổi lắt lay chân trời.

Và ai gõ nhịp đêm trôi.
Khúc tình ca cũ chơi vơi nỗi niềm.
Lời nào cho những cánh chim.
Lời nào vào cõi im lìm núi xa.

Tân Lý,1972
CÁT SỸ

 


tranh của Yujian.
.

TÙY BÚT CÁT SỸ
___________________________________________
Trần Cát Tường

          Tùy Bút là “gặp cái gì ghi cái ấy”, tức “ghi lại đôi điều nghe thấy” trên đường đời. Tùy Bút thường được viết dưới dạng Văn Xuôi, nhưng Cát Sỹ lại viết theo thể Văn Vần như Lục bát, Haiku, Đường luật, Tự do.                                                    
          Giáo sư giảng dạy Văn chương Quốc âm và Ngữ học Việt Nam, ở Đại học Văn Khoa Sài Gòn trứơc 1975, gọi bài viết của ông là “tùy bút cát sỹ”, với ý nghĩa ”dòng ghi chép của học trò tốt”. Cát Sỹ còn là tên tự của sinh viên Trần văn Thuận. “Tùy bút cát sỹ” là những bài tùy bút văn vần của Cát Sỹ, có vần điệu như thơ sáng tác,rất cô đọng,dễ lưu lại.                       

           Phần lớn tùy bút của ông được viết trong thập niên 60 và nằm trong lưu bút hay nhật ký của các nhóm thân hữu, đặc biệt là Nhóm Tứ La ở Bình Tuy, Nhóm Quốc Âm ở Sài Gòn, Nhóm Ba Lá ở Hà Tiên. Nhờ sự hổ trợ của quí thân hữu, từ năm 1994, chúng tôi sưu tập được nhiều bài “tùy bút cát sỹ” bị thất lạc sau 1975 và biên tập theo các chủ đề như Mùa bấc biển, La Gi ngàn xanh, Sài Gòn và tôi, Mái xưa, Đời sậy, Tạ ơn đời, Rong chơi cùng cát bụi, Mùa thạch thảo, Sắc phượng, Búp sen, Dưới hoa, Khoảng lặng của hoa, Tượng, Lửa đầu non, Lửa đêm mưa, Lời chiều, Thơ thiền Vương Duy… với bút danh Đoàn Thuận, chỉ lưu hành trong thân hữu, ít người biết đến.      
           Riêng tập MÙA TRỌ HỌC vẫn giữ nguyên trạng “tùy bút cát sỹ”, ghi lại những nơi Cát Sỹ từng trú ngụ khi vào đại học ở Sài Gòn trong thập niên 60. “Từ quê lên phố,” Cát Sỹ trải qua nhiều thôn xóm vùng ven, nhiều hẻm phố nội thành. Đôi dòng tùy bút ghi lại khung cảnh và cuộc sống chung quanh gác trọ, với “mưa gió cỏ hoa”, với “tình làng nghĩa xóm”. Hình ảnh “bèo xanh chở lá úa” trôi theo “dòng đời” như ghi lại lời tạ ơn của Cát Sỹ đối với ân nhân đã từng giúp ông “học hành đến thành đạt”.                    .                              
         “Mùa trọ học” đã trôi qua nhưng đôi điều vẫn còn lưu lại trong trang “tùy bút cát sỹ”.

             Thảo Điền, 2014.                                      .
             TRẦN CÁT TƯỜNG.

 

* TRƯỜNG CA LA GI *
___________________

THÁNG GIÊNG về BIỂN LA GI

Tháng giêng, sâm cát nở vàng.
Đồi xa cỏ cú đã tràn sắc non.
Quả rừng Thi Ngọt đang tròn.
Lộc xanh mơ những lối mòn về Dinh.

Biển xa như chợt lặng thinh.
Nghe dương liễu hát ru tình xa xưa.
Nhẹ mưa như thể không mưa.
Ngỡ sương Hồ Núi pha vừa tiếng ngân.

Âm thầm núi đã vào xuân.
Một ngàn mai nở bâng khuâng trời chiều.
Hương đầy một cõi tịch liêu.
Ai người về phố bóng xiêu chân rừng.

Bỏ mùa đông lại sau lưng.
Ngày mang nắng mới sang mừng tuổi em.
Sắc rêu xanh những bậc thềm.
Càng thương lưng mẹ còng thêm tháng ngày.

Bầy chim én lại về đây.
Hạt trăm năm cũ nở đầy màu xuân.

La Gi, 1972
CÁT SỸ

ĐẤT quanh THÀNH JÉRUSALEM *
_____________________________

 

VỀ JERICHO

Du khách về Jericho, phố cổ vạn năm trên đất Palestine
phải được phép nhập cảnh của chính quyền Israel
duy nhất theo cửa khẩu đường bộ độc đạo
từ Jordanie qua cầu Hussein.

Dưới bầu trời vắng lặng như tĩnh không
vùng sa mạc vàng cát khoáng đãng mênh mông
chập chùng đồi ô-liu xanh, vạt chà-là sum suê quả.
thảm thực vật mênh mang chiều, ấm áp nắng mai hồng.

Jericho, thành phố ven bờ Tây sông Jordan
vùng thổ cư trù phú cỏ hoa trang trại biệt thự vườn
đón chào khách tha phương tứ xứ
nơi đất lành cho bao cánh chim.

Jericho, một miền Areeha tự do dừng bước dân du cư
những xóm mạc lum khum lều bạt cổ xưa người Bad’ Wi
phiêu du ngoài vòng kiềm tỏa của Israel quyền lực
tự túc an sinh hồn hậu vô tư

Jericho, dân hiền hoà bên bờ Biển Chết bao đời
dù Israel đã khống chế khắp đất trời
luôn ước mơ một Palestine có chủ quyền độc lập
quyền sống bình yên giữa cõi người.

Sài Gòn,1969
CÁT SỸ

 

DẢI GAZA

1.
Gaza như một nhà tù giam lỏng hơn triệu người Palestine
dưới sự phong tỏa của Mastpash
lương thực thuốc men thuộc lệnh cấm Israel
phần lớn dân cư sống nhờ từ thiện cứu trợ
người lao động trưởng thành không việc làm

Nơi Gaza, sự sống lắng sâu vào mạch ngầm
lối độ nhật đi xuyên lòng đất về biên cương Ai-Cập
đường hầm như mạng nhện dẫn đến những ngôi nhà
dưỡng nuôi hơi thở bằng thị trường lương thực chợ đen .

Mặt đất hứng chịu đạn pháo Israel
nhà cửa đổ nát ngổn ngang bê-tông gạch đá
đôi khi không một bóng người
đôi khi như dải đất chết.

Mặt biển dậy sóng tàu tuần trực thăng biệt kích Israel
tàu chở hàng cứu trợ bị dẫn độ về Ashdod
bị tấn công máu đổ người chết chìm
ngay trong hải phận quốc tế.

Trẻ em lẩn quẩn dưới hầm không lớp học
không hình dung nổi một bông hoa một cánh chim trời
chỉ nghe rền tiếng đạn pháo rơi
chỉ thấy hàng vạn xác chết
chỉ được tăng trưởng bệnh bại não
một đời trẻ thơ sợ hãi thiếu ăn…

2.
Dường như
con người đã quên lò sát sinh phát-xít
quên lời tuyên ngôn về quỵền sống
quên chính phận mình.

Thủ Đức, 2010 .
ĐOÀN THUẬN

.

 

ĐẤT DO THÁI

Người Do Thái, hơn bốn nghìn năm trước,
theo bước đấng Sáng Thế nhưng không mãnh đất quê hương.
Một sắc dân thông minh, giỏi khai thác ngành đá quí
lang bạt bao đời, trú ngụ khắp bốn phương.

1.
Trên con đường lang thang tìm đất sống
để dựng một mái nhà, lập riêng một biên cương
đã có thời dừng chân trên quê người Ai Cập
bán buôn dầu khí, mở tiệm kim hoàn

Rồi một ngày tộc Hitchotte vào Ai Cập,
người Do Thái gia nhập đoàn quân xâm lăng,
nội ứng mở đường đi lính làm quan, phục vụ vương triều mới.
Dân địa phương, hơn thế kỷ, sống lầm than đau thương.

Năm 1555 trước công nguyên
dân Ai Cập vùng lên khắp mọi miền
đánh đuồi ngoại xâm, giành độc lập
kẻ phản bội thành nô lệ, như lời nguyền.

2.
Hơn nửa thế kỷ sau,
Moise đưa  Do Thái qua biển Đỏ
nơi núi Sinai hướng về phương Đông
chỉ đất Hứa cho dân được chọn
một vùng trời và lòng khát vọng mênh mông.

Nghe theo Moise,
ngưới Do Thái tuyển mộ hùng binh chiếm Bethlehm,
đuổi tộc Phillistines lập triều đại Judée, theo Do Thái giáo
dựng quê hương, hùng cứ đất Palestine.

Trước Cứu Thế, vào năm 586
vua Tân Babylone chinh phạt Judée, vào Bethlehm
đưa Do Thái trở về đời nô lệ
dân Palestine mơ sống đời  êm đềm. . .

3.
Trong thế chiến thứ hai, cùng chủ nghĩa Phát-xít
Hitler giết sáu triệu người Do Thái trong các trại tập trung
Khi quân Đồng Minh tiến vào Berlin, Đức Quốc Xã sụp đổ
người Do Thái lại phiêu bạt tha phương.

Ngày 14 tháng 5 năm 1948, lúc không giờ đêm
Mỹ yểm trợ bằng hải quân không quân,
Israel đánh chiếm Palestine,
tấn công khối Ả Rập
cắm Mủi Dao Thép dọc Bờ Tây sông Jordan.

Sài Gòn,1969
CÁT SỸ

 

 

* TIẾNG DỘI từ ĐẤT *
__________________

TIẾNG DỘI từ  ĐẤT
1.
Dân oan
đoàn đoàn lũ lũ đi khiếu kiện
trôi nổi vật vờ khắp Bắc Nam Trung
tiếng kêu than buồn đau rơi vào im lặng.
trước bóng đen quyền lực mưu mô lạnh lùng.

“Phòng tiếp dân” như sàn diễn bi hài kịch
quan tham ô, bị cáo, ngồi vị trí điều tra,
làm quan tòa xét xử theo lệnh “lợi ích nhóm”,
mặc dân nghèo mất đất khốn khó vẫn kêu ca.

2.
Ở Quảng Vinh
tỉnh Thanh Hoá, huyện Vĩnh Xương,
hai ngàn đảng viên lãnh đạo một vạn dân,
mỗi hộ, mười lăm thôn, đóng mười chín loại phí,
lấy “của dân” nuôi dưỡng “đầy tớ dân”.

Giũa vườn hoa thủ đô, Mai Xuân Thưởng,
dân oan khắp nơi về tạm trú qua ngày,
gần triệu lượt người hàng năm đội đơn khiếu kiện
đất bị thu hồi, nhà mất, đổ nợ, trắng tay.

3.
Năm 1997,
nông dân năm huyện thuộc Thái Bình,
tuần hành phản đối tham ô lộng quyền xã An Ninh
dùng vòi rồng dùi cui lựu đạn cay, công an trấn áp
bỏ tù, thủ tiêu dân nghèo cựu chiến binh.

Dân Quỳnh Phụ căm phẫn tấn công ủy ban xã,
trói cán bộ đảng viên, đập phá văn phòng,
thiêu rụi nhà bí thư, chủ tịch, trưởng ban địa chính.
Bùng cháy lên ngọn lửa đấu tranh chống bất công

4.
Tại Tiên Lãng,
Đoàn Văn Vươn tự chế đạn pháo hoa
dọa nhóm thu hồi đất cưỡng chế phá sập nhà
mang tội danh “chống người thi hành công vụ”
ngồi tù nhiều năm trong buồn tủi xót xa.

Đỗ Hữu Ca, đại tá công an Hải Phòng
điều lực lượng vũ trang ba mũi giáp công,
mở “trận đánh đẹp có thể viết thành sách”,
được phong tướng nhờ dập “tiếng nổ” thành công

5.
Nơi Thái Bình,
một thời “thóc không thiếu một cân”
Đặng Ngọc Viết nã năm phát súng colt
vào ban lãnh đạo Phát triển Quỹ đất
phản đối lệnh áp chế đền bù bất công.

Phó giám đốc Quỹ Đất đã tử vong,
nỗi oan ức trong dân vẫn chất chồng,
Người bé miệng, trước phận mình, tự xử
bắng viên đạn xé lòng giữa tăm tối mênh mông.

6.
Tháng Tư năm 2017, dân Đồng Tâm.
rào làng kháng chiến, chống độc tài “nội xâm”.
quyết tử giữ ruộng đồng, những tư liệu sản xuất.
đòi lại chủ quyền của Đất Tổ có tự ngàn năm.

Bọn ác ôn đánh trọng thương cụ Lê Đình Kình
Dân nghèo các thôn đồng loạt biểu tình
giam 38 cảnh sát cơ động trong nhà Văn Hóa.
buộc chính quyền đối thoại về quyền dân sinh

7.
Dân nghèo Vụ Bản, chít khăn tang khóc than cho đất.
Dương Nội, bày âm binh thề giữ ruộng quê cha,
Vĩnh Yên, khiêng quan tài đòi giải oan người chết,
An Giang,“ nằm co vệ đường vì mất đất mất nhà”

”Sở hữu toàn dân” bịt tắt ngang ngả sống,
Phạm thị Lài khỏa thân cho cưỡng chế thu hồi
Đinh thị Kim Liên tự thiêu, Phạm Anh Nam tự tử,
Hà thị Nhung thác hồn theo sương gió di dời.

Đỗ Cường Minh, cục kiểm lâm Yên Bái.
Bắn bí thư tỉnh ủy, giết chủ tịch Hội đồng.
Súng công vụ, K 59, nã đầu cán bộ đảng.
Rất hiển nhiên, thẳng mặt, giữa văn phòng.

8.
Tháng 6 năm 2018
lương dân oan ức khắp nước nhà
Đã xuống đường phản đối “Luật đặc khu”:
Đất cho thuê dài hạn  là “thuộc địa”,
Là “bán nước buôn dân” cho kẻ thù.

Bao ngư dân khốn khổ Phan Rí Cửa.
Cùng biểu tình, đốt phá nhà Ủy Ban.
Đoàn cảnh sát cơ động bị ném đá.
Tự cởi giáp buông khiên, tự tan hàng.

9.
Qui luật sinh tồn tự nhiên vẫn đi qua
dân đứng lên đấu tranh khi tức nước vỡ bờ
đòi lại quyền sở hữu mảnh đất cũ
quyền sinh sống công bằng no ấm tự do

Thảo Điến, 2018
ĐOÀN THUẬN

BÓNG TRỤ trên ĐẤT..

Thanh Hải   Lê chân vào bóng Trụ..
La Thăng   Đinh đóng chùa Liên Trì.
Tất Thành   Cang phổi “tan thành cất”
Hôi thối từ lòng tham sân si.

Đồng Tâm kháng chiến chống “nội xâm”
Ba ngàn công an theo Tô Lâm
giết cụ Đình Kình trên giường ngủ.
Đức Chung trong ngục, miệng lầm bầm.

Xuân Phúc, Văn Thưởng rồi Đình Huệ.
không còn “trách nhiệm người Chủ đàn”.
”Dao thớt chợ trời” chứng Pháp viện.
”Lá chắn” che Tô “bò dát vàng”.

Trụ như “bóng đổ” trên nền Đất
che mờ “vết nứt” quanh lối đường;
và như “rung lắt”  trước biến động,
trước đời dâu bể lắm đoạn trường.

Thảo Điền, tháng Tư 2024
ĐOÀN THUẬN

* ĐÔI MIỀN ĐẤT TRỌ *
__________________

SÀI GÒN NHỮNG NĂM 60

1.
Sài Gòn, Hòn Ngọc Viễn Đông, những năm 60’
mượt mà ánh điện dấu kín nụ cười.
Chợ Bến Thành như toa tàu trăm năm đỗ lại.
Trước bùng binh Quách Thị Trang dòng xe và nguời.

Ngày cuối tuần bát phố qua cửa hiệu sang.
Đêm dìu nhau qua đường vắng ánh đèn vàng.
Sa-lông Adam, động Eve, thì thầm tình cổ sử.
Đôi người Tây già trầm ngâm giữa phai tàn.

Đường Catinat,phố Charner và đâu đó lính viễn chinh trở lại.
Những bước chân vội dưới ánh lửa hỏa châu.
Quán cóc vỉa hè, ngồi quen thuộc phu xích lô, phu khuân vác
thổi cà-phê đĩa, đọc báo cọp, tán gẫu chuyện bể dâu.

Ngày hụ dài tiếng còi tầm Ba Son.
Thợ thuyền công chức, sinh viên học sinh, bánh xe quay tròn.
con đường xanh từ Cần Thơ Tây Nguyên Huế Đà Lạt
về tụ điểm Saigon.

2.
Sài Gòn,
phố dinh thự biệt điện villa.
Hành lang Eden thương xá Tam Đa.
Vũ trường Maxim, Đế Vương Nhất Dạ.
Nhà hàng cửa hiệu Pháp Ấn Việt Hoa.

Phố trưởng giả cự phú, tướng lãnh đại quan.
Sân cỏ bồn hoa, vườn cảnh phong lan.
Khung cửa rèm buông điệu cười luân vũ.
Ngực trần bồng lai êm ái đêm vàng.

Sài Gòn, cầu không vận viễn chinh.
Ngày đêm rầm rập tiếng giày đinh.
Hàn, Phi, Thái, Mã, Tân Tây Lan, Mỹ, Úc.
Đồ hộp đô-la đàn áp biểu tình.

Phố bán xôn Ngã Tư Chợ Trời.
Khu Dân Sinh bán đủ thứ trên đời.
Khổ kẻ bán trôn, giàu chủ sòng bạc.
Mê thánh thần, ghiền á phiện, lắm kiểu ăn chơi.

Phố nhạc bập bùng lầu cao.
Cuồng say thân xác vũ điệu màu.
Đêm Châu Mỹ vọng buồn qua khúc hát.
Tiếng kèn đồng vong quốc gào đêm thâu .

Phố Chiều Tím, Quán Gió, Đêm Màu Hồng.
Đời như thể hư không.
Ly tách chạm điếu thuốc tàn môi lệch.
Khúc Da Vàng ai ru hồn non sông.

3.
Sài Gòn, phố hẻm sâu nhà gầm cầu,
nơi những người không biết đi đâu về đâu,
che chắn đời nhau bằng cuộc sống thuê mượn.
thiếu ăn, thừa lạnh, đầy đủ lo âu.

Phố kênh đen của người tay trắng.
Mục rã chân sàn lắt lay qua mùa.
Nhà thuyền đậu dập duềnh giông bão.
Rác và người chung sống nắng mưa.

Phố của người tàn phế đánh giày mồ côi ăn xin
lang thang ngày xó chợ đêm co ro phố buồn.
Cuộc sống quặp vào nỗi lo sợ
Vắt kiệt sức bấu chặt lấy quê hương.

4.
Sài Gòn, những con đường rợp bóng cây.
Không hơi đông không heo may.
Nắng, một mùa, rụng vàng bên mái phố.
Mưa, một mùa, vội thả lá xanh bay.

Những con đường mang tên cổ nhân
Lê Lợi Quang Trung Hàm Nghi Duy Tân.
Đêm không ngủ, xuống đường, đọc Hịch Tướng Sỹ
Mơ cờ đào Nguyễn Huệ, mộng Văn Thân.

Sài Gòn,1969
CÁT SỸ

LA GI NGÀN XANH

1.
Người về đây, La Gi rừng biển
sóng đong đưa dương liễu đong đưa
con tu hú gọi chiều xa lắc
phía Dinh Thầy vương khói rừng thưa.

Biển vẫn hát lời chiều của biển
những con thuyền lộng gió về khơi
đem thơ ấu ta vào tưởng tượng
theo bóng mây phố cổ chân trời

Mùa bấc thổi tháng giêng vời vợi
mang lời ru của Mẹ vào xưa
lời ru mang cánh đồng con suối
có mây chiều làm rụng hạt mưa.

2.
Lời ru mang tiếng chuông Tà Cú .
cánh cò chiều về trắng Bưng Ngang.
ta thả hết hồn vào huyền thoại
nàng tiên Rừng Thị Ngọt mơ màng.

Lời ru qua những đồi cỏ cú
cánh diều bay đưa tuổi thơ đi
những chuyến đò Tân Long Tân Lý
chở nắng vàng phố cát La Gi.

Lời Mẹ ru qua ngàn đỉnh núi
nỗi mong chờ những đứa con xa
những đứa con quên mình vì nước
những đứa con đi dựng quê nhà.

Lời ru qua những chiều tịnh vắng
những hồn mùa và những dòng sông
tình non nước ru vào sâu thẳm.
một vầng trăng ru biển mênh mông.

3.
*
Từ xa lắm, khi mùa chưa đến
khi ngàn xanh, xanh tự ban sơ
hồn nhiên núi ngoảnh nhìn về biển
cõi Tiên Sa xanh ngát bãi bờ.

Mũi Đá nằm ôm hồn Núi Bể
mơ ngàn năm Núi Nhọn lên trời
và Núi Đất còn nguyên dáng đứng
bên Hồ Cây in bóng mây trôi.

Rừng xanh thẳm dài theo biển nắng
Sao, Bằng Lăng, Chò, Gõ, Dáng Hương
Dầu, Săng Đá, Sơn Đào, Lim, Trắc
Lá Buông rừng,Tre gộp, Mây bưng.

Tiên nữ hái hoa nguồn Suối Đó
về Mây Tào thả khói lên khơi
để Đá Dựng mùa đào đẹp mãi
và Sông Dinh trầm mặc không lời.

**
Dòng sông chảy mang hồn cổ tích
của chuyện tình xa xưa bao năm
nơi rừng vắng, Núi Ông lặng lẽ
cõi đại ngàn, ngàn xanh xa xăm

Dòng sông chảy thành mùa về biển
sầu ly gia lắng xuống cõi lòng
Hòn Bà dấu Thiên Y trên sóng
cho biển trời, trời biển mênh mông.

Tình một thuở đã thành muôn thuở
Sông Dinh trôi mạch nối đôi miền
dòng nước ngọt từ nguồn sâu khuất
biển mặn nồng tình nghĩa vô biên.

4.
Từ xa lắm, người về vỡ đất
khơi nguồn xanh vườn ruộng lên xanh
những hạt lúa Ba Thăng, Ba Thắc,
những Nàng Hương, Nàng Sậu thơm lành

Nơi cư trú mảnh đời lưu lạc
những Láng Gòn, Láng Đá, Láng Sim
những Bàu Sen, Bàu Tràm, Bàu Sót
nơi đất lành cho những cánh chim .

Đông thêm xóm lên rừng xuống biển
về Tân Minh, Tân Hải, Tân Hà
về Động Chú, Hồ Tôm, Suối Dứa,
phố thêm dài, đồng rộng, thôn xa.

Tên làng xóm mang nhiều mộng ước
người Thiện Hoà, cuộc sống Bình An
quê hương xanh của rừng biển mới
đầy sức xuân trong một chữ Tân.

5.
Miền biển thêm Xóm Dừa, Xóm Lưới,
thêm Chợ Chiều, Bến Cá, Bãi Câu
và ngày tháng dài theo tiếng sóng
Đồi Dương xanh ru nhớ Bờ Dâu

Nơi cư trú cuộc đời biển giả
da sạm màu mùa lộng mùa khơi
những Năm Báng, Bảy Chờ, Hai Lưới
ngày động dài, động tố rong chơi.

Những mùa mực, biển như phố nổi
ánh đèn câu lấp lánh chân trời
mùa cá Bẹ, cá Mòi, cá Nục,
thuyền câu về, Chợ Cá Biển vui.

Mùa bão rớt , sóng xô bờ cát
thuyền ai neo gác mái bên sông
ai sửa thúng, xảm thuyền, vá lưới
ai lạnh lùng bấc thổi đêm không!

6.
Vài món ăn trở thành đặc sản
thịt Nai xào với Cải Rổ thơm
chua Cá Lóc lá Dang, lá Bứa
gạo Nàng Co nồi đất thổi rơm.

Chút hành ớt ngọt canh Phơn Phớt
cá Mòi Dầu kho với Măng Le
Mực tươi nướng rau răm mắm nhĩ
gỏi cá Mai ăn chẳng muốn về

Người xa xứ nhớ hoài trái lạ
những trái Xay, trái Diếc, trái Gùi
Trâm chín tím, Thanh Trà, Nổ trắng
Xoài Quéo chua, Sim ngọt, Gấm bùi

7.
Từ xa lắm, xuân về Mai nở,
rừng thơm hương của Ngọc Điểm lan,
đông se lạnh, thu đầy bão rớt,
hạ vừa sang Phượng Vĩ đỏ làng .

Nơi cư trú tâm hồn cao quí,
những người con tận hiếu tận trung,
những Mẹ hiền tảo tần khuya sớm,
những mối tình bền vững thuỷ chung.

Dốc Ông Bằng người về thắp đuốc
ánh lửa hồng đánh thức rừng đêm.
tiếng gà gáy Văn Kê, Cửa Cạn
bình minh về cho biển xanh thêm.

8.
Người về đây một chiều yên tĩnh
nghe mạch nguồn dưới núi rừng xa,
nghe hạt nứt trong lòng đất mới,
nghe mùa về gọi biển bao la.

La Gi,1972
CÁT SỸ

ĐẤT TRỌ và TÔI

Cõi đời quen lạ gần xa,
Đôi khi lỡ độ giữa ta và người.

Yêu thương, xuân thắm hoa tươi,
Hận thù, chối bỏ nụ cười lệch môi.
Mơ xưa ước cũ một thời,
Vai kề bước mỏi, nay đôi đường về.

Một người phiêu bạt xa quê,
Cô đơn làm bạn bộn bề buồn vui.
Nắng mưa cát bụi dập vùi,
Giữa đông phố xá ngược xuôi thị trường.

Một người nơi đất đế vương
Lầu cao biệt thự cung đường nguy nga.
Mê say nhung lụa phồn hoa,
Quên ngày chia cách lệ nhoà tiễn đưa.

Tôi về đất trọ qua mùa.
Tàn tro hương lửa thẹn thùa hôm mai.
Miên man hoa nở hoa phai
Thu sang lá rụng, đông cài giá băng.

Tiếc thương chi cũng muộn mằn
Mất còn, một lẽ thường hằng, như nhiên.

Thảo Điền, 2014
ĐOÀN THUẬN

* BỤI PHẤN SÂN TRƯỜNG *
_______________________

.

BẾN ĐÒ VẮNG

Không ánh lửa chài trên sông.
Không cây đa bến cũ.
Tiếng gọi đò xưa lẫn khuất mênh mông.

Khách qua đò đâu còn ai trở lại.
Một dòng xanh cùng mây trắng tự trôi.
Những cánh bèo lang mang xa khơi.

Bến đò Sáu Say, 1976
CÁT SỸ

HÀN SỸ

Có hàn sỹ nhặt chiều tà
ẩn trong xóm vắng, đường hoa cúc vàng,
sau lưng bỏ dại bờ hoang.

Trường xưa xóm học xa ngàn.
Xuân thu mấy độ bàng hoàng giấc mơ.
Sương trời ủ dột lời thơ.

Tân An, 2003
ĐOÀN THUẬN

SÂN TRƯỜNG MÙA HẠ

Người về Xóm Học đã thưa.
Những trang vở khép vào xưa cũ dần.
Hàng dương liễu đứng bâng khuâng.
Tiễn mùa sang hạ, mưa ngần ngại bay

Bước chân gõ guốc phố này,
Áo em trắng những tháng ngày thư sinh.
Sân trường giờ lại vắng thinh.
Thềm ngoài lớp học, rêu in sắc chiều.

Thuyền xa, bờ chợt cô liêu,
Đàn chim bay khuất, quạnh hiu núi đồi.
Nghỉ hè, em lại xa xôi,
Mình ta giữa cõi muôn lời cổ thi.

Lá thu xanh gọi mùa đi,
Ngoài ô cửa lớp mùa thi qua rồi.
Đường về Xóm Học chia đôi.
Vắng em bụi phủ chỗ ngồi lặng yên.

Những chiều ru gió sau hiên,
Tưởng em ngồi học một miền quê xa.
Mong ngày hạ trắng mau qua,
Em về bước nhỏ lối hoa mộng này.

Lagi 2003
ĐOÀN THUẬN

BUỔI SÁNG ĐẾN LỚP

Đi bên em trên đường đến lớp
Áo trắng lay trong gió đầu ngày
Làm nhớ lắm về thời cắp sách
Cuối phố chờ nhau buổi học dài

Ánh nắng nhuộm vàng trên mái tóc
Ngỡ như lòng lắng một hương hoa
Hương của tóc qua môi dịu ngọt
Của lá thư buồn vui xưa xa.

Cùng bên nhau sớm mai đến lớp
Mà nghĩ đời nhiều nỗi mong manh
Trang bài soạn gửi niềm mong ước
Dân được ấm no, trẻ được học hành.

Làm cô giáo giờ em gầy lắm
Tóc của anh cũng đã điểm sương
Đời mưa nắng có nhau bên cạnh
Đi mãi về sau một con đường.

Tân An, 1980
CÁT SỸ

TIẾNG HOA RƠI
[tặng quí sinh viên Sư Phạm]

Bất chợt mùa về ngang thành phố.
Sân trường áo trắng hồn nhiên vui.
Riêng em áo cũ, màu phượng đỏ,
vẫn mắt nai hiền thoáng xa xôi.

Vẫn tóc thơm quen, hương dịu cúc.
Kỷ niệm mùa đi chìm theo lời.
Bàn tay thon nhỏ, trong tay phấn,
chạm xuống hồn ta tiếng hoa rơi.

Lối trúc hiên rêu nhẹ gót hài.
Dấu mùa sắc cỏ bóng chiều phai.
Tưởng đâu người cũ vời xa mãi.
Giờ lại cùng nhau “nối gót Thầy”.


Đại Học Sư Phạm Sài Gòn, 1965
CÁT SỸ

BÊN THỀM ĐẠI HỌC

Một thoáng nắng bên thềm đại học
cũng đủ vàng mái tóc em.
Một buổi sáng xanh trong mắt biếc
đủ ru ta đôi phút êm đềm.

Chừng như có điều gì e ấp.
Sách cầm tay mà lòng ở đâu xa.
như thời gian hẹn chờ lâu lắm.
Tà áo mân mê tay nhỏ thật thà.

Trời yên gió sân trường thật vắng.
Và lòng ta yên tĩnh bên em.
Như rất đủ trong chiều suy nghĩ.
Em và ta đâu cần nói gì thêm.
.
Đại học Văn Khoa Sài Gòn, 1969
CÁT SỸ

CÕI PHƯỢNG

Ai về lối mơ hoa.
Tóc xanh áo vải vui đèn sách.
Một thuở đầu đời xa.

CÁT SỸ

SÂN TRƯỜNG  và  TÔI

Một bông giấy trắng
nghiêng sân nắng vàng
xuân đâu trở lại
như giọt sương tan.

Trang thư mực tím
ngang thềm rêu xanh
chạm chiều thu biếc
sắc màu mong manh.

Một ngôi trường nhỏ
đổ bóng hồn ta
người đi xa mãi
mùa về rơi hoa.

ĐOÀN THUẬN

* HOÀI NIỆM *
___________

GHI CHÚ CUỐI NGÀY.

1.
tia nắng cuối cùng xuống phố
trời chưa sang thu đâu heo may
dăm chiếc lá khô rơi
chiều thinh vắng
lạnh hiên ngoài.

2.
một đoá hoa rơi giữa sân bâng quơ
chẳng kịp theo mùa về
mưa rào qua mái phố
nhạt nhoà hàng me.

3.
hẻm cụt mất điện quánh đặc bóng đêm
qua khung cửa hẹp
nơi đỉnh cột đèn chết
đám mây sau mưa như còn trôi
trên cao một giọt sáng rơi.

4.
lá thư từ xa xôi
con tem miền tuyết lạnh
nằm yên nghe chiều trôi.

5.
ngày ra đi
xe tốc độ vút qua bụi mù
bỏ lại mảng tường loang lổ phố thị
ta vẫn chờ mãi ta nơi đất trọ heo hút nẻo về

dường như ai đó nhắc ta đừng hẹn chờ vô lối
rồi mai cuối đường thế nào mặt trời cũng lên
dù chiều nay hay ngày sau bất ngờ mất ánh sáng
ta vẫn dặn lòng ta tỉnh thức đừng buồn.

6.
một khắc trời yên gió
chiếc lá rách ngủ quên nơi bậu cửa cuối chiều
trang thư chưa lên đèn con chữ dốt đặc cô liêu
cánh cửa đóng sập vào tối

7.
hằn lên vắng lặng một giọt sonate
chạm lòng đêm hiền từ
ta dò tìm khuôn mặt xưa theo dòng chữ
hạt lệ nào khô rơi xuống hoang vu.

ĐOÀN THUẬN

TƯỞNG NIỆM
ANH TRẦN VĂN HÒA

Anh từng phiêu bạt xa khơi
Nay về yên nghỉ dưới trời quê hương.
Giã từ mưa nắng gió sương.
Bỏ buông bao nỗi đoạn trường bể dâu.

Quê Cha đất Mẹ rừng Dầu.
Thôn xưa Tân Lý cúi đầu đón Anh.
Bao năm xa xứ độc hành,
Nay về yên giấc mộng lành thiên thu.

Người từ cát bụi mịt mù.
Trở về cát bụi tầm vu vô thường.
Xác thân cõi tục tang thương
Hồn thiêng tịnh cõi thiên đường an nhiên.

Gò Vắp, 2024
ĐOÀN THUẬN

TRƯỜNG LÀNG XA.

Một mùa phượng vĩ nào xưa.
Mênh mang hương dịu dưới mưa chiều tà.
Vương buồn kỷ niệm đã qua.

Ta thầm nhớ mái trường xa,
Thầy cô bạn học đường hoa hạ tàn.
Một thời sách vở sang trang.

Giã từ xóm học bàng hoàng.
Ta như du tử lang thang cuối trời.
Xa quê xa Mẹ xa khơi.

Bao đêm khuya lạnh sương rơi.
Ánh đèn lưu bút nhắc lời chia ly.
Nỗi niềm xưa mãi thầm thì.

CÁT SỸ

BIỆT LY

Xác hoa phượng vĩ rơi đầy.
Đường về trường cũ phố mây hạ tàn.
Ta như khách lạ qua làng.

Lớp lang sách vở sang trang.
Tháng ngày bụi phấn bàng hoàng bay đi.
Đâu đây một thoáng biệt ly.

ĐOÀN THUẬN

THẦM TƯỞNG NHỚ.

Giã từ lớp cũ trường xưa.
Thầy cô phiêu bạt nắng mưa bên trời.
Bút nghiên bụi phấn không lời.
cùng bao bạn trẻ xa rời cố hương.

Lương sư dưới bóng bụi đường.
Lời nguyền hưng quốc như vương mối sầu.
Hoang tàn bao lối bích câu.
Thư sinh áo vải cúi đầu biệt ly.

Tình xưa nghĩa cũ thầm thì.
Nhân văn “nhân bản” đạo nghì phôi pha.
Cội nguồn “dân tộc” nhạt nhòa.
Tầm nhìn “khai phóng” sương sa che mờ.

Lương dân di tản bơ vơ.
Di cư đau xót về bờ bến xa.
Đền đài đất tổ quê cha.
Chìm trong bể khổ ta bà tang thương.

Thầy cô lưu lạc dặm đường.
Khuất xa Đất Mẹ mái Trường Làng xưa.

Nancy,1976
CÁT SỸ

MỘT HOÀI NIỆM

Tưởng khuất xa theo tháng ngày trôi,
ngôi trường Sư Phạm Saigon một thời,
qua bao đổi thay, trên nửa thế kỷ,
nhưng vẫn còn đây hoài niệm không lời.

Buổi sáng hẹn chờ với nỗi niềm lặng thinh,
qua email, qua dòng thư tâm tình,
dưới bóng cây sau dinh Độc Lập,
nơi cư xá Đô Thành.

Tôi đâu ngờ được hội ngộ bạn hữu xa xăm,
ngỡ như trải bao dâu bể thăng trầm,
khi tuổi đời vào dần thưở xưa nay hiếm,
mắt đã mờ, chân đã mỏi, tóc hoa râm.

Phin cà-phê, nhỏ từng giọt thời gian
làm nhớ buổi chờ nhau,chiều Thanh Bạch Adam
bát phố Lê Lợi Tự Do, sáng chủ nhật
qua đường Nguyễn Du, nghe rơi lá xanh lam.

Bầu rượu Cognac nơi tư thất Hiếu Nghĩa
cùng Anh Khiêm, Đăng Tiến nồng nàn hương xưa,
cụng ly sum họp, chạm môi vào nỗi nhớ,
về một thời sư phạm qua bao nắng mưa.

Vài trang sách cũ, một “Sắc Phượng” buồn,
đưa mùa “Trôi Trên Dòng Thương”,
”Ký Ức Sơ Sài” đánh thức bao kỷ niệm,
giữa cõi người trong đục nhiễu nhương.

Thủ Đức,2004
ĐOÀN THUẬN

* MÙA TRỌ HỌC *
_______________

HOA NƠI TRỌ HỌC.

Nơi gác trọ sách đèn,
tôi cùng hoa làm quen,
thầm buồn nhìn xoan tím,
thoáng vui với hương sen.

Cúc dại không theo mùa,
chẳng nhuốm màu hoa mua,
luôn với tôi tươi thắm,
đâu mắc cở thẹn thùa.

Lan đất bên bờ đường
tiễn chân tôi qua trường
dù đông sầu lạnh giá,
hay thu muộn pha sương.

Dạ lý hương dã quì
cùng tôi thức ôn thi
nhụy cong những dấu hỏi
về bài toán xuân thì.

Giữa mùa hoa lưu ly,
tôi giã từ kinh kỳ,
nhớ cánh xoan tim tím,
dáng sen hồng nhu mì.

CÁT SỸ

NƠI TRỌ HỌC

Gác cây dưới tán hoa xoan,
nơi tôi trọ học ngổn ngang sách đèn.
Vì đời trôi nổi bao phen
thân như bèo dạt ao sen đầm lầy.

Chốn này hoa thoảng hương bay
từ bờ cúc dại, từ cây xoan già.
Cõi kia phố thị phồn hoa,
nhà hàng cửa hiệu quán ba vũ trường.

Hạ sang phượng thắm pha sương.
Em xưa từ giã sân trường lệ rơi.
Người đi kẻ ở bồi hồi.
Tuổi thơ hoa mộng một thời sang trang.

Tôi nơi gác cũ vườn hoang,
Bạn cùng cây cỏ cùng trang sử vàng,
Lời xưa nghĩa cũ mênh mang.
Âm thầm suy niệm giữ an tâm mình.

Rạch Chiếc, 1962
CÁT SỸ

NƠI  Ở TRỌ

Đường cát bụi ngờ như còn hoang sơ
đưa tôi tìm nơi trọ miền ngoại ô
bờ Rạch Chiếc, bên này xóm Ruộng Cỏ
xa phố phường sang trọng giữa thành đô.

Một gác gỗ dưới nhành cây la đà,
tại góc vườn bỏ hoang đầy cỏ hoa,
bên thềm gạch rêu phong mái ngói cũ,
nơi trú chân bao người không cửa nhà.

Sinh viên nghèo xa quê sống bơ vơ,
ngày đi học, đêm dạy kèm trẻ thơ.
Gác yên tĩnh, tôi mong tâm an tịnh,
bớt u hoài, bớt mê muội mộng mơ.

Nhành xoan tím đong đưa trong chiều tà,
làm nhớ lắm đồi sim tím quê nhà,
lan đất tím, hoa mua, bằng lăng tím.
Như tím buồn biệt ly khi chia xa.

Rạch Chiếc,1962
CÁT SỸ

BẠN HỌC NƠI ĐẤT TRỌ.

Bạn thân nơi đất trọ.
Quen nhau ngày thơ ngây.
Học hành bên cô thầy.
Tôi ghi lời ước nguyện.

Đôi vần thơ xao xuyến
Trao nhau lúc chia tay.
Chúc an nhiên, nào hay
gặp biết bao buồn tủi.

Từ đường đời rong ruổi,
gửi lại dòng thơ đau,
cùng cánh hoa úa màu
ép vào trang lưu bút.

Tôi mong giấy không mụt
Khi hoài niệm lời buồn.
Dù lòng như bỏ buông.
Dù thơ chẳng ai đọc.

Dù rối bời mái tóc
Trước sương gió nắng mưa.
Vẫn giữ ước nguyện xưa:
Đi “theo đường nghiên bút”.

CÁT SỸ

QUÁN TRỌ

Bãi bờ yên trước bóng khuya
Tiếng lau sậy chạm cõi kia quán đời.
Dưới hoa lặng lẽ ta ngồi
Bóng trời đêm chạm vào môi cười thầm.

Người xa như thể trăm năm
Ngoài kia núi cũ đã nằm ngủ lâu.
Ai buồn tay chống mái đầu
Trước rừng trăng muộn phai màu sau cây.

Cuối trời mây thản nhiên bay
Quán trần ta trọ chờ ngày mai đi.

Bình Triệu,1964
CÁT SỸ

VÀO SÀI GÒN TRỌ HỌC.

Tôi, từ biển mặn đồng ruộng xanh,
du tử xa quê lên tỉnh thành
dò dẫm tìm đường vào đại học,
nhiều năm ở trọ nơi Sài Thành.

Hòn Ngọc Viễn Đông, miền đất lành.
Phương Nam, đậu lại cánh chim xanh.
Văn minh Lúa Nước nền Âu Lạc.
Thoát ly phong kiến sau chiến tranh.

Dù đời nghèo khổ, phận mỏng manh,
nguyên lý giáo dục vẫn vận hành,
”Nhân bản Dân tộc và Khai phóng”,
mở tầm hiểu biết dưới trời xanh.

Ở nhờ ăn đậu, sống âm thầm,
tự thân rèn luyện xa mê lầm,
kèm trẻ tư gia, dạy tư thục.
nương tựa vào người có thiện tâm.

Dân quê dân phố nghèo hay giàu,
tình làng nghĩa xóm bảo ban nhau,
giúp trẻ học hành đến thành đạt,
xây đời an lạc cho mai sau.

Sài Gòn,1963
CÁT SỸ

MÙA TRỌ HỌC

Bao mùa trọ học đất Sài Gòn
giúp tôi dần xa tầm trẻ con,
với phận quê mùa sống khép nép,
lủi thủi nương thân giữa mất còn.

Ngày đầu lưu lạc nơi phồn hoa,
trọ lại thôn nghèo ngoại ô xa,
đường đi nước bước còn lạ lẫm,
bạn với sương khuya với chiều tà.

Người có thiện tâm như xót xa,
thương kẻ bơ vơ không cửa nhà,
sẻ chia cơ hội vào đại học.
nhường phần kèm trẻ tại tư gia.

Giấc mơ Kiến Trúc rồi phai nhòa,
đành chọn văn chương với Văn Khoa,
theo Ban Việt Hán vào Sư Phạm,
một mai nối gót ông đồ già.

Thập niên 60 hồn nhiên trôi,
Sư Phạm tiễn tôi về xa xôi,
Trung học Hà Tiên, nhiệm sở mới,
từ giã Văn Khoa lòng bồi hồi.

Đất trọ Sài Gòn như quê hương.
Một tôi du tử lại tha phương.
Kỷ niệm buồn vui trong lưu bút.
Hành trang mang theo chỉ gió sương.

Sài Gòn, 1969
CÁT SỸ

* TRANG  VIẾT và TÔI *
____________________

TRANG LƯU BÚT.

Một trang “lưu bút ngày xanh”
của thời trung học nơi thành phố xưa.
Mực nhòe màu nước hạt mưa.
Đâu hay giọt lệ tiễn đưa ngày nào.

Bao mùa nghiên bút bên nhau.
Tiếng ve cánh phượng bay vào mông mênh.
Xa trường lưu lạc lênh đênh.
Từng dòng chữ cũ gợi lên nỗi buồn.

Gợi âm tiếng mõ hồi chuông.
Lời kinh tụng niệm về nguồn an nhiên.
Thầm mong xứ sở bình yên.
Ngây thơ trang viết thắm duyên hẹn thề.

Người đi mù mịt sơn khê.
Người về gió bụi tư bề quạnh hiu.
Ngày xanh lưu bút đôi điều.
Ngày tàn con chữ thiu thiu ngủ thầm

CÁT SỸ

TRANG VỞ CŨ

Một trang vở thuở đầu đời,
Nằm yên dưới lớp bụi thời gian qua.
Bỗng dưng một buổi chiều tà.
Hồn văn bóng chữ gọi xa lắc về.

TRANG SÁCH  CŨ

Những trang sách ám bụi dày.
Bìa con mọt nhấm mất ngày thư sinh.
Đôi dòng chữ vẫn lặng thinh.
Trong hồn người cũ bao nghìn thu qua.

TRANG NHẬT KÝ

Một trang nhật ký không ngày.
Trên cánh én mỏng đã bay ngang mùa.
Trên màu sắc tím hoa mua.
Trên vô cùng ngọn sóng đùa bãi dâu.

TRANG BÚT KÝ

Trang đời con chữ câu thơ.
Sắc thanh âm điệu cậy nhờ bút ghi.
Tình người ấm lạnh thầm thì.
Lưu trong lời lẽ vân vi dưới trời.

CÁT SỸ

TRANG VỞ MO CAU.

Chăn trâu một thuở nhà quê.
Ăn nhờ học lỏm la lê cơ hàn.
Viết, cây chuốt nhọn, que than.
Giấy, mo ép phẳng từ nang cau rừng.

I tờ lớp lá triền bưng.
Thả trâu học ké lừng khừng nhớ quên.
Tờ mo, trang vở không tên.
Từng lằn sọc trắng hằn lên dòng hàng.

Đầu que khắc chữ nằm ngang.
Than đen ghi đậm lên nang mo dày.
Từng con chữ ốm chữ gầy.
Thay lời sông núi cỏ cây ruộng vườn.

Trang mo cau thấm gió sương.
Thấm dòng nước mắt buồn thương dại khờ.
Lời văn ý chữ ngây thơ.
Chìm vào khoảng lặng mù mờ tâm tư.

CÁT SỸ

TRANG MO CAU

Đôi dòng trên tấm mo cau.
Mục đồng khờ khạo ghi bao nỗi niềm.
Từng mùa lưu dấu hoa sim.
Bóng lau bên suối, cánh chim lưng trời.

TRANG CHỮ
NGÀY CHĂN TRÂU

Mục đồng đâu phải học trò.
Que than viết chữ trên mo cau rừng.
Chăn trâu thả láng thả bưng.
Ghi lời tiền bối, khắc từng câu thơ.

TRANG TỰ SỰ

Từ biệt “mái xưa “ buổi thiếu thời.
Dưới hoa “mấy nẻo “đất và người”.
Sau “mùa bấc biển”, “dấu xưa “khuất,
Trước “lửa đầu non”, “sắc phượng” rơi.
Khoảng lặng của hoa”, “mùa thạch thảo”.
Lời chiều “dưới “tượng”, “tạ ơn đời”.
Rong chơi cát bụi “cùng “đời sậy”.
Mộng “lửa đêm mưa “ở cuối trời.

ĐOÀN THUẬN

TẬP GHI CHÉP.                                                             .

Sau đình chiến 54, tôi về Tân Lý “chăn trâu mướn” để phụ giúp Mẹ tôi dựng một mái lá trên nền nhà cũ, đã nát tan sau chiến tranh. Lần đầu tiên tôi “tập cỡi trâu”, nên phải nhờ sự chỉ dẫn của các bạn “chăn trâu nhà”. Tôi được khuyên “nên có một tấm mo” thay một tờ giấy để chạm ghi điều cần thiết “vì giấy có thể bị rách từ mưa gió nhưng tờ mo thì không”. Nhờ đó, tôi “tập chạm vài con chữ”, “tập khắc ghi cảnh núi sông” trên đôi tấm mo cau rừng.                                       .
Khi Ba tôi bị bắt ở tù Côn Đảo, tôi trở lại Bình Châu. Má tôi làm lại khai sanh, đổi họ Nguyễn sang họ Trần, để tôi đủ điều kiện đi học. Lên Bà Rịa, tôi ở trọ cùng nhà với anh Phi Vân, học đệ tứ trường Sỹ Tải. Một hôm anh bảo tôi viết cho anh vài chữ vào tập Lưu Bút Ngày Xanh của anh. Tôi  đọc thấy nhiều bài rất hay và tự biết không thể viết được như thế. Anh đưa cho tôi một cây cọ và bảo tôi viết chính điều vừa nghĩ. Tôi liền viết tháo từ trên xuống như thư pháp.                                     .
Em
đâu biết nói gì                                          .

mai
Anh ra đi.                                                  .
              Sau đó, anh cho tôi một tập giấy pelure với lời đề tặng ”Phi Vân gửi Thuận vài nét chữ như Lưu dấu bóng Ngày Xanh bên nhau”. Nhờ đó, tôi nhận ra “nét lưu bút” và “tập ghi lại đôi điều nghe thấy trên đường đời” theo cách ngu ngơ khờ dại của tôi, vì không dám bày tỏ cùng ai.
Khi học đại học, tôi thường ngồi cuối giảng đường thầm “lắng nghe để thấu hiểu” lời giảng dạy của giáo sư và ghi gọn ý chính trong những câu văn vần. Dưới một Quẻ của Kinh Dịch, tôi thường cô đọng ý trong 3 dòng với 17 âm tiết cùng lời ghi chú ở cuối trang. Một hôm, giáo sư Nguyễn Khắc Kham bảo tôi cho xem trang ghi chép về Kinh Dịch và Giáo Sư nói “độc đáo, như thơ Haiku…hãy tiếp tục theo cách này…” Khi học chứng chỉ Văn chương Quốc Âm, chứng chỉ Ngữ học Việt Nam, tôi lại ghi trong 2 dòng với 14 âm tiết như thể Lục Bát. Do đó, nhiều giáo sư đại học nhận định “đó là thơ” dựa trên nội dung của bài giảng và trước bao điều nghe thấy. Nhưng, một số nhà thơ “khác” lại không cho “đó là thơ” mà chỉ là “tạp bút”….                                      .
Tôi tự nghĩ: lẽ nào từ lưng trâu đến sân trường, tôi chỉ “tập ghi chép”, “tập làm thơ”, ”tập làm bạn với con chữ đau” trong 30 tập “tạp bút” bên ngoài các Hội Đoàn Văn Học Nghệ Thuật.                          .                                                   ..

Trong những ngày cuối đời, tôi lại tiếp tục “sưu tầm” trang viết bị thất lạc và “chép lại” thành “Cụm Bài” để giết thời gian. Tại một góc khuất, tôi “lắng nghe” những nốt nhạc do thầy Minh Huệ phổ nhạc bài “Sài Gòn và Tôi” mà tôi đã từng “lưu bút” trên đường đến trường Chu văn An, Trưng Vương, Văn Khoa trong thập kỷ 60. Tâm hồn tôi như “ghi nhịp” những khoảng lặng buồn.                                                  .

Gò Vắp, 2024.
Đoàn Thuân.

* TẬP LÀM THƠ *
______________
.

GIỌT THƠ BUỒN

Trang thơ ném xuống chợ trời.
Chìm trong tiếng rú ma hời lê thê.
Tiếng cười hài hước nhạo chê.
Trước con chữ rách, giấy rê nát nhàu.

Giữa thời lẫn lộn vàng thau.
Thơ là thơ thẩn lời rao thị trường.
Tụng ca xu nịnh đế vương.
Bốc thơm quan lớn, xem thường dân đen.

Nằm bên đống rác, cột đèn.
Vần thơ tiếng Việt thân quen dưới trời.
Lời quê dân dã một thời.
Xẻ chia thân phận bao đời nắng mưa.

Giọt thơ buồn rụng lưa thưa.
Trên nền đất Tổ, hồn xưa Lạc Hồng.
Giọt nào theo gió phiêu bồng.
Giọt nào đọng lại trong lòng buồn đau.

ĐOÀN THUẬN

DÒNG THƯ XƯA.

Lá thư từ tạ ngày nào.
Hành trang nghiên bút qua bao dặm đường.
Qua bao ngày tháng gió sương.
Vẫn như thủ thỉ vấn vương tâm tình.

Từng con chữ nhỏ lặng thinh.
Thời còn áo trắng thư sinh học đường.
”…mãi nhung nhớ, mãi tiếc thương”
”dù đời trắc trở đoạn trường bao nhiêu…”

Người xa trường cũ phiêu diêu.
Dòng thư mực tím ít nhiều nhạt phai.
Dáng hình ai bóng u hoài.
Ngây thơ hương tóc áo dài, về đâu ?

Đèn đêm soi tỏ đôi câu.
Nhìn ra giọt mực đọng sầu ly tan.
Màu loang nét chữ mơ màng.
Nỗi buồn chạm nhẹ thoáng hoàng hoa xưa.

CÁT SỸ

ĐÔI DÒNG LỤC BÁT.

Đôi dòng Lục Bát Ba Câu.
Sao ghi hết được mối sầu trần gian.
Sách xưa mối mọt nhấm vàng.

Rách nhầu giấy dó tan hoang.
Án thư nghiên bút miên man gió lùa.
Mực màu tím sắc hoa mua.

Lời thơ lục bát thẹn thùa .
Vẫn thầm ghi nhớ muôn mùa quê hương.
Dù cho phả bụi pha sương.

Dù đời dâu bể đoạn trường.
Mãi lưu ân đức cội nguồn Văn Lang.
Ơn Người gầy dựng giang san.

Câu hò lục bát dân gian.
Lời ăn tiếng nói bốn ngàn năm qua.
Sắc thanh âm điệu quê nhà.

ĐOÀN THUẬN

CON CHỮ “ĐAU”

*
Tờ thư không rõ tháng ngày.
Mờ tên người nhận, mực bay bạc màu.
Chỉ còn thấy một chữ “đau”
giữa lòng trang giấy nát nhàu chung quanh.

Thư nằm trong đám cỏ tranh.
Bên lề đường nhỏ vắng tanh bóng người.
Gần kề một khóm huệ tươi.
Chúm tròn như thể nụ cười hồn nhiên.

Chữ “đau” ẩn nghĩa ảo huyền.
Hay như “đau đớn, buồn phiền, xót xa”.
Đau vì bão tố phong ba.
Ruộng vườn tang tóc, cỏ hoa tiêu điều.

Đau vì dang dở tình yêu.
Thề nguyền ước hẹn đã phiêu du rồi.
Còn chăng nước mắt bồi hồi.
Rơi trên giấy viết với lời biệt ly.

Chữ “đau” riêng lẻ nói gì ?
Khi bao sầu não thầm thì nơi đâu,
Khi thư chẳng đủ một câu.
Im lìm dưới bụi đậm màu lãng quên.

*
Tôi, từng xa xứ lênh đênh,
tập làm thơ, tập ghi lên nỗi niềm.
Đôi điều dấu kín trong tim,
đã như con chữ “đau” chìm trong mơ.

CÁT SỸ

CON CHỮ VỠ LÒNG

*
Một trang vở thuở học trò.
Ê a tập đọc, ơ o học vần.

Từng ô giấy trắng vuông cân.
Từng con chữ cái bò dần khắp trang.
Âm vần không dấu thanh ngang.
Sắc nghiêng Ngã Nặng Hỏi han dấu Huyền.

Vỡ lòng câu chữ đầu tiên.
Đôi điều “phết phẩy”vào miền âm u.
Nhắc thầm mù chữ lù khù.
Phải lo thoát khỏi dốt ngu dại khờ.

Chấm than chấm cuối câu thơ.
Như lời than thở i tờ chưa thông.
Để rồi dấu hỏi phải không.
Điều chưa ghi chép còn trong mịt mùng.

Vết sâu dấu nặng vô cùng.
Sắc thanh ngữ nghĩa chập chùng tĩnh không.
Đâu hay con chữ đầu lòng.
Nằm trong tâm thức bên dòng thời gian.

*
Tôi cùng con chữ lang thang
tập tành viết lách đôi hàng ngu ngơ.

CÁT SỸ

TỜ GIẤY CŨ..

*
Nhiều tờ giấy bị bỏ quên.
Nằm trong hộc gỗ không tên không ngày.
Ngoài trời sương gió mây bay.
Trong khay bụi bặm bám đầy mặt thư.

Lâu đời giấy má cũng nhừ.
Mù mờ ý nghĩa thực hư thế nào.
Vài hàng chữ tháo viết mau.
Mực đen giấy trắng sắc màu nhạt phai.

Thời gian lặng lẽ trôi dài.
Giấy con mọt nhấm, gián nhai bèo nhèo.
Thư từ nhật ký nhăn nheo.
Công văn khế ước giao kèo tả tơi.

Đôi trang sách rách rã rời.
Vùi quên dưới bụi im hơi qua mùa.
Giữa đời còn mất hơn thua.
Vô tư tờ giấy thẹn thùa lặng yên.
*
Giấy nhàu mực lẹm ngoài biên.
Giúp tôi tập viết, chữ nghiêng ngả buồn.

CÁT SỸ

GIẤY LÁ SEN.

Chiếc lá sen khô thay giấy bao.
Ép phơi dưới nắng vàng bạc màu.
Mặt lá nhạt nhòa sắc rêu biếc.
Thân còn non nớt dần xanh xao.

Hàng rong bán dạo, gánh loanh quanh.
Lá làm giấy gói xôi đậu nành,
bao quanh bó rau, xấp trầu tía,
bọc túm thuốc rê, gói trà xanh.

Lá như giấy dó của cụ đồ.
ghi câu đối đỏ nét chữ thô,
khắc dòng thư pháp kiểu Việt Hán,
ký tên lưu dấu buổi dại khờ .

Lá sen từ đầm vào chợ trời
đôi khi theo khách về xa khơi,
lá tròn giữ nguyên gói hàng hóa,
cắt thành trang vở nơi trường đời.

CÁT SỸ

NGÒI BÚT LÁ TRE.

*
Cũ mèm ngòi bút lá tre.
Nằm im dưới bụi, bên khe cổng chùa.

Bao mùa sương gió nắng mưa.
Thân ten rỉ sét, đầu tưa tét cùn.
Cán cây xa cách mịt mùng.
Không còn giấy mực ở chung một thời.

Mực bơm, bút máy lên ngôi.
Viết tay nguyên tử thay đời bút bi.
Bút lông mực xạ bút chì.
Giấy hoa giấy dó đến kỳ làm thinh.
Nhường cho bàn phím màn hình.
Nhẹ tay gõ chữ, máy in ra bài.
*
Qua thời khăn đóng áo dài.
Thầy đồ lều chõng miệt mài bút nghiên.
Cọ tre chấm mực rẻ tiền.
Đã như yên nghỉ nơi miền lãng quên

ĐOÀN THUẬN

NGỌN ĐÈN DẦU.

*
Thắp lên một ngọn đèn dầu.
Trong đêm tăm tối, dưới bầu trời sương.
Đồng quê xa cách phố phường.
Thôn nghèo không điện lối đường âm u.

Bao lần sao rụng trăng lu.
Ruộng vườn cây cỏ gió ru u buồn.
Bao mùa giông tố mưa tuôn.
Bờ sông vắng lặng, bến truông mịt mờ.

Ánh đèn xóm chợ lắt lơ.
Bóng con đom đóm phất phơ ngoài trời.
Nhòa vào sương khói chơi vơi.
Giấc mơ bếp lửa thoảng hơi ấm lòng.
*
Đèn dầu thắp sáng đêm đông.
Soi lên trang giấy trắng không một lời.
Người đi biền biệt xa khơi.
Nghiên khô gác bút, bụi rơi âm thầm.

La  Dạ, 1968
CÁT SỸ

CHÂN BÀN VIẾT

Chiếc bàn viết gãy một chân.
Lâu chưa sửa chữa tựa thân phế tàn.

Vài viên gạch bể kê ngang.
Chồng lên thay nạng chống bàn đỡ nghiêng.
Gạch cong nứt, chẳng còn nguyên.
Thường khi rung lắc làm phiền chủ nhân.

Người ngồi tập viết quen dần.
Dù ba chân gỗ có chân bị kiềng.
Nhưng bàn vẫn đủ bút nghiên.
Bóng đèn, trang sách, vẫn yên phận mình.

Riêng người vắng bóng gia đình.
Không nhà cửa, ghé hiên đình sống chui.
Không bàn ghế, trước buồn vui.
Đành kê giấy trắng lên đùi viết thư.

Ghế bàn nào cũng mục hư.
Chỉ cần mặt phẳng thẳng như mặt bàn.
Để ghi lại thoáng mơ màng.
Theo mùa sương khói lang thang dưới trời.

CÁT SỸ

CON CHỮ BỤI.

Bao mùa bạn với bút nghiên.
Lưng gầy cõng sách qua miền quê xưa.
Đôi trang viết phủ bụi thừa.
Lặng yên con chữ buồn chưa thành lời.

GIỌT MỰC BUỒN

Trang thơ mực đọng giọt buồn.
Tựa màu tim tím hoa muồng tàn phai.
Loang ra một thoáng u hoài.
Hương xưa sắc cũ đã ngoài thời gian.

TẬP LÀM THƠ

Làm thơ Đường Luật thật công phu,
Hạn vận, niêm thanh, đối ngẫu từ.
Bố cục theo khai, thừa, chuyển, hợp,
Nội dung hướng thiện, mỹ, chân, như.
Trắc bằng cưỡng lạc, đừng sai luật,
Bất luận phân minh, tránh ảo hư.
Tứ tuyệt bốn câu cô đọng ý.
Năm vần bát cú tám dòng thư.

CÁT SỸ

* CỘI MAI MÙA XUÂN *
___________________

MAI BÔNG-SAI.

Trong vườn một chậu bông-sai.
Dáng hình thu nhỏ cội mai rừng già.
Tuy mùa thiên cổ đã qua.
Hồn nhiên vẫn tự nở hoa nhung vàng.
*
Hạ tàn thu tận đông sang.
Bông sai lá rụng mơ màng dáng xuân.
Đâm chồi nứt mộng bâng khuâng.
Nõn nà nụ búp thơm dần môi hoa.

Dịu dàng nhẹ thoáng hương pha.
Lan từ nhụy phấn vươn ra cõi ngoài.
Nhòa vào phong vị trần ai.
Khiết thanh như thể nhạt phai giữa đời.
*
Mai rừng trụ lại dưới trời.
Trong khuôn chậu nhỏ một thời rêu phong.
Khi rừng hoang hóa mênh mông.
Thiên nhiên biến đổi, cộng đồng nhiễu nhương.

ĐOÀN THUẬN

HẠT MAI NÚI

1.
Hạt mai núi kẹt trong kẽ đá,
bị cát bùn bụi đất phủ đầy,
không bóng nắng, giọt mưa thưa nhỏ,
thân khô gầy theo mùa cỏ cây.

Ngày nắng gắt, đá hanh hao nóng,
mùa lũ mưa, nước ngập ngụa tràn,
hạt vẫn như dần mòn héo hắt,
trước rừng mai vô tư bạt ngàn.

Nương đất trời vạn hữu sinh sôi
có lẽ nào nhân quả luân hồi,
đã bỏ quên phận mầm hoa cỏ,
để hạt cằn teo tóp bên trời.

2.
Cơn địa chấn chuyển rung sông núi.
Đá tan hoang, sâu chết dưới mưa.
Mùa vần xoay, hạt mai đất cũ,
Thầm nẩy mầm ươm hoa hương xưa.

ĐOÀN THUẬN

MAI VÀNG

Đóa mai nhụy trắng cánh vàng.
Phấn hồng thơm thoảng bên ngàn mơ xuân.
Hương mùa dịu lắng bâng khuâng,
theo dòng hoa lệ thế nhân u hoài.

Mai dù mai một một mai,
thân già vẫn dưỡng miệt mài nhựa nguyên,
đâm chồi nẩy lộc như nhiên,
tình xanh lá thắm xe duyên tự nguồn.

Mưa dầm nắng quái sương buông.
Đài xanh búp nõn cành xuông nứt mầm.
Đời người dài ngắn trăm năm.
Đời hoa một thoáng lặng câm nở tàn.

Thu phai đông tận xuân sang.
Ngàn mai nở rộ hoa vàng hồn nhiên.
Hương mai bay đến đôi miền,
như mong vạn hữu bình yên thái hòa

ĐOÀN THUẬN

XUÂN THA PHƯƠNG

Những đàn chim én đã bay xa.
Vài hạt mai non chuyển sắc ngà.
Sân gạch khách về chân lạ lẫm.
Thềm hoang nhà vắng dấu hài hoa.
Mùa đi luân lạc đâu người cũ.
Xuân đến tha phương nhớ mẹ già.
Cảnh giới vô thường luôn biến dịch.
Chân trời lặng lẽ một mình ta.

XUÂN HƯU TRÍ

Đón Tết, mừng xuân giữa mỹ miều.
Lương hưu gói ghém tha hồ tiêu.
Trà sen khách vắng không lo thiếu,
Bánh tét nhà đông chẳng sợ thiu.
Trúc biếc năm qua luôn tiết thẳng,
Mai vàng tháng lạnh vẫn hoa nhiều.
Đời ta hữu hạn trong vô hạn,
Biết đủ dường như đủ mọi điều.

CHIM CHIỀU và  LỮ KHÁCH

Chiều hoang đổ bóng chim về tổ,
Lữ khách tìm nơi nghỉ lại đêm.
Núi thẳm rừng xa đôi cánh mỏi,
Thân đơn chốn lạ bước chân mềm.
Đường bay vạn dặm phiêu linh mãi,
Đất trọ không người tĩnh mịch thêm.
Hư ảo chân trời mây viễn xứ,
Mùa trôi bỏ lại mộng êm đềm.

Gò Vắp, năm Giáp Thìn.
ĐOÀN THUẬN

XUÂN TRÊN NON

Trên non cây cỏ hồn nhiên.
Trước mùa mưa nắng, giữa miền gió sương.
Tàn hoa úa lá phai hương.
Và ta chậm bước trên đường vào xuân.
.

XUÂN Ở NÚI

Xuân về ta lại gặp ta.
Rong chơi núi cũ chờ hoa nở vàng.
Sắc màu nhoà giữa sương tan.
Để thiêm thiếp nhớ một làn hương bay
.

MƯA XUÂN

Mưa xuân mang bụi nước mây.
Lưa thưa sợi mỏng nhẹ bay ngang đời.
Từ mùa đông giá sương phơi.
Dư âm hoa mộng tiếng rơi giọt buồn.
.

CHIỀU XUÂN NHỚ QUÊ.

Chiều xuân mây trắng về xa.
Cuối chân trời ấy quê nhà chiều xưa.
Nhớ chiều nao chuyến đò đưa
Chở chiều qua bến sông mưa đợi chiều.

Mây chiều hay tóc em yêu,
Lòng ta phố cổ chín chiều vì đâu?

ĐOÀN THUẬN

CHIỀU CUỐI NĂM

Ngày tháng đuổi ta hoài sau lưng.
Ta chạy ta đi, bóng chập chùng,
đò đầy ga xép, nơi đất hứa,
ngoảnh lại, tàn phai sắc núi rừng.

Rượu đế uống suông bên đóa hồng.
Dăm người bạn cũ ngồi cuối đông.
Nhà bên thơm lừng hương nếp mới.
Đáy cốc dần vơi chiều tĩnh không.

Đàn bầu nhịp khúc điệu lam thôn.
Tình cũ nghĩa xưa thấm vào hồn,
dù xa bến nước con thuyền nhỏ,
dù đời lỡ độ tuổi hoàng hôn.

Cát bụi pha mù bóng chiều tà.
Vắng lặng đôi bờ chuyến phà qua.
Đường thôn gió thổi vàng hoa cúc.
Tiếng vó ngựa nhoài chân núi xa.

ĐOÀN THUẬN.

ĐÓA MAI

Âm đương đắp đổi bốn mùa trôi.
Cỏ cây hoang sơ tràn núi đồi.
Nhựa nguyên chuyển dịch dòng sắc thể
Phấn hương ong bướm bay ngang đời.

Hạ bạt mưa giông nắng thu vàng.
Đông xám sương lam lạnh tràng giang.
Móc trắng vương hờ nhành liễu rũ.
Xuân ấm chồi non xanh quan san.

Lá thắm như nhiên lạc bến mê.
Lộc trời buông thả xuống sơn khê.
Cội mai ươm mầm nứt mộng biếc.
Một “đóa vàng thơm” mong én về.

Mùa đi hương nhạt hoa tàn phai.
Bụi lầm hoá thạch lối thiên thai.
Tiên nữ đào tơ dâng Lưu Nguyễn.
Thấp thoáng mây mưa giấc mơ dài.

Đoàn Thuận

NGÀN MAI

Một cánh rừng mai nở bạt ngàn.
Hương lùa theo gió khắp quan san.
Cành cành búp mới khoe màu biếc,
Đoá đoá đài non thắm sắc vàng.
Chạnh nghĩ thương tình hoa phố thị,
Thêm buồn tiếc nuối thuở hồng hoang.
Mùa đi bỏ mặc đời dâu bể ,
Cây cỏ dung nhan tự úa tàn.

CỘI  MAI

Đông sang trẩy lá cội mai già.
Chuyển nhựa trăm năm dưỡng sắc hoa.
Hạt mọng rơi thầm trên đất cũ.
Hương nhu bay khuất phía trời xa.
Mưa ươm nụ mới màu biêng biếc.
Nắng nhú chồi non dáng thướt tha.
Én gọi mùa về xuân trở lại.
Riêng ta tuổi dại mãi trôi qua.

MAI SẺ

Cuối chạp, mai rừng sớm rộ ngang.
Ta còn cội Sẻ đón mùa sang.
Thân già búp mới đài xanh điểm.
Gốc cổi nhành non lộc biếc tràn.
Sắc thấm môi hoa còn chúm chím.
Hương vương mắc lá đã mênh mang.
Tình hoa lắng đọng hồn sông núi.
Hạt chuyển mầm xuân nụ nở vàng.

ĐOÀN THUẬN

NHỚ CỘI  MAI

Trời đông hơi lạnh chờ xuân sang.
Riêng tôi lụ khụ còn lang thang.
Xa xôi quê mẹ ngày xế bóng.
Ở trọ xứ người buồn miên man.

Nhớ cội mai xưa sân nhà vườn.
Đã từng đón tôi ngày hồi hương.
Nhụy hoa thơm dịu tóc du tử.
Sau mùa phiêu bạt cùng gió sương.

Sân trường phượng vĩ màu tơ vương.
Bụi phấn bụi hồ, lẫn bụi đường.
Lỡ thầy lỡ thợ, đành lỡ độ.
Từ giã cội mai, lại tha phương.

Tôi nay lơ mơ phận đồ già.
Bút nghiên bụi bám thêm xót xa.
Con chữ nằm im trang nhật ký.
Lưu dấu cội mai xuân quê nhà.

Thảo Điền 2014
ĐOÀN THUẬN

* LỚP CŨ TRƯỜNG XƯA  *
_______________________

Kính thưa quí Thân Hữu.

Sau cụm bài “Mái trường và tôi”, nhiều Thân Hữu ở Ninh Thuận và Bình Thuận thắc mắc “sao không thấy nói về trường C3 Hàm Tân và trường Nguyễn Huệ”. Tôi xin phép được giải bày như sau:
.
1.Trước năm 1975, tôi là giáo sư trung học đệ nhị cấp, dạy chính ngạch ở trung học Hà Tiên, trung học Bình tuy và dạy thêm ở nhiều tư thục, từ 1964 đến 1974..
Đầu năm 1975, do thời cuộc có nhiều biến động, nên Trung học Bình Tuy gần như đóng cửa và tôi nghỉ dạy để theo Ba tôi làm thợ hồ.
.
2. Tháng Tư năm 1975, Ban Quân Quản gọi tôi đi học tập cải tạo đợt 1 tại chỗ. Sau đợt học, tôi được “trả quyền công dân” cho phép “làm thợ hồ” tại La Gi và giao tôi tu sửa dãy lớp học cũ thành “khu nhà tập thể” với bếp ăn mới, phía cổng sau của trường Trung học Bình Tuy.
Sau đó, tôi lại được gọi đi học tập đợt 2 ở Đà Lạt. Tại đây, tôi được xếp vào loại “giáo viên lưu dung” và cho về Cấp 3 Hàm Tân [tức Trung học Bình Tuy] làm “Trưởng ban lao động” hướng dẫn học sinh đi trồng khoai, bắp, bo bo ở Tân Hải, Tân Hà, Sơn Mỹ,….. và dạy vài tiết Việt văn.
Sau 2 năm thử việc, Ủy Ban Nhân Dân Tỉnh Bình Thuận  cho tôi đi học Trường Cán Bộ Quản Lý ở Tp. Hồ Chí Minh, [dù tôi không phải là đảng viên]. Nhờ vậy, tôi được cất nhắc làm Hiệu Phó Lao Động. Cũng từ đây, một số người “vu oan” đôi điều bất nhân, khiến cuộc sống của chúng tôi không được bình yên và nhiều lần tôi xin phép ra khỏi trường học. Mùa hè 1993, tôi dường như bị đình chỉ công tác vì bài thơ “Nhớ Sài Gòn” [lưu bút cho nhóm bạn ở Sài Gòn đến Hà Tiên thăm tôi vào đầu năm 1972]. Sau khi tập thơ “Mùa Bấc Biển”của tôi, với bút hiệu Đoàn Thuận, nhận Giải Dục Thanh lần 1, mọi việc được sáng tỏ, tôi rời bỏ C3 Hàm Tân trong lặng thầm.
Thế nhưng, Ủy Ban Tỉnh không cho phép tôi ra khỏi ngành giáo dục và  giao tôi “thiết kế một Trường chuẩn Quốc Gia” trên nền đất của Trường Sư Phạm Mầm Non cũ. Tiếp theo, Tỉnh yêu cầu tôi sửa gấp 2 dãy nhà để mở một Trường Bán Công. Ông Hứa Minh Tánh đã giúp chúng tôi hoàn tất công việc, theo đúng yêu cầu của Tỉnh, để kịp khai giảng năm học đầu tiên.
Dù tôi được bổ nhiệm làm Hiệu trưởng trường Bán Công Nguyễn Huệ, nhưng nhiệm vụ chính của tôi là “xây dựng” ngôi trường PTTH mới theo chuẩn quốc gia. Năm 1999, trường khởi công xây đựng phần 2 của Thiết Kế. Không rõ vì đâu, Ủy Ban Huyện Hàm Tân đình chỉ công trình đang xây dựng để Sở Công An và Sở Tài Chánh vào kiểm tra. Sau một năm dài “kiểm tra” Trường và “điều tra” tôi, Ủy Ban Tỉnh kết luận Trường và tôi “không có sai phạm”

Tháng 7 năm 2003, từ giả Trường Nguyễn Huệ,  tôi về hưu với mức lương “chuyên viên loại 1”, không phải lương “giáo viên lưu dung”.
Tôi tự nghĩ: sau 1975, tôi chỉ là “người lao động” giúp việc cho ngành giáo dục, “hướng dẫn học sinh lao động” nơi  trường C3 Hàm Tân, “xây dựng” trường PTTH mới nơi khu đất Trường Sư Phạm Mầm Non cũ. Chỉ thế thôi.

3. Cuối đời, dù xa Quê Mẹ La Gi, tôi vẫn nhớ mãi những “trường làng xưa” trước 1975, nơi tôi đã từng đi học theo   nền giáo dục “Nhân Bản Dân Tộc và Khai Phóng”.
.

TRƯỜNG LÀNG XƯA.

Một mùa phượng vĩ nào xưa.
Mênh mang hương dịu dưới mưa chiều tà.
Vương buồn kỷ niệm đã qua.

Ta thầm nhớ mái trường xa.
Thầy Cô bạn học, đường hoa hạ tàn.
Một thời sách vở sang trang.

Giã từ xóm học bàng hoàng.
Ta như du tử lang thang cuối trời.
Xa quê xa Mẹ xa khơi.

Bao đêm khuya lạnh sương rơi.
Ánh đèn lưu bút nhắc lời chia ly.
Nỗi niềm xưa mãi thầm thì.
.
CÁT SỸ
[Đoàn Thuận]

MÙA PHƯỢNG CŨ

Khi về nhặt cánh phượng buồn,
Nghe mưa tạt ướt nẻo đường về xa.
Tàn lâu rồi những mùa hoa.
Của em áo trắng, của ta dại khờ.

HƯƠNG XƯA

Một mùa phượng vĩ nào xưa,
mênh mang hương dịu dưới mưa chiều tà.
Ta thầm nhớ mái trường xa,
Thầy Cô bạn học đường hoa hạ tàn

THƯ PHAI

Trang thư dòng chữ mực màu.
Mùa pha trắng giấy, bụi nhàu vàng phai.
Lời xưa ý cũ ngắn dài.
Vẫn trong tâm thức dù ngày tháng trôi.

KHÔNG LỜI

Trường xưa đổi hiệu thay đời.
Bảng đen phấn trắng không lời biệt ly.
Bút nghiên một thuở xuân thì
Nay như bụi phủ đóa quì tàn phai.

La Gi, 1975
CÁT SỸ

TRƯỜNG ĐẠI HỌC VĂN KHOA

Tôi từ biển mặn, đồng ruộng xanh,
một trẻ chăn trâu lên tỉnh thành
dò dẫm tìm đường vào đại học,
Văn Khoa, Sư Phạm nơi Sài Thành.

Hòn Ngọc Viễn Đông, miền đất lành.
Phương Nam, đậu lại cánh chim xanh.
Văn minh Lúa Nước nền Âu Lạc.
Tiếp đón dân quê vào học hành..

Tôi như du tử phận mỏng manh,
vẫn theo nguyên lý sự vận hành,
Nhân Bản Dân Tộc và Khai Phóng,
mở tầm hiểu biết dưới trời xanh.

Ở nhờ ăn đậu sống âm thầm,
tự thân rèn luyện xa mê lầm,
kèm trẻ tư gia, dạy tư thục.
nương tựa vào người có thiện tâm.

Dân quê dân phố nghèo hay giàu,
tình làng nghĩa xóm động viên nhau,
giúp trẻ học hành đến thành đạt,
xây đời an lạc cho mai sau.

Sài Gòn,1965
CÁT SỸ

TRƯỜNG SỸ TẢI

Học đệ thất, một thời trường Sỹ Tải.
Dù khói sương cát bụi lấp lối về,
Mùa phượng vĩ nở buồn qua trí tưởng.
Thầy Cô xưa ẩn hiện trong giấc mê.

Thầy Kiêm giảng khởi đầu “Nhành lúa mới”,
Cùng chúng tôi nhìn lại góc quê hương.
Giặc càn quét đạn bom cày nát đất.
Dân đen về xuống mạ những đêm trường.

Cô Linh vẽ “Đường cây xanh” tít tắp.
Tuổi thơ tôi theo nét cọ về xa,
Thả mơ ước vào khung trời an tịnh.
Để xuân thu màu sắc tự phai nhoà.

Thầy Hiệu Trưởng chân tình ngày khai giảng:
”Cần thành tâm học hỏi để làm người.
Nhân bất học, tức thị, bất tri lý.
Học với thầy với bạn, học ở đời “.

Trường Sỹ Tải giúp tôi vào Đệ Thất,
Cho lòng tôi nhận ra nghĩa nhân văn.
Nơi thăm thẳm giữa muôn trùng thiện ác,
Lời Hiền Nhân như tiếng vọng vĩnh hằng.

CÁT SỸ

LỚP MỤC ĐỒNG

Chăn trâu thả láng thả bưng
giúp nhau học chữ ven rừng bên sông,
ê a từng tiếng vỡ lòng,
giữa đồng mông quạnh tịnh không học trò.

Que than thay bút trời cho.
làm bài tập viết trên mo cau rừng.
với con chữ đói, chữ sưng,
chữ gầy, chữ rách, chữ lừng lửng no.

Đôi dòng chữ chạm trang mo,
ghi vài mơ ước ấm no sau này.
Trên lưng trâu cặp, trâu bầy,
mơ sao được sống tháng ngày thư sinh ?

Hoa sen từ giữa bưng sình,
hương như thơm thảo trước bình minh xanh.
Mục đồng học lóm loanh quanh,
thầm mong quê mẹ an lành một mai.

CÁT SỸ

TRƯỜNG TẢN CƯ
[tưởng nhớ Thầy Hai Thắng]

Tản cư hạ gió thu mưa
Giữa vùng Sao Cháy lưa thưa xóm nhà.
Ngôi trường mở đến lớp ba
Vách cây mái lá, nắng hoa rơi đầy.

Dù Thầy đi lính đánh Tây,
Lời xưa Thầy dạy còn đây trong lòng
Vắng Thầy, trời đất mênh mông
Bạn bè lớp cũ chìm trong tháng ngày.

Đồi xanh lau lách cỏ cây
Thẳm sâu nỗi nhớ bóng ngày bé thơ.

CÁT SỸ

TRƯỜNG LÁNG GĂNG

Láng Găng về lại một ngày.
Trường làng lớp cũ vắng thầy cô xưa.
Đôi nhành dương liễu dưới mưa.
Trong tôi như thể đong đưa giọt buồn

Láng Găng,1959
CÁT SỸ

LỚP CŨ TRƯỜNG XƯA.

Giã từ lớp cũ trường xưa.
Giã từ đất mẹ nắng mưa bao ngày.
Giã từ đường phượng hoa bay.
Hương nhu thơm thảo tóc mây một thời.

Tản Cư, lớp học trên đồi,
trong rừng Sao Cháy, bên trời núi non.
I tờ chữ viết bé con,
đưa tôi lần bước dặm mòn bút nghiên.

Năm tư, rời khỏi bưng biền.
Lớp qua Láng Đá rừng thiêng Dinh Thầy.
Lớp theo trâu cặp trâu bầy.
Học hành giữa chốn cỏ cây ruộng đồng.

Lên thành, học lớp trường công.
Tú tài đại học hơn vòng thập niên.
Ra trường Sư phạm, chuyển miền
dạy Văn trung học Hà Tiên, miệt vườn.

Sau thời phiêu bạt tha phương,
hồi hương dạy học nơi trường Bình Tuy.
Vinh Tân Quảng Đức La Gi
giúp tôi tịnh dưỡng đạo nghì cha ông.

Rồi khi thống nhất non sông.
Cấp 3 Trung học Phổ thông thay dòng.
Từ trường Nguyễn Huệ Bán công,
về hưu tôi lại buồn lòng xa quê.

Thủ Đức, 2004
ĐOÀN THUẬN

* MÁI TRƯỜNG và TÔI *
____________________

NGHỈ HƯU

Như hoa nở lụn chuyện muôn phương,
Kẻ sỹ về hưu biệt mái trường.
Ngõ trước đôi khi rêu dại phủ,
Vườn sau lắm lúc cỏ hoang vương
Mai gầy ủ lộc chờ mưa nắng,
Trúc thẳng lên măng đón gió sương.
Phố cũ hè xưa đầy cát bụi
Buồn vui một thuở cõi vô thường.

Tân An,7/2003

NHỚ BẠN

Bên tách cà-phê ngồi một mình.
Vườn mai đợi nắng ấm bình minh.
Nghe chim khách hót trên cành trúc.
Nhớ tiếng cười vui thuở học sinh.
Gác trọ chiều mưa câu chuyện phiếm.
Đường hoa áo trắng mối tâm tình.
Ta nay tóc bạc còn lưu lạc,
Bạn khuất thầy xa núi lặng thinh.

Thủ Đức,2008
.

TỰ BẠCH

Khách lạ ngờ ta sống khác thường,
Về hưu lẳng lặng giữa quê hương.
Đôi lần khẩn thiết ra ngoài phố,
Suốt tháng an nhiên ở góc vườn.
Tạc tượng ghi sâu tình cố quận,
Trồng hoa ôn lại thú văn chương.
Thăng trầm cơm áo đầu mau bạc,
Chẳng bạc lòng son, chẳng khác thường.

Thảo Điền,2014
ĐOÀN THUẬN

TRƯỜNG TRUNG HỌC BÌNH TUY

Bao mùa lưu lạc chia ly,
tôi về Trung học Bình Tuy quê nhà.
Hàng dương liễu biếc thướt tha.
Đôi nhành phượng vĩ đỏ hoa học đường

Ngỡ như hương cũ còn vương.
Trường làng mái ngói, nền tường đá xanh.
Nhớ xưa mơ được học hành.
Nay cùng đồng nghiệp đồng hành đồng song.

Tha phương khốn khó long đong,
hồi hương sống lại thuở hồng hoa niên.
Thư sinh áo trắng hồn nhiên
giúp tôi ôn chuyện bút nghiên một thời.

Bao trang vở chép mộng đời
Đôi dòng phấn trắng kể lời tổ tông.
Với nền giáo dục Cộng đồng,
Nhân bản Dân tộc Lạc Hồng nghìn năm.

Bình Tuy trung học lặng thầm
đã từng gieo hạt ươm mầm trong tôi.

Bình Tuy, 1972
CÁT SỸ

TRƯỜNG TRUNG HỌC HÀ TIÊN.

Con đường Tô Châu rợp bóng dương,
bờ dậu cây xanh lẫn quỳnh hương,
đàn chim se sẻ trên mái ngói,
như đưa tôi đến một sân trường.

Cổng vào dưới tán cây phượng già.
Cuối hạ còn vương đôi đóa hoa,
đong đưa cuối nhành lá non biếc.
Làm nhớ trường xưa nơi quê nhà.

Quanh sân huệ trắng từng khóm dài,
như lặng yên nghe tiếng giảng bài
tiếng rơi bụi phấn bên bảng viết.
lời văn âm lạc ra hiên ngoài.

Thư sinh áo trắng chăm học hành
Nghiêng trên sách vở mái đầu xanh.
Ghi nhớ bao điều được giảng dạy.
Lặng tĩnh trầm tư về mộng lành.

Trung học Hà Tiên, tôi đến đây,
trong tình thân thiện của cô thầy,
với dòng văn chương Chiêu Anh Các
Hà Tiên Thập Cảnh thơ mộng này.

Hà Tiên,1969
CÁT SỸ

TỰ TRÀO

1.
Lỡ thầy lỡ thợ hay lần khân,
Lúc tỉnh khi say đâu một lần.
Dạy học quanh mùa không đủ chữ,
Phụ hồ đôi lúc chẳng nên thân.
Buồn tình tạc tượng chơi, vài bức,
Hứng chí làm thơ thử, mấy vần.
Ít bạn nhiều hoa giàu gió cát
Đi về quanh quẩn một vuông sân.
.
2.
Khổ cực chân quê xấu lạ thường.
Nửa đời bầm dập sống tha phương.
Chăn trâu kèm trẻ, thời niên thiếu.
Dạy học làm thuê, buổi thị trường.
Chẳng biết cúi luồn, nhiều kẻ ghét,
Không quen nịnh bợ, ít người thương,
May sao cũng có gia đình nhỏ,
Đỡ tủi thân quèn trước gió sương.

Tân An, !975
ĐOÀN THUẬN

TRƯỜNG  MẪU GIÁO TRÍ ANH

Xây một ngôi trường
cho con chúng ta.

Ngôi trường mẫu giáo,
đứng trong nắng mai,
đỏ tươi màu ngói,
Hướng nhìn tương lai.

Tưởng như ở đó,
có những cô thầy,
phấn trắng trong tay,
viết lên ước vọng
qua từng tháng ngày.

Như có ở đó,
bao giọt mồ hôi,
bạc vai áo thợ,
bay qua núi đồi,
thấm lên nương rẫy,
lắng vào biển khơi.

Và luôn ở đó,
có cô giáo trẻ,
như mẹ thân thương.
cùng đàn em bé,
hát vang sân trường.

Ngôi trường ngói đỏ
như nở nụ cười
giữa đời thắm tươi.
Ôi, Quê Hương ơi
xin dâng lên Người.

La Gi 1965
CÁT SỸ

TỰ THUẬT

Trọn một đời tôi dưới mái trường,
Bao mùa phượng thắm để tơ vương.
Thư sinh áo vải buồn xa Mẹ,
Giáo chức trường làng sống với lương.
Sách cổ dăm pho nghiền ngẫm ý,
Lan rừng mấy chậu tự nhiên hương.
Nhà xưa xóm cũ về nương náu.
Một tấc lòng quê trước gió sương.

CÁT SỸ

TRƯỜNG CHÂU VĂN TIẾP

Trường Châu Văn Tiếp tôi về thăm.
Bạn hữu thầy cô đã bặt tăm.
Mái ngói nghiêng rêu sầu mấy hạ.
Hành lang khuất dấu lạnh bao năm.
Con đường hoa mộng vào mê đắm.
Nếp áo thư sinh lấm bụi lầm.
Trong bóng phong sương mùa chuyển dịch.
Mưa thu từng giọt rơi âm thầm.

CÁT SỸ

TRƯỜNG BÌNH TUY

Năm bảy mươi hai có một thầy.
Hà Tiên nhiệm sở chuyển về đây.
Trường tư Quảng Đức kèm Cours tối.
Công lập Bình Tuy dạy lớp ngày.
Giữa chợ bon chen đều chẳng biết.
Ngoài đời khôn dại cũng không hay.
Ăn lương chính ngạch, ở nhà mướn.
Sách vở bút nghiên có đủ đầy.

Bình Tuy, 1972
CÁT SỸ

Nghĩ về
PHẬN ĐỒNG BÀO

1.
”Ăn cơm quốc gia”
”thờ ma cộng sản”.
”Khoác áo cách mạng”,
”theo Mác Lê Mao”.

2.
Nghĩ: “cơm áo” nào,
Đồng Bào cũng kiệt.
Lớp bị giặc giết,
Lớp triệt trong tù.

Lớp buộc phiêu du
mịt mù xứ lạ
ven trời lưu xá,
tàn tạ một đời.

Lớp buộc di dời
phải rời đất Tổ,
bỏ đồng xa phố,
khốn khổ đắng cay.

Lớp bị cướp ngày
đọa đày bóc lột,
vùi dập xương cốt,
mai một giống nòi.

3.
”Cơm áo” một thời.
Muôn đời Tổ Quốc.

Nay, lũ mất gốc
đưa Dân về đâu ?.

Hạnh Thông Tây, 2019.
ĐOÀN THUẬN

Thấy TRANG VIẾT
bên  sọt rác.

Ném vào sọt rác thơ tôi.
Người đâu biết được bao lời buồn vui.
*
Nghĩ thay trang viết ngậm ngùi.
Nằm chung rác rưởi bùi nhùi tanh hôi.
Trở thành giấy vụn đồ tồi.
Lấm lem nét bút, pha phôi sắc màu.

Lặng thinh con chữ bàu nhàu.
Cùng bao ý nghĩa lắng vào lãng quên.
Còn chăng như bụi không tên.
Vi vu theo gió, lênh đênh dưới trời.
*
Tự tôi ghi chú vài lời.
”Những điều nghe thấy”giữa đời đục trong.
Địa đàng, cõi tạm mênh mông.
Thơ thầm lưu lại đôi dòng thực hư.

Giấy, rời khỏi sọt, nát nhừ.
Thơ, quăng vào sọt, tựa thư nghẹn lời.
Nghĩ trong bóng tối im hơi:
Ai, người rẻ rúng “trang đời bễ dâu” ?

ĐOÀN THUẬN

Nghe SÁU DÂN nói
và nghĩ

1
Sinh thời ông Kiệt rất lo âu:
” Hối mại quyền lực đã bắt đầu”
“Tích lũy tư bản thời hoang dã”
”đẩy người lao động xuống vực sâu”.

2.
Nghĩ rằng: xã hội phân hoá nhanh
Giàu nghèo chênh lệch gấp trăm lần
Quan quyền chiếm lĩnh nguồn tư bản
Đặc quyền khai thác sức nhân dân.

Qui luật phát triễn đã từ lâu
Lực lượng sản xuất đứng hàng đầu
Nhân Dân là chủ của Đất Nước
Nước không lệ thuộc, dân mới giàu.

Dám nhận sai lầm và yếu kém
Chính là sức mạnh để vươn lên.
Thấy mình còn dốt là hiểu biết.
Độc tài bảo thủ không thể bền.

Vũng Tàu, 2008
ĐOÀN THUẬN

NGHE THẤY

NGHĨ

1.
Chúng tôi
tự ghi lại đôi điều nghe thấy trên đường đời
vội vã ghi sợ rằng cuộc sống vội vã trôi
sợ rằng bất trắc xảy ra cắt đứt dòng suy nghĩ
đành nguệch ngoạc đôi câu chưa kịp lựa lời.

2.
Những câu văn
không đầu đuôi như ký, không tình tự như thơ
khi con chữ tự nó không hiểu thấu nỗi đau nhức vật vờ
trang giấy tự nó không thấm dòng máu loang từ xác chết
nét bút tự nó đâu biết chấm phá điểm tô đôi giọt lệ khô.

Xin người đừng ném con chữ vào sọt rác
đừng biến trang viết thành giấy vệ sinh
lửa có thể đốt cháy tất cả trừ chân lý
lời thơ tự nó vô tội, tự nó cũng nuôi dưỡng một mối tình

3.
Lũ bạc ác
không thể buộc chúng tôi đừng nghĩ suy dù khoảnh khắc
khi chưa điểm sương, tóc xanh đã trắng như tơ
chưa kịp vàng thu, lá non đã úa khô rơi rụng
chưa kịp hoài thai, bao sinh linh đã qua đời lúc ban sơ..

không thể bịt mắt bất kỳ ai trước sự thật nhãn tiền
khi bạo ngược thản nhiên coi mạng người như món hàng
thản nhiên trước cái chết lửng lơ của dân đen nghèo khổ
thản nhiên tham ô mua bằng chạy chức chiếm đất vàng.

không thể bịt tai bất kỳ ai trước lời thủ thỉ thở than
lời lẽ mị đời chỉ ru ngủ chủ nghĩa lợi ích tham tàn
hãy trả lại người cần lao quyền gieo trồng sự sống
bởi muôn loài trên trái đất luôn ước mơ một cõi bình an.

Không thể ném những điều bên kia con chữ vào sọt rác.
Những điều không thuộc về riêng ai.
Đó là tiếng thở dài của người bần cùng khốn khổ,
là lời nguyện cầu được sống làm người.

ĐOÀN THUẬN

KHÔNG LÀ THƠ.

Tôi không viết sách làm thơ.
Chỉ ghi chú vội trên tờ giấy thô.
Đôi dòng nguệch ngoạc ngây ngô.
Về “điều nghe thấy” ngoài ô cửa trời.

Rất nhanh không kịp lựa lời.
Nghe sao thấy vậy tạm thời chép ghi.
Khi cần thêm thoáng nghĩ suy.
Chỉnh chu ngữ nghĩa, chọn thì, đặt câu.

Thường khi “bút ký “yêu cầu.
Nội dung ý tứ đuôi đầu phải thông.
Nhưng tình vương vấn trong lòng
Mong chia xẻ với cộng đồng buồn vui.

Đường đời muôn ngả ngược xuôi.
Người đi kẻ ở ngậm ngùi chia tay.
Rủi may, sướng khổ, dở hay
Sổ tay nhật ký”  lưu ngày gió sương.

Riêng tôi xa mẹ tha phương.
Bạn thân “lưu bút” mái trường ngày xanh.
Đồng song đồng nghiệp đồng hành.
Bút hoa “lưu niệm” mộng lành cho nhau.

Thời gian lặng lẽ trôi mau.
Một giây ghi nhớ, mai sau vẫn còn.
Trăm năm nước chảy đá mòn.
Tâm tình chân thật, sắt son trọn đời.

Không là thơ kẻ xu thời.
Chỉ là “Tùy Bút” ghi đời bể dâu.

CÁT SỸ

CON CHỮ

TÔI

Con chữ, ký hiệu ngôn ngữ, mang tên chữ cái rời,
cùng tôi rong ruổi qua cõi đời,
đôi khi nằm im trên trang giấy vô nghĩa,
đôi khi ghép nên câu trong đầu óc nhỏ nhoi tôi.

Chữ i tờ nguệch ngoạc ngang tuổi thơ nghèo đói,
vẽ ra vành trăng khuyết ước mơ lơ lửng ven trời,
ẩn hiện lờ mờ nơi trí tưởng,
một mái nhà yên, một lời ru bên nôi.

Con chữ dẫn dắt thời trai trẻ tôi qua khắp sân trường,
qua cảnh hoang vu rừng núi, nơi đô hội phố phường,
đánh thức cõi mộng hồn u mê tăm tối,
dò dẫm đường về chân lý dù đắng cay đau thương.

Con chữ lắng trong tôi, ngày xế bóng, những lời buồn,
trước bao kiếp người nô lệ lầm than,
khi bọn độc tài coi phận người như cỏ rác,
tước đoạt mọi ước mơ, quyền sống bình an .

Bạo chúa có thể đốt sách, treo cổ người viết,
nhưng không thể cầm tù ý nghĩ thoát thai từ cuộc đời,
từ lời thở than thầm thì nơi góc khuất lịch sử,
từ nỗi niềm riêng thân phận tôi.

CÁT SỸ

.                 ĐÔI LỜI TÂM SỰ.

.                Tôi tên là Trần văn Thuận, tự Cát Sỹ, hiệu Đoàn Thuận.
Sinh năm  Canh Thìn [1940 ] tại làng Tân Lý, La Gi, tỉnh Bình Thuận.
Giáo viên. [Nguyên Hiệu trưởng trường PTTH Nguyễn Huệ, La Gi].
Ngụ tại:    80/12/48A đường Dương Quảng Hàm,
Quân Gò Vắp. Tp. Hồ Chí Minh.
Đtdđ:       0907 497 529

.              Trong quá trình đi học và đi dạy, tôi có ghi lại đôi điếu “nghe thấy” trên đường đời,
trong 30 tập TÙY BÚT văn Vần [ như Thơ ] với nội dung:

1. MIỀN ĐẤT TRỌ:
*  Mùa bất biển. [nxb Văn Nghệ tp.HCM,1994]
* La Gi ngàn xanh. [nxb Trẻ,2001]
* Mái xưa.[nxb Văn Học, 2013]
* Sài Gòn và tôi. [in vi tính,2014]

2. DU TỬ:
* Rong chơi cùng cát bụi. [nxb Văn Học,2012]
* Dưới bóng mây.[in vi tính,2012]

3. VĂN HÓA, GIÁO DỤC:
* Sắc phượng. [Hội VHNT Bình Thuận, 2006]
* Mùa trọ học. [in vi tính.2020]
* Búp sen.[in vi tính, 2014]
* Những điều nghe thấy. [in vi tính]
* Con chữ và tôi. [in vi tính, 2014]

4. QUAN HỆ XÃ HỘI:
* Lời chiều. [nxb Trẻ,1996]
* Tạ ơn đời. [nxb Văn Học, 2013]
* Lửa đầu non  [nxb Trẻ,1999 ]
* Lửa đêm mưa. [nxb Trẻ, 1998]
* Mùa thạch thảo.[nxb Văn Học, 2013]
* Dưới hoa.[nxb Văn Học, 2013]
* Khoảng lặng của hoa. [nxb Trẻ 2003].
* Đời sậy. [nxb Trẻ, 2003]
* Tượng   [nxb Trẻ 2002]
* Dấu xưa.  [in vi tính, 2014]
* Giọt mùa. [in vi tính, 2014]
* Mây mưa. [in vi tính, 2014]

5.THẾ SỰ:
* Đất và Người. [nxb Thanh Niên, 2013]
* Tiếng dội từ Đất. [in vi tính, 2018]
* Họa hủy diệt. [in vi tính, 2018]
* Nghe thấy và nghĩ. [in vi tính,2022]

6. THƠ DỊCH:
* Đường thi. [nxb Văn Học, 2012]
* Thơ thiền Vương Duy. [nxb Thời Đai. 2014]

7.TẠP BÚT CÁT SỸ. [bị tịch thu vào tháng 4 năm 1975]
*  Đất trọ. [trên 2.000 trang bản thảo]
*  Không ngày tháng. [trên 3.000 trang bản thảo]
*  Sậy dại trước gió mùa.[in vi tính, 2015].

.            Phần lớn nội dung trên gắn liền với đời tôi, một du tử xa Mẹ xa quê từ thuở bé thơ và đã trôi nổi qua ba thời kỳ lịch sử của quê hương: Thời chạy giặc tản cư sau 1945, thời đình chiến chia đôi đất nước sau 1954, thời giải phóng Miền Nam sau 1975. Từ đó, một số người dựa lưng vào chế độ chính trị, nhìn những trang “Tùy Bút hiện thực” theo hướng phê phán kết tội người viết, dù “Tùy Bút” chỉ ghi lại đôi điều “hiện thực” giữa cuộc sống biến đổi thăng trầm.

.           Tháng Tư năm 1975, Ban Quân Quản tịch thu toàn bộ sách báo, trong đó có 5 tập Tạp Bút Cát Sỹ.
.           Năm 1993, báo Bình Thuận  lấy câu “Đã mấy năm xa Sài Gòn ơi.”để khép tôi vào tội “ mơ tưởng đến Sài Gòn, thủ đô của chế độ Mỹ Ngụy” và tôi bị đình chỉ công tác. Sau đó, một người ở báo Tuổi Trẻ về Bình Thuận trình một trang lưu bút viết tay, ký tên “Trần Thuận, năm 1972”. Sài Gòn 1972 là Sài Gòn. Nhờ thế, mọi việc được sáng tỏ, tôi vô tội.
.           Năm 2008, khi về Thủ Đức nghỉ hưu, tôi trực tiếp đến Văn phòng Hội Văn Học Nghệ Thuật Tp.Hồ Chí Minh để trình “Giấy Giới Thiệu” của ông Đỗ Kim Ngư, chủ tịch Hội VHNT Bình Thuận, cùng với 7 tập sách có giấy phép xuất bản [trong đó, tập Mùa Bấc Biển được Giải Dục Thanh lần 1]. Đến nay đã gần 20 năm, tôi không “nghe thấy” một lời nào của Hội, dù một lời chê trách. Có lẽ vì thế, sách của tôi không có trong bất kỳ tiệm sách nào và tôi chỉ in bằng vi tính với số lượng hạn chế, lưu hành trong thân hữu.
.            Năm 2010, quí Thầy Cô trước 1975 mở Blog ĐOÀN THUẬN trên WordPress
[https://doanthuan.wordpress.com]  để lưu những trang Tùy Bút của CÁT SỸ.

.            Cuối đời, tôi tự tậm sự với chính mình và với “con chữ”, nơi góc khuất của cát bụi.

.           Gò Vắp, tháng 12 năm 2023
.           Cát Sỹ ĐOÀN THUẬN.

*

ĐÔI DÒNG THẾ SỰ

Ghi về thế sự đôi dòng.
Dám đâu mong muốn bạn lòng cùng xem.

Dù từng thao thức bao đêm.
Nghe sương nhỏ giọt ngoài thềm rêu phong.
Tưởng như ai đó long đong.
Bên trời phiêu lãng buồn lòng lệ rơi.

Ai còn ở trọ góc đời.
Cô đơn trước cảnh ma hời nỉ non.
Kẻ ham vui thú vàng son.
Người lo kiệt sức héo mòn xác thân.

Tôi hanh khô tóc đầu trần.
Mưa rơi ướt đẫm gót chân bùn lầy.
Điếng lòng khi gió thu bay.
Lặng câm nhìn bụi phủ dày trang thơ.

Xa rồi thuở nọ i tờ
Thời này sóng mạng vỗ bờ thinh không.

ĐOÀN THUẬN.

CHIỀU YÊN

Trời chiều thắp lửa trên non.
Người đi khuất nẻo trăng còn xa mơ.
Ta qua cồn cát đợi chờ.
Khúc Nghê Thường lắng xuống bờ thinh không.

Phút giây nào giữa mênh mông.
Em và ta, một tấc lòng nhân duyên.
Đưa nhau về bến hồn nhiên.
Đóa hoa núi cũ tỏa triền miên hương.

Dìu nhau qua lớp bụi đường.
Qua màn mây khói gió sương lạnh lùng.
Chung tay từng bước thung dung.
Đi về đất trọ vui cùng cỏ cây.

Tịnh yên bến nọ bờ này.
Nương theo phận mòng, theo ngày tháng trôi…

CÕI YÊN HÀN

Xa đâu vương sợi tơ trời
Âm xưa lắng một dòng trôi vào chiều.

Thềm ngoài mưa đọng xanh rêu.
Em co ro bóng ngồi khêu bếp tàn
Nhen lên trong cõi yên hàn
Thoảng hương tóc cũ bàng hoàng trong nhau.

CÁT SỸ

CHIỀU MUỘN

Ta ngồi đốt điếu thuốc Mai.
Ngoài kia chiều muộn đã phai nắng rồi.

Bão xa thổi lạnh qua đồi.
Những con chim nhỏ đã thôi gọi bầy.
Mênh mang một ánh lửa chài
Ru con sông ngủ giấc dài về khơi.

Ta còn em giữa cuộc đời.
Em còn ta nợ một lời ước xưa.
Đi về trong cõi nắng mưa.
Che nhau dưới bóng bụi thừa mênh mông.
Sẻ chia giây phút buồn lòng.
Buông tha sân hận bềnh bồng theo mây.

Chiều quê ta lại về đây.
Âm thầm tưởng nhớ tháng ngày trẻ con.
Dại khờ mơ mộng vuông tròn.
Bên bờ tăm tối mỏi mòn thâm sâu.
Bao lần lặng lẽ u sầu
Sương như pha bạc mái đầu thanh xuân.

Tự ta nghĩ ngợi bâng khuâng.
Ta còn mắc nợ bội phần đời ta.

CÁT SỸ

CHIỀU TRÊN ĐỒI

Ta về gom nhớ bao đông
Ngựa buông cương mỏi hồn trong bóng chiều.
Lũng đầy mây khói tịch liêu.
Đời phiêu lãng đã hắt hiu tình buồn.

Mấy mùa thu, mấy dư hương.
Đêm hôn mê cũng lạnh phương trời người.
Lửa chiều, điếu thuốc trên môi.
Ta nghêu ngao hát giữa đồi mây bay.

Lời nào ru nhẹ cỏ cây.
Tóc tiên hương muộn lắt lay trong hồn.
Nụ hoa hàm tiếu môi hôn.
Buông trôi nhụy phấn qua cồn đảo xa.

Nay nơi đất tổ quê cha.
Thầy cô bạn hữu đã xa lắt rồi.
Một mình ngồi dựa lưng đồi.
Ta, một du tử, lại hồi hương đây.

CÁT SỸ

NHẠC CHIỀU

Như rơi trong một thoáng hương.
Trong hoa tàn, một thoáng buồn chiều phai.
Nghe trong bóng liễu dặm dài.
Giọt âm thanh đọng quan hoài cung xưa.

Ta ngồi tựa gối hiên mưa.
Nghĩ trong thinh lặng ngày chưa qua đời.
Nghiêng hồn lắng giọt chiều rơi.
Khúc ly biệt ấy không lời còn đây.

Khúc nôi vào áng mây bay.
Cho sương mờ ảo chiều lay lắt chiều.
Cung đường lẻ mọn đìu hiu.
Thoáng như xa hút tiếng tiêu mơ màng.

Hoa quì sen ngó ngày tàn.
Đong đưa nhụy phấn dịu dàng êm ru.
Điệu đàn câu hát vàng thu.
Chìm trong ký ức mịt mù nhớ quên.

CÁT SỸ

GA CHIỀU

Sương bay nghiêng phố ga chiều
tàu xuôi bỏ dại bóng xiêu bước về
một bờ hoang đá xanh khe
âm u tiếng gõ kiến nghe cuối rừng.

Dã quì vàng suốt mấy thung
người xa buổi nọ chập chùng bao thu
trả cho người phố sương mù
trả cho ta buổi nắng thu mấy trời.
Nỗi buồn ru đến chơi vơi
lặng trong tình cũ một đời xót xa.

Dường như người tiễn đưa ta
về miền đất cũ nhặt hoa phố phường
nụ cười lẫn khuất trong sương
áo bay trắng cuối dặm đường cỏ lau.

Hương mùa thu muộn phai mau
thản nhiên thềm gạch biếc màu rêu phong
tháng ngày tuột xuống mênh mông
bên bờ chiều tạnh tịnh không dấu người.

ĐOÀN THUẬN

CHIỀU Ở HỒ NÚI ĐẤT

Dù mai đi khắp muôn nơi
sẽ không quên bóng trăng soi lòng hồ
không quên tiếng sóng ru bờ
chùm phong lan nở bất ngờ vào xuân.

Hoa dầu từng cánh bâng khuâng
để bằng lăng tím bao lần vương hương
con chim về hót cuối truông
núi Tà Cú khuất trong sương mờ dần.
khói lam chiều ngảnh Tam Tân
vương vương sợi nhớ theo tầng mây xa.

Một dòng xanh, đôi bờ hoa
đem hương rừng vắng về qua đất chờ
đem vào ta cả hồn thơ
để ta làm sóng ru bờ quê hương.

Núi Đất,1993.
ĐOÀN THUẬN

CHIỀU ĐÀ LẠT

Ngồi trong quán đợi chiều về.
Phút giây theo giọt cà phê phin đường.
Đà Lạt phố chở đầy sương.
Chợt tiếng chim lạ rơi buồn dưới thung.

Dốc mờ đường cỏ non nhung.
Nỗi tôi mắt đỏ chờ lung linh đèn.
Chín chiều một mái tóc quen.
Tôi thu tôi lại để chèn thêm đau.

Tím chiều từ nọ về sau.

TRONG QUÁN CHIỀU

Ngoài kia từng chuyến xe qua.
Tiếng chuông chùa núi ngẫm ra mơ hồ.
Ngồi buồn ngắm ngón tay thô.
Lanh canh ly đá nghe khô khốc chiều.

TIỄN CHIỀU

Người men theo lối thu đi,
Phấn thông vàng phủ thầm thì không gian.
Ta quay về ngã đông sang,
Khuyết vầng trăng biển, lạnh ngàn non xa.

Đà Lạt,1966
CAT SỸ

CHIỀU TÔ CHÂU

Dừng chân phố thị bên cầu.
Bờ cây bến đá quánh màu gió sương.
Ô đèn thắp bóng con đường.
Mấy ngôi nhà cổ, mấy tường rêu phong.

Dừng chân phố thị bên sông.
Lửa thuyền đêm lạnh giữa mông mênh mùa.
Tiếng người khuất dưới lau thưa.
Ngờ như lời cổ thi vừa bay qua.

CHIỀU TÂN LÝ

Nghe trong luống cải nương chiều,
Thoảng hương đất mới giữa hiu quạnh mùa.
Thoáng buồn sắc tím hoa mua,
Thoáng xa lắc tiếng chuông chùa núi xa

TỊCH LIÊU

Ta ra kênh ngắm mây trời.
Hoa lục bình tím như trôi chậm chiều.
Trong vô cùng cõi tịch liêu.
Nghe tan vỡ mộng mùa phiêu du rồi.

CÁT SỸ

CHIỀU TRÊN BIỂN

Sóng đưa thuyền thúng bãi ngang.
Hoa kim đùa cát mặn vàng bờ xa.
Áo người đùa nắng chiều tà.
Để buồn đùa giữa hồn ta một thời.

CHIỀU Ở NGẢNH

Bấc về làm nhớ tháng giêng.
Bãi xa con sóng vỗ nghiêng mặt ghềnh.
Lũ còng đâu biết nhớ quên.
Thản nhiên xe cát giữa mênh mông trời.

CHIỀU XUÂN Ở NÚI

Xuân về ta lại gặp ta.
Rong chơi núi cũ chờ hoa nở vàng.
Sắc màu nhoà giữa sương tan.
Để thiêm thiếp nhớ một làn hương bay.

CHIỀU THU PHAI

Làn mưa lành lạnh trong chiều.
Rơi rơi dìu dịu đìu hiu hiên ngoài.
Vương buồn một thoáng thu phai.
Thầm nghe như giọt lệ dài mùa xưa.

HƯ ẢO CHIỀU

Sắc trời thu đã sang mùa.
Mong manh nét gió lạnh lùa qua truông.
Núi mờ ảo giữa hồi chuông.
Người hư ảo giữa chiều buồn bên song

CÁT SỸ

CHIỀU

Bóng lau mờ khuất đường hoa.
Chiều yên phố núi sương là đà rơi.
Dòng sông trôi mãi không lời.
Đàn chim di rét đã vời vợi bay.

CHIỀU PHAI

Chiều phai nắng, lạnh dòng sông
Con thuyền gác mái bềnh bồng nhẹ trôi.
Đàn chim về tổ qua đồi.
Sao mờ tịnh lắng khúc nôi niệm trầm.

CHIỀU MỜ

Sau mưa liễu rủ lơ thơ.
Chiều phai nắng nhạt sương mơ bốn bề.
Gió lùa ngọn lúa đồng quê.
Con thuyền gác mái bến mê mơ màng.

CHIẾU TỐI

Ta bâng khuâng giữa nhịp chiều.
Sắc màu quánh lại nghe đìu hiu thêm.
Giọt trăng vừa rụng ngang thềm.
Như tan loãng bóng rêu đêm lạnh đầy.

KHI CHƯA HOÀNG HÔN

Chưa hoàng hôn đã trăng lên.
Chưa nhớ chi mấy đã quên lãng nhiều.
Chưa hoa, hương đã về chiều.
Chưa xa, đã thấy đìu hiu lối về/

Sài Gòn, 1964
CÁT SỸ

LỜI CHIỀU

Lâu rồi sông nước ru mây.
Và Mẹ ru bóng tháng ngày gió sương.
Ta ru hoa cỏ về nguồn.
Ai ru chiều một khúc buồn vào thơ.

.

RU CHIỀU

Ở đâu lục bát nhớ người.
Lắt lay khúc hát à ơi ru chiều.
Ru ta vào cõi quạnh hiu.
Ru hương tóc cũ ít nhiều vắng xa.

RU ĐÊM

Ở đâu lục bát ru đêm.
À ơi, một bóng trăng thềm đong đưa.
Ru ai tình lặng vào xưa.
Ru sương đêm giọt lưa thưa hiên ngoài.

RU CON

Sông xa ru giấc mộng đầy.
Và đêm lạnh thả sương bay về trời.
Con ơi, hãy ngủ đi thôi.
Xin người đừng để buồn trôi theo lời.

BÊN KIA LỜI RU

Sương ru hoa hạt long lanh.
Biển ru thuyền sóng chòng chành về khơi.
Người ru nhau một đôi lời,
Tháng năm ru cát bụi dời về đâu.

Sài Gòn, 1969
CÁT SỸ

Thầy NGUYỄN ĐỨC HIẾU

“Đọc LỜI CHIỀU”
. . . . Đọc cuốn Lời Chiều, lão phu thấy mình đang nâng niu trái tim
của một người học trò cũ. Trái tim có điện mạnh đã làm cho quả tim
của già này rung động nhẹ nhàng nhưng thấm thía. Thế mới biết câu
nói của người xưa “Le coeur n’a pas  de ride”(trái tim không có vết nhăn)
rất đúng. Nhưng cũng nên rung động tùy từng trường hợp, tùy từng vẻ đẹp.
Tim già này không dễ gì rung động bừa bãi. Ấy thế mà bị rung động rất
nhiều về bài “Chiều xuân ở núi”:                             

Xuân về ta lại gặp ta.                         
Rong chơi núi cũ chờ hoa nở vàng.              
Sắc màu nhoà giữa sương tan.               

Để thiêm thiếp nhớ một làn hương bay.

     “Để thiêm thiếp nhớ một làn hương bay”. Câu thơ tế nhị và trong sáng.
Tim của Đoàn Thuận có thể là viên ngọc vừa phát sáng vừa phát âm thanh
để “ru đời tròn giấc chiêm bao, chắt chiutừng hạt ngọt ngào về mai.”
Có những tình cảm này thì có thể không bao giờ bị đào luyện, bị chuyển hoá
hay bị mê hoặc thành người độc ác, thâm hiểm, gian dối được.

Mong rằng những tình cảm này sẽ vươn lên, vươn lên nữa, rộng nữa,
rộng nữa để thành nhất phiến, thành một khối tình không có tuổi, không sợ
rụng” như “cánh phượng“, không sợ “tàn” như “nụ tầm xuân”, không thu hẹp
giữa “anh  và em” mà vươn cao, mở rộng, bao hàm và vượt cả không gian
lẫn thì gian, che phủ tất cả, yêu mến tất cả những vẻ đẹp trong sáng,
ôm ấp, nâng niu  những tâm hồn quang minh, vượt cả thiện lẫn ác . . . . . .

Sacramento,6 tháng 5 năm 1997.
Bảo Nhất NGUYỄN ĐỨC HIẾU

BÊN CỔNG TRƯỜNG CŨ

Tôi về trường cũ một lần.
Dưới mưa trước cổng ngại ngần hỏi thăm.

Nghe người bảo vệ lầm bầm.
”Ông nào lạ lẫm xa xăm đến trường”.
Tôi như kẻ lạ lạc đường.
Dừng chân bên cột vách tường đụt mưa.

Thầy cô đồng nghiệp bạn xưa.
Sân trường bụi phấn mấy mùa luân lưu.
Ai còn dạy, ai về hưu.
Yên vui, bất hạnh, thực hư thế nào ?

Đàn em cắp sách ngày nao.
Người đi kẻ ở ra sao giữa đời ?
Trước bao hoàn cảnh đổi dời,
Thầm mong người cũ một thời bình an.

Giã từ đất mẹ trường làng.
Cuối đời tôi lại lang thang xứ người

Đoàn Thuận

HẠ CUỐI

Khi ngày hạ đã cuối mùa.
Đường về xóm học chợt thưa bóng người.
Ánh đèn trọ tắt đêm vui.
Mấy khung cửa khép, tiếng cười lặng yên.

Hoa tàn hoa nở một miền.
Ai quên ai nhớ bao phiền muộn kia.
Bờ vui bến lạ đã chia.
Người về xa khuất, người khuya khoắt buồn

La Gi, 1975

BÓNG ÁO DÀI

Nữ sinh cặp sách áo dài
Vì đâu khuất bóng đường ngoài trường xưa ?
Nhớ thời đi học sớm trưa.
Áo em trắng lắng hương thừa tóc mây.

La Gi, 1975

KHÔNG LỜI

Trường xưa đổi hiệu thay đời.
Bảng đen phấn trắng không lời biệt ly.
Bút nghiên một thuở xuân thì
Nay như bụi phủ đóa quì tàn phai.

La Gi, 1975
CÁT SỸ

TƯỞNG NHỚ
TRƯỜNG XƯA

Cuối đời vẫn nhớ trường xưa,
Dù bao sương gió nắng mưa dập vùi.
Trong tôi thầm lặng ngậm ngùi.
Thầy Cô còn mất ngược xuôi thế nào.

Bao điều giảng dạy ngày nao,
như lời khuyên nhủ ngọt ngào khó quên,
giúp tôi từng bước vững bền,
vượt qua tăm tối gập ghềnh xót xa.

Nguyên lý giáo dục quốc gia.
”Nhân bản Dân tộc” luận ra ngọn nguồn.
Tầm nhìn “khai phóng” muôn phương.
Nhân văn khoa học lưu hương cõi người.

Học Văn một, Học Lễ mười.
Tình làng nghĩa xóm xây tươi “vườn đời”.
Người học chữ nghĩa đạo trời
nhận ra tiếng nói xu thời điêu ngoa.

Nền giáo dục một thời qua,
tạo người Nhân Đức,Tài hoa cho đời.

Thảo Điền, 2014
ĐOÀN THUẬN

THẦY TÔI
Tưởng niệm thầy Nguyễn Đức Hiếu.

Cây bàng xanh nghiêng trong chiều xuân.
Về thăm trường xưa lòng bâng khuâng.
Gót giầy trên những thềm rêu đá,
Như bước thời gian về rất gần.

Lời thầy xưa nghe như trong mơ.
Bao mùa êm đềm như lời thơ.
Mái đầu tóc trắng trên trang viết,
trên những trang đời của em thơ.

Thầy ngồi bên song trong bao đêm.
Sương khuya giăng giăng mờ ánh đèn.
Tưởng thầy như chẳng bao giờ ngủ.
Bài soạn từng ngày ngổn ngang thêm.

Đôi khi thầy buồn và âm thầm.
Thầy như người về từ trăm năm.
Ưu tư hằn nếp trên vầng trán.
Sách vở bút nghiên hồn xa xăm.

Luôn luôn thầy hiền như cha tôi.
Trang nghiêm thầy khuyên răn từng lời.
Chăm lo từng đứa học trò nhỏ,
cả người ra trường đi muôn nơi.

Cây bàng nghiêng che chiều êm trôi.
Trường xưa con về, thầy đi rồi.
Nửa đời theo gió sương cát bụi,
vẫn tưởng còn như đứa trẻ thôi.

CÁT SỸ

CÔ TÔI
kính tặng cô Lê thị Bích,
cô Khưu Sỹ Huệ

Một mùa học nữa lại đi qua
Vẫn đứng thản nhiên cây phượng già
Đâu biết trong tôi bao thương nhớ
Cô của tôi xưa bao ngày xa.

Vẫn nhớ ngày nao thuở ấu thơ.
Câu chữ đầu đời lời ngây ngô.
Ngọng nghịu đánh vần tên đất nước.
Nắn nót từng dòng theo tay cô.

Tôi được lớn khôn giữa đất trời,
nhờ dòng sữa Mẹ ru bên nôi.
Cô dắt dìu đi từng bước nhỏ,
từ lớp học xưa vào cuộc đời.

Năm tháng dần qua như cát bay.
Còn nguyên nỗi nhớ một phương này.
Cô như người Mẹ thời bé bỏng.
Nuôi lớn hồn tôi đến hôm nay.

 Mỹ Tho, 1972
CÁT SỸ

CÕI PHƯỢNG

Ai về lối mơ hoa.
Tóc xanh áo vải vui đèn sách,
Một thuở đầu đời xa.

La Gi,1972

TRƯỜNG HUỲNH
tưởng nghĩ về Chu Văn An

Áo nâu am cỏ Đình Văn cũ
Nhất hồ thế giới bất tri thu”
Trường Huỳnh nặng nỗi đau nhân thế
Một án thư treo vách sương mù.

Sài Gòn 1964

NGƯỜI GIEO HẠT
kính tặng thầy Giản Chi

Ở nơi ấy có người hẹn đến
Gọi chim về gieo hạt lũng xa
Những trang sách thơm lừng hương cỏ
Và lời chiều thiếp ngủ trong hoa.

Sài Gòn, 1969

GHI NHỚ

Xưa mái trường thôn dưới chân đồi.
Giữa miền hoang thảo dòng sông trôi.
Lời cô thầy thấm trong nghĩa chữ.
Một thuở hồn nhiên lay lắt tôi.

Sài Gòn, 1964

TẠ ƠN THẦY CÔ

Con đến sau mùa hoa.
Ngát đòng hương nhớ Người Gieo Hạt.
Núi tạc lời sông xa.

Sài Gòn, 1964
CÁT SỸ

VIÊN SỎI
CON ỐC
và TÔI

Nơi tôi ngồi chiều trôi rất chậm
viên sỏi nằm lạnh buốt giấc mơ rêu
một con ốc bò ngang viên gạch vỡ
vẽ dấu chân vào vạch tối quạnh hiu.

Xóm tôi ngụ mới về, người lạ lẫm
viên sỏi nhìn dường như thấy đâu quen
đời nhẵn bóng bao sắc màu năm tháng
đường mồ côi lăn lóc nỗi gập ghềnh.

Con ốc sên cuộn chiều vào chiếc vỏ
bỏ lại tôi một khoảng trống lặng câm
không đủ quên đôi mắt sâu hoài niệm
giọt lệ người thấm lạnh suốt trăm năm.

Từ xa khuất lạc về chiếc lá úa
sắc vàng thu một thoáng theo chiều rơi
dù cây phố Sài Gòn xanh cuối hạ
để tôi buồn nhớ bạn cuối phương trời.

Thảo Điền, 2012
ĐOÀN THUẬN

CUỘI và TÔI

Nhặt tình cờ viên cuội nằm quên nơi hốc núi.
Chợt nghĩ cuộc đời nào trầm luân qua bể dâu,
đã bào mòn thân phận đất đai từ ban sơ tịch mịch,
tròn lẵn thời gian nhẵn bóng sắc màu.

Ném bâng quơ viên cuội vào thung lũng hoa dại,
Ngờ rằng cuội nhận ra cuộc dạo chơi của làn hương,
đã thoát thai từ niềm đau mang bóng hình đá cuội,
tự thảo thơm cùng ngàn hoa theo gió sương.

Nhớ mơ hồ khuôn mặt cuội mồ côi lăn lóc ngang đời.
Tưởng chừng hạt buồn của thiên thu đã rụng rơi.
Hương hồn của loài hoa tàn phai muôn năm cũ.
Và dường như nơi cõi lòng ta giọt lệ khô bồi hồi.

ĐOÀN THUẬN

CHẾT LÂM SÀNG
MỘT VIÊN CUỘI

Đốt điếu thuốc vào cuối chiều đông tận,
chẳng để quên để nhớ nỗi phiêu bồng,
trước viên cuội kẹt giữa khe tường nứt,
nơi gốc đời tịch mịch như tĩnh không.

Đốm sáng nhỏ lụi dần bên bếp củi.
Lửa phân ly sợi khói và tàn tro.
Thoáng ấm lạnh giữ được đâu điều biến dịch.
Hạt bụi nào sớm muộn cũng hư vô.

Khói mỏng manh nhập thể cùng mây nước
Làn nhạt xanh tan loãng vào quạnh hiu.
Cuội tròn lẵn im hơi trong mưa lũ.
Hoá kiếp thân luân lạc cõi tiêu điều..

Tro rơi nhẹ lả lơi trên mô cát
Màu bạc phai xám phẳng phủ chân rêu.
Gió tàn bạo quét mòn hồn đá cuội.
Ghiều dần trôi xui đốm thuốc tàn theo.

Cơn địa chấn chuyển rung đời mộng mị.
Bức tường cao trên nền đất bụi phơi,
đổ bóng tối điêu tàn xuống vạn hữu.
Chết lâm sàng một viên cuội bên trời.

Thủ Đức, 2012
ĐOÀN THUẬN.

NHƯ VIÊN CUỘI

Tôi theo hạt bụi vào đời.
Đã như viên cuội một thời trẻ thơ.
Giật mình giữa những đêm mơ.
Sóng yên nhiên vỗ suốt bờ dâu xanh..
.

VIÊN CUỘI NHỎ

Viên cuội nhỏ rong chơi nơi đồng nội,
qua con đường bùn đất quanh co,
nghe rơm rạ vương mang mùi cỏ dại,
lẫn hương đồng và sen biếc hồ.

Từ xa lắc cuội tròn không tên tuổi,
cõi mịt mùng vạn hữu như trống trơn,
đã hoá kiếp qua muôn trùng cát bụi,
lăn bên đời nhẵn bóng nỗi cô đơn.

Đã có lúc, ngụ hờ ven suối trong,
nhận núi rừng làm mái nhà chung,
cùng chim lạ muôn xa về xây tổ,
để ru hoài hoang vắng đến mênh mông.

CÁT SỸ

BÊN TRỜI
MỘT VIÊN CUỘI

Con đom đóm vào cuối chiều đông tận,
không đủ soi để thấu nỗi phiêu bồng,
trước viên cuội nằm giữa khe tường nứt,
nơi góc đời tịch mịch như tĩnh không.

Bếp củi nhỏ mờ dần từng tia sáng.
Lửa phân ly sợi khói và tàn tro.
Thoáng ấm lạnh giữ đâu điều biến dịch.
Hạt bụi nào sớm muộn cũng hư vô.

Khói mỏng manh nhập thể cùng mây nước
Làn nhạt xanh tan loãng vào quạnh hiu
Cuội tròn lẵn im hơi trong mưa lũ
Hoá kiếp thân luân lạc cõi tiêu điều.

Tro bay nhẹ lả lơi trên mô cát.
Màu bạc phai xám phẳng phủ chân rêu.
Gió tàn bạo quét mòn hồn đá cuội
Chiều dần trôi xui đốm lửa tàn theo.

Cơn địa chấn chuyển rung đời mộng mị
Bức tường cao trên nền đất bụi phơi,
Đổ bóng tối điêu tàn xuống vạn hữu.
Vết lăn trầm một viên cuội bên trời.

CÁT SỸ

BỤI và TÔI

1.
Cuộc đời hồng hoang đa đoan từ cát bụi
trôi qua bể dâu trầm luân muôn kiếp
mông lung lối đi về
vương buồn ngang tóc mẹ
huyễn hoặc bờ bến mê.

2.
Ta bà lang thang biết đâu ta như bụi
một hạt bụi không tên không số không màu
đất trời bỏ quên đã lâu
thế nên cỏ cây và sỏi đá và bọ sâu
cã và loài người không hay biết
một hạt bụi quên.

Bụi lầm đôi khi âm thầm dưới bụi
hồn nhiên buồn vui giữa cõi người
hồn nhiên theo gió thổi
rong chơi ven đường lấm lem rã rời.
muôn bàn chân giẫm đạp
bẹp dí trong bùn lầy cùng rác rưởi tanh hôi
khi con người thản nhiên đùa chơi
gào thét tung hô thoá mạ
một thứ văn hoá nhân danh chủ thuyết mị đời…

Dĩ nhiên bụi tôi có quyền ước mơ
kết dính đời mình vào nụ hoa hàm tiếu
cùng làn hương thanh khiết ban sơ
của một loài hoa không thơm lừng tên tuổi
của một mùa hoa không lệ thuộc nắng mưa
một loài hoa như nhiên giữa vạn mùa
dù trong khoảnh khắc sẽ nhạt phai hương sắc
bụi phấn rơi lạnh lùng trên ngàn hoa
và hương cũ chỉ còn hương bụi….

3.
Biết đâu, bụi cùng hoa theo đường dài
xin lá úa đừng rơi lệ
bởi ngàn năm khi hạt bụi qua đời
đã hoá kiếp một tấc lòng tuổi đá.

CÁT SỸ

HẠT BỤI KHE TƯỜNG.

Âm thầm hạt bụi không tên.
Kẹt khe tường nứt dậu phên tiêu điều.
Số phần bụi bậm hẩm hiu.
Gió đưa gió đẩy bao chiều lang thang.

Điêu tàn đền cổ chùa hoang.
Vô tư để ngọn gió ngàn thổi qua.
Bụi nương theo tựa tường nhà.
Vách rêu mái cỏ hiên hoa khe hờ.

Trăng pha nhạt bóng sương mơ.
Hương trời thơm thoảng lặng lờ thinh không.
Trên cao mây trắng bềnh bồng.
Dưới thềm đá cuội bám rong qua ngày.

Mùa trôi vạn hữu vần xoay.
Trầm luân cát đất bùn lầy du miên.
Khe tường như một cửa thiền.
Bụi về cõi bụi nằm yên dưới trời.

Giã từ một thuở chơi vơi
Phong sương xua dạt bụi đời phiêu diêu.
Nay bên kẽ nứt quạnh hiu.
Dường như phận bụi ít nhiều an nhiên.

CÁT SỸ

BỤI BẬM RÊU KHÔ

Mái rêu ngói cổ mưa dầm.
Thanh âm nhã nhạc điệu trầm cung mây.
Lăng tăng trên lớp đất dầy.
Dăm ba hạt bụi nước xoay đục ngầu.

Giã từ kẽ nứt khe sâu
Bụi lầm trôi dạt về đâu, mơ hồ.
Giã từ cụm nhỏ rêu khô,
Nơi từng bụi bậm sống nhờ bao thu.

Mưa xa sấm vọng âm u.
Rêu hoang thức giấc giữa mù mịt khuya.
Đâu hay rêu bụi chia lìa.
Lệ trời ướt lạnh đầm đìa tuôn rơi.

Bụi mờ về chốn xa khơi.
Rêu non ở lại bên đời gió sương.

CÁT SỸ

BỤI NÂU

Bằng bóng mùa xưa
một lần ngó xuống,
tôi với thẹn thùa
phận mỏng đong đưa.

Bằng đường chia ly
quê người ở trọ,
sách vở thầm thì
nhìn tuổi thơ đi.

Bằng niềm thơ ngây
đời đầy cây cỏ
tôi níu tháng ngày
ru hương hoa bay.

Bằng vệt bụi nâu
dày lên tóc nhỏ
kín phủ mộng đầu
trong cõi bể dâu.

CÁT SỸ

HẠT BỤI

Có hạt bụi mồ côi
trầm ngâm bên cuộc đời
nơi dòng sông tịch mịch
lăn tròn về xa xôi.

Đôi khi dưới mưa rơi
bụi buồn lòng chơi vơi
ướt đầm bên hoa dại
cùng sen ngó mong trời.

Mơ lá thắm tình xanh
được yên nhiên trong lành
dù gió sương thác lũ
dù phận đời mong manh.

Ước vọng trong chiều tà
nơi tận cùng bao la
bên kia bờ xa vắng
hương ru người ru hoa.

CÁT SỸ

VỆT BỤI ĐẦU ĐỜI

Vào đời vấp ngã té lăn.
Đầu u mặt rách, trán hằn vết đau.

Ra đi từ số phận nào ?
Luân hồi nhân quả kiếp sau đời này.
Thân gầy đội bóng nước mây.
Đôi vai cát bụi, bùn lầy gót chân.

Ta tìm đất trọ xa gần.
Đồng hoang phố thị lần quần ngược xuôi.
Mím môi cười nụ ngậm ngùi.
Nghe chim khách hót, buồn vui một mình.

Ai người tâm sự tâm tình ?
Chợ phiên huyên náo, sân đình trống chiêng.
Nơi nao là động đào nguyên ?
Hoa xinh suối mộng non tiên dưới trời…

Vết thương vấp té đầu đời
đã như vệt bụi một thời rong chơi.

CÁT SỸ

CÕI BỤI

Giọt mồ hôi thấm cõi người.
Thấy trong khô khát nụ cười hồn nhiên.
Đâu cát bụi, đâu nhân duyên,
Đâu đào nguyên cũ cho thuyền về xưa.

CÙNG CÁT BỤI

Tôi cùng cát bụi lênh đênh.
Qua ngang đất trọ gọi tên nỗi buồn.
Nghe vàng lá rụng sau truông.
Mưa ngâu nắng hạn từ nguồn bể dâu.

RONG CHƠI

Đường dài tôi mãi rong chơi.
Ngu ngơ như thể chẳng trôi tháng ngày.
Dù cho cát bụi đầy vai,
Sắc không sinh diệt một mai luân hồi.

CHẲNG HẠN KỲ

Đâu biết khi nao sẽ trở về.
Từ ngày hạt bụi cõng ta đi.
Bên kia tiếng hát ngàn năm lẻ.
Trong cuộc rong chơi chẳng hạn kỳ.

SÀI GÒN, 1970
CÁT SỸ

VỀ JERICHO

Du khách về Jericho, phố cổ vạn năm trên đất Palestine
phải được phép nhập cảnh của chính quyền Israel
duy nhất theo cửa khẩu đường bộ độc đạo
từ Jordanie qua cầu Hussein.

Dưới bầu trời vắng lặng như tĩnh không
vùng sa mạc vàng cát khoáng đãng mênh mông
chập chùng đồi ô-liu xanh, vạt chà-là sum suê quả.
thảm thực vật mênh mang chiều, ấm áp nắng mai hồng.

Jericho, thành phố ven bờ tây sông Jordan
vùng thổ cư trù phú cỏ hoa trang trại biệt thự vườn
đón chào khách tha phương tứ xứ
nơi đất lành cho bao cánh chim.

Jericho, một miền Areeha tự do dừng bước dân du cư
những xóm mạc lum khum lều bạt cổ xưa người Bad’ Wi
phiêu du ngoài vòng kiềm tỏa của quyền lực
tự túc an sinh hồn hậu vô tư

Jericho, dân hiền hoà bên bờ Biển Chết bao đời
dù Israel đã khống chế khắp đất trời
vẫn ước mơ một “Palestine có chủ quyền độc lập”
quyền sống bình yên giữa cõi người.

ĐOÀN THUẬN

HEZBOLLAH

1.
Hezbollah, “Đảng của Thượng Đế”
”Đất của Alah” ban cho người Ả-Rập.

Hezbollah,
Lực lượng Vũ trang Thanh niên Shi’a
ra đời trong lòng Cách mạng Hồi  Giáo
nhầm giành lại đất thánh do Israel chiếm đóng
Palestine, Nam Ly-Băng , cao nguyên Golan

Hezbollah
đấu tranh cho người nghèo Ả-Rập
có đất sinh sống
có quyền thờ phụng Thánh Alah.
.
2.
Hezbollah,
lá chắn Nam Ly-Băng
gắn kết với Vệ Binh Cách Mạng Iran
cùng Phong Trào Kháng Chiến Hồi Giáo Hamas
chống lại sự can thiệp của ngoại bang
đẩy lùi cuộc xâm lăng đẫm máu Israel
giành lại “đất của Thánh”

Đoàn Thuận

CUỘC CHIẾN GAZA

1.
Ngày 27 tháng 12 năm 2008
Israel tấn công Dải Gaza
dưới khẩu hiệu “tiêu diệt khủng bố”
bằng vũ khí cùng hai mươi tỷ đô dallars

Bất chấp nghị quyết Liên Hiệp Quốc
Israel đem toàn bộ hải lục không quân
quyết tiêu diệt phong trào Hamas
lấn sâu vào lãnh thổ Palestine

Chiến dịch “chì đúc” toàn diện máu
F35 dội lửa từ trên không
đạn pháo 155 chứa phostphore trắng
gây bổng, huỷ diệt số đông

Trong tám năm bắn doạ vài rocket
Hamas làm chết tám lính Israel.
Sau hai mươi ngày ác chiến,
Israel giết trên tám ngàn dân Palestine

Khi Israel rút hết đại quân
xác người đẫm máu đầy phố phường
bơ vơ trẻ bám thi thể mẹ
giữa cảnh đời tang tóc thê lương.

2.
Ngày 7 tháng 10 năm 2023.
Hamas bất ngờ từ Dải Gaza,
dội vào Isarel hàng ngàn tên lửa,
dù bị phong tỏa hơn thập niên qua.

Isarel hải hùng tuyên bố:
”sẽ sang phẳng toàn bộ Gaza”,
”quét sạch Hamas khỏi trái đất”
”làm đổi thay Trung Đông sâu xa…”

ĐOÀN THUẬN

Mưa trời hồn nhiên rồi ráo tạnh, giọt mưa thôi rơi trên tóc sương pha.
Nhưng mưa bom, phốt pho trắng, vẫn rơi đầy trên Dải Gaza.

DẢI GAZA

1.
Gaza như một nhà tù giam lỏng hơn triệu người Palestine
dưới sự phong tỏa của Mastpash
lương thực thuốc men thuộc lệnh cấm Israel
phần lớn dân cư sống nhờ từ thiện cứu trợ
người lao động trưởng thành không việc làm

Nơi Gaza, sự sống lắng sâu vào mạch ngầm
lối độ nhật đi xuyên lòng đất về biên cương Ai-Cập
đường hầm như mạng nhện dẫn đến những ngôi nhà
dưỡng nuôi hơi thở bằng thị trường lương thực chợ đen .

Mặt đất hứng chịu đạn pháo Israel
nhà cửa đổ nát ngổn ngang bê-tông gạch đá
đôi khi không một bóng người
đôi khi như dải đất chết.

Mặt biển dậy sóng tàu tuần trực thăng biệt kích Israel
tàu chở hàng cứu trợ bị dẫn độ về Ashdod
đôi khi bị tấn công máu đổ người chết chìm
ngay trong hải phận quốc tế.

Trẻ em lẩn quẩn dưới hầm không lớp học
không hình dung nổi một bông hoa một cánh chim trời
chỉ nghe rền tiếng đạn pháo rơi
chỉ thấy xác chết
chỉ được tăng trưởng bệnh bại não
một đời trẻ thơ sợ hãi thiếu ăn…

2.
Dường như
con người đã quên lò sát sinh phát-xít
quên lời tuyên ngôn về quỵền sống
quên chính phận mình.

Đoàn Thuận

HẠT MƯA và TÔI.

Ngày tàn thu hạt mưa rơi lê thê.
Người đội mưa ra đi không thấy về.
Dù hẹn ước chờ nhau nơi xóm học.
Dù tàn phai phượng vĩ bao mùa hè.

Về trường cũ dầm mưa một mình tôi.
Áo trắng xưa thư sinh đã xa vời.
Âm mưa rơi rạt rào lùa tiếng trống.
vào lặng thinh trong ký ức bồi hồi.

Trang lưu bút ngủ quên dưới bụi mưa.
Giọt mắt nhòe màu mực dòng thư xưa.
Nhưng nỗi nhớ một thời đâu nhòa nhạt.
Dù tháng năm ru buồn mưa lưa thưa.

Bao mùa trôi miên man qua đường dài.
Màu mưa pha chân trời như không phai.
Vẫn in đậm bóng hình làng quê cũ.
Hạt mưa xưa thấm lạnh nỗi u hoài.

ĐOÀN THUẬN

HẠT MƯA và DÒNG SÔNG

Bao tia nước khuất về xa.
Từ nguồn mưa móc bao la cõi trời.
Từ làn mây nước chơi vơi.
Cùng sương tích tụ, mưa rơi xuống đời.

Mưa mù mịt khắp núi đồi.
Nước tràn gành thác thầm trôi qua rừng.
Mạch ngầm lắng đọng nên bưng.
Ao chum ngày cạn, nước lưng đầm hồ.

Bảo bùng lũ quét sóng xô.
Mưa nguồn soi mở đôi bờ dòng sông.
Sông qua rừng thẳm non bồng.
Qua bao làng mạc, cánh đồng lúa non.

Đôi khi sông cạn đá mòn.
Bên bồi bên lở, mất còn đục trong.
Sông xuôi về biển mặn nồng.
Bóc hơi theo nắng phiêu bồng cùng mây.

Trầm luân theo bóng tháng ngày.
Trời cao trả hạt mưa mây cho đời.
Sông xưa đầy nước êm trôi.

ĐOÀN THUẬN

BẾN SÔNG MƯA

Đưa người qua bến sông mưa.
Hoa lục bình tím như chưa kịp tàn.
Chiều đầy sóng nước mênh mang.
Chợt đôi bờ rộng một tràng giang xa.

LÁ MƯA ƯỚT

Mưa rào ướt lá vàng khô.
Đầm đìa lướt thướt như mờ lệ rơi.
Đã xa nhành cội đọt chồi.
Nay tràn lũ quét lá rời đất xưa.

MƯA PHỐ XA

Ai ngồi hát cuối phố mưa
Nghe xa như điệu ru xưa không lời
Điều gì lẫn quất trong đời
Thầm thì như hạt bụi thời bỏ quên.

MƯA TẠNH TRÊN SÔNG

Tạnh sông dải lụa ngang chiều.
Một làn khói mỏng làm xiêu cây bờ.
Ngờ như chiếc lá bâng quơ.
Tiếng chim se sẻ chạm hờ vào hoa.

ĐOÀN THUẬN

KHÔNG MƯA NƠI EM

Mưa, không mưa nơi em
sao ướt bờ vai mềm
mắt chiều như sương đọng
xa nhau rồi, buồn thêm.

Điều gì còn cho nhau
ánh trăng nơi mái lầu
đôi dòng thư đã cũ
hoa tàn hương phai mau.

Mưa, không mưa chiều nay
đường về rơi lá đầy
cố quên người, vẫn nhớ
thu nào không heo may.

Chiều trên đồi cây xanh
tôi gặp lại chính mình
trong vô cùng sắc cỏ
lời buồn không âm thanh.

ĐOÀN THUẬN

MƯA PHUONG NGƯỜI

Rồi mai em về thăm quê hương,
biết đâu riêng tôi còn tha phương,
cánh mây trôi nổi theo chiều vắng,
vào không gian bao la phong sương.

Mưa đêm rơi đầy nơi chân trời,
biết đâu thuyền neo khuya bên đời,
lối cỏ hoa mờ trong khói sóng,
lửa chài thấp thoáng bờ xa khơi.

Mưa rơi hiên ngoài vẫn mưa rơi,
mưa sao mưa mãi một phương người.
biết đâu lòng tôi nơi quạnh vắng,
xót một đài hoa không còn tươi.

Đêm nay mưa hoài, mưa chập chùng,
thương mẹ già nua phố bên sông,
tôi mơ bép lửa chân trời cũ
phương nọ phương này trời mênh mông.

ĐOÀN THUẬN

ĐÊM MƯA KHÔNG LỜI

Mưa ở đây, mưa phương nào
nghĩ như điệu hát chạm vào thiên thu
từ trong quãng lặng mịt mù.

Lá khô rụng để vàng thu
từng hạt mưa, từng hạt mù sương, bay
trong hoang vu chẳng tháng ngày.

Mưa bên song, mưa hiên ngoài
cũng là một giọt lệ dài đã rơi
từ bên kia của nụ cười.

Mi đêm khép giấc mộng người
nhịp mùa gõ lạnh một thời thôi nôi
vết lăn về cuối chân trời.

Mùa nghiêng mưa xuống hồ đời
tôi nghiêng hồn xuống chơi vơi nỗi niềm
núi ngàn năm đứng lặng im.

Lửa người ru giấc mưa đêm không lời.

Đoàn Thuận

ĐÊM MƯA LẠNH

Mưa đêm lành lạnh phố phường.
Vi vu tiếng gió hú buồn nơi xa.
Hẻm con cao thấp tầng nhà.
Vô tình che khuất bao la bầu trời.

Ngờ như vật đổi sao dời.
Thị trường nhộn nhịp đã rời phố quen.
Mưa bay mờ nhạt ánh đèn.
Âm u bóng tối cài then dòng đời.

Dưới mưa bùn đất rã rời.
Dân nghèo phận bạc bời bời xót đau.
Mưa buồn tuông giọt lệ trào.
Khi mùa covid lan mau mọi miền.

Lâm râm mưa rụng ngoài hiên.
Khe rêu đá cũ tịnh yên bên thềm.
Cách ly, vắng lặng đường đêm.
Phố nhà phong tỏa buồn thêm cõi lòng.

Gò Vắp, mùa covid 2021
Đoàn Thuận

MƯA ĐỔ LỆ

Sài Gòn tầm tã mưa rơi.
Đường xe đại lộ nước trôi thành dòng.
Thản nhiên cuồn cuộn thong dong.
Tràn vào hè phố tịnh không bóng người.

Rì rào trên khóm hoa tươi.
Công viên im bặt tiếng cười bước chân.
Nhà hàng khách sạn cao tầng.
Hẻm con quán trọ xa gần lạnh tanh.

Ào ào mưa nhiễm dịch nhanh.
Từng nhà kín cửa, khắp thành cách ly.
Người nghèo đói, chẳng còn gì.
Dầm mưa rời khỏi kinh kỳ về quê.

Âm mưa buồn rụng lê thê.
Nghe như đổ lệ tái tê cõi lòng.
Đưa người về bến tĩnh không.
Nỗi niềm ly biệt theo bồng bềnh mây.

Gò Vắp, mùa covid 2021
Đoàn Thuận

MƯA LŨ

Khi trời hạn nứt đất đai.
Lúc triều dâng lở bãi dài triền miên.
Nay mưa ngập lụt bến thuyền.
Điếng lòng nghe bão rớt miền quê xa.

Một vùng đồng cỏ bao la.
Lũ mông mênh nước, gió và mưa rơi.
Lúa non chìm đáy sông trôi.
Xuồng con neo lạnh trên đôi nóc nhà.

Cánh cò trắng khuất về xa.
Em thơ khuất giữa màu hoa lục bình.

CÁT SỸ
.

LŨ QUA LỚP HỌC

Gió về rớt bão trong cây.
Sông dâng ngập úng hoa ngày lũ mưa.
Mái trường theo sóng nước lùa.
Mối sầu thấm ướt bao mùa học sau.

Lũ ơi, quét cạn bùn ao.
Xin đừng để lại nỗi đau kiếp người

CÁT SỸ

MƯA NÚI

Mưa ào ạt, gió bạt ngàn đỉnh núi.
Cây ngã nghiêng, cành nhánh bay ngang trời.
Cuội lăn lóc tuột trần vào hóc đá.
Khe nước tràn cát bụi tấp chân đồi.

Mưa dội xuống con đường về tháp cổ
Gột rong rêu bám úa mấy tường hoang.
Nơi lầu tây đâu còn ai hát nữa.
Cõi thơ ngây vắng bặt một cung đàn.

Mưa phơ phất xoá mờ dần đỉnh tháp.
Lá khô vàng rơi rụng theo cánh hoa.
Mùi cỏ mụt thoáng nồng qua ký ức.
Tưởng như trời nhỏ lệ ướt thung xa.

Ta về đây một mình chiều mưa núi.
Chợt tình quê lay lắt gió tha phương.
Từng cơn nhớ tạt vào bờ quên lãng.
Bếp tro tàn hương lửa lạnh đêm suông.

Đoàn Thuận

LỬA ĐÊM MƯA

Mưa chưa bao giờ thế
ngõ hẻm sâu thêm lầy
đêm hoang đầy bóng tối
tiếng sấm rền chân mây.

Mưa như ngàn xưa tới
nhung nhớ choàng lên vai
đi mãi trong rừng tuổi
phố xa ai tìm ai.

Mưa như mưa rừng xuống
từ một bờ cô đơn
lá cây bay đầy phố
lá ướt chạm vào hồn.

Từ cõi xa mờ mịt
gió lùa qua đêm đen
mưa tạt qua nhà vắng
mưa dột vào tịnh yên.

Tôi như từ xa lắc
về nhóm lửa đêm mưa
hong khô bờ ký ức
ấm nụ môi giao mùa.

ĐOÀN THUẬN

GÁC TRỌ MƯA

Mưa thu bay mù nơi đường xa
Lanh tanh rơi rơi ngoài hiên nhà.
Vô tình tạt nước vào bàn viết.
Ướt đằm sách vở, bóng nhạt nhòa.

Trang thư em trao khi ra đi.
Bao ngày nằm im trong phong bì.
Nay gió thổi rách phơi dòng chữ.
Tôi thầm nhận ra lời biệt ly.

Tương phùng ly tan điều bình thường.
Hoa xinh khi tàn phôi pha hương.
Em đến với tôi cùng nguyện ước.
Dù chỉ bên nhau một đoạn đường.

Hồn nhiên mưa rơi đầy vườn hoang.
Rì rào đong đưa nhành cây xoan.
Gác trọ mình tôi bên đèn sách.
Buồn nhìn mưa loang lớp bụi vàng.

CÁT SỸ

XÓM TRỌ MƯA.

Lâm râm mưa rơi nơi vườn chiều.
Xóm trọ lành lạnh trong quạnh hiu.
Hàng sao cổ thụ nghiêng theo gió.
Lối vắng người qua, cỏ liêu xiêu.

Hoa sao quay quay theo mưa bay.
Nụ tròn buông thân bên ao lầy.
Hai cánh vấn vương chồi lá biếc.
Rời rã nằm trong đám cỏ may.

Từ xa mưa lan qua đường mòn.
mang theo cát bụi lẫn bùn non
róc rách nương nhờ mương nước nhỏ,
như hẹn về xuôi sông Sài Gòn.

Sau mưa thôn yên trời trong lành.
Nương rau luống cải thêm tươi xanh.
Ao sen bùn lắng xuống đáy nước.
Hương thoảng dịu thơm dù mong manh.

CÁT SỸ

LA DẠ MƯA

La Dạ, mưa đêm rơi,
rơi nghiêng túp lá tời,
rơi lạnh đường rừng vắng,
rơi mù nơi chân trời.

Mương nước đầm đìa trôi.
Ếch kêu như nghẹn lời.
Sấm rền dài đồng lúa.
Điệu nhạc đêm bồi hồi.

Trường La Dạ thôn xưa,
thì thào qua làn mưa,
tiếng học bài cuối hạ
lâm râm giọt âm thừa.

Gió ru cành dã quì
làm nhớ bao mùa đi,
nhớ trường làng xóm học,
bút nghiên buổi xuân thì.

Giờ đây nơi phương xa,
qua bóng mưa nhạt nhòa,
tưởng nghĩ về La Dạ,
bên nhau dưới mưa hoa.

CÁT SỸ

NHẠC MƯA

Mưa rào qua mái tôn nghiêng.
Nghe như điệu nhạc “độc huyền cầm” xưa.

Rì rào lộp độp tiếng mưa
Lăn tăn tí tách lưa thưa là đà.
Ù ù gió hú ngân nga.
Chạm lên phím gạch âm ba dội buồn.

Bổng trầm gõ nhịp nước tuôn.
Trường canh lặng lắng hồi chuông đêm tàn.
Độc huyền ngủ lạnh nhà hoang.
Mong mùa nhỏ nhẹ cung đàn gió mưa.

Sấm rền vọng lại âm thừa.
Vời xa bóng khói đong đưa không lời.
Đầm hồ nắng rọi lên hơi.
Từng làn mây nước chơi vơi ngang trời.

Thiên thu mưa tạnh lại rơi.
Như bao số phận đổi dời bể dâu.
Mây Hàng lờ lửng về đâu.
Lại buông thả giọt Mưa Ngâu xuống đời.

An Nhơn, 1969
CÁT SỸ

ÂM MƯA ĐÊM

Mưa rào qua đêm phố
như một khúc nhạc trời,
thả từng giọt âm rơi
trên mái đàn phím ngói.

Điện tắt cung đường tối
đâu rõ mặt khuôn âm
của khoảng lặng lâm râm
tạt ướt bao hoa cỏ.

Sấm rền dần dần nhỏ
ngưng thầm bản nhạc mưa
còn chăng đôi âm thừa
chạm ngoài thềm rêu biếc.

Chạm lên nốt mi tuyệt,
nốt rê buồn lệ rơi,
trên sân khấu cuộc đời,
với trường canh dâu bể.

CÁT SỸ

MƯA ĐÊM

Bây giờ mùa mưa đến.
Gió rít lòng phố đêm.
Nghe lạnh đầy hư vắng.
Nghe như buồn dài thêm.

Bây giờ mùa mưa đến.
Sông nước đôi bờ đầy.
Thuyền xưa xa khuất mãi.
Lá ướt ngoài sông bay.

Bây giờ mùa mưa đến.
Mưa lạnh rêu hiên ngoài.
Tay với đời dài mãi.
Tóc theo ngày dần phai.

Bây giờ mùa mưa đến.
Phố vắng khuya cài then.
Thềm hoang hoa dại ngủ.
Mình tôi và ngọn đèn.

CÁT SỸ

ÂM MƯA RƠI

Những hạt nước rơi rơi trên mái tôn
Những âm mưa lâm râm trong hoàng hôn.
Như bản nhạc không lời không nhịp gõ.
Giao hưởng buồn mênh mang điệu tâm hồn.

Người nhạc trưởng, từ trời, dạo khúc nôi.
Piano, sương gió đệm âm rời.
Giọt long bong, từng tiếng rơi lộp độp.
Giữa trường canh, một khoảng lặng mây trôi.

Sấm đì đùng như trống vỗ vang rền.
Rừng trúc ru tiếng sáo, mưa lênh đênh.
Dòng suối con róc rách theo đường cũ.
Bồng bềnh trôi cỏ rác bị bỏ quên.

Mây trời xanh thành hơi nước, mưa tuôn.
Nơi núi sông lạnh buốt cánh chim muông.
Gió hú gọi lá vàng bay vi vút.
Làng quê nghèo đọng lại những giọt buồn.

CÁT SỸ

TIẾNG MƯA RƠI

Âm thanh tí tách mưa rơi.
Chạm lên phiến đá, lên đời rêu hoang.
Thinh không thạch thảo địa đàng.
Lặng câm núi lạnh, lụi tàn rừng cây.

Chuyển mùa nắng quái mây bay.
Khốc khô suối cạn, lắt lay bụi đường.
Môi trường đất nước nhiễu nhương.
Lội lầy bến đỗ, dầm sương chợ đời.

Rừng xa núi thẳm biển khơi.
Đồng không mông quạnh chơi vơi bóng người.
Xuân thì đâu mãi xinh tươi.
Niềm đau buồn lệch môi cười, ướt mi.

Đường trần kẻ ở người đi.
Sum vầy một lúc, biệt ly muôn đời.
Âm thanh tiếng nước mưa rơi.
Nghe như giọt lệ bên trời tiễn đưa.

CÁT SỸ

MỘT CHIỀU MƯA.

Đò ngang bến đổ chiều mưa.
Không lời ly biệt người xua xa mờ.
Ta về nghiêng nón đợi chờ.
Mưa buồn rơi lạnh xuống bờ thùy dương

GIỌT MƯA

Ngửa tay hứng giọt mưa đầy
tưởng như lời của một ngày thung xa.
tưởng hương của một loài hoa,
vương vương một thoáng chiều tà trong cây.

DƯỚI MƯA

Có người lầm lủi trong mưa
Nhặt dăm cánh phượng rơi thưa phương này.
Hương mùa theo chiếc lá bay
Phương kia cuối nhặt dấu giày rêu phong

ĐỤT MƯA

Đụt mưa chiều dưới hàng cây.
Làm ta chợt nhớ một ngày xa em.
Xin trời đừng đổ mưa thêm.
Giọt xưa đã thấm ướt mèm trong nhau.

CÁT SỸ

BÓNG MƯA

Mây về núi vắng rơi mưa
hoa nghiêng bóng đợi từng trưa từng chiều
trăng rừng trở giấc cây xiêu
xuôi đêm thức nhớ nhung nhiều mắt nai.

Nắng đi ngày một ngày hai
cây chon von đỉnh dốc dài ngóng xa
truông rừng sương phả chiều qua
đèo heo hút bóng mưa và cô liêu.

MƯA XUÂN

Mưa xuân mang bụi nước mây.
Lưa thưa sợi mỏng nhẹ bay ngang đời.
Từ mùa đông giá sương phơi.
Dư âm hoa mộng tiếng rơi giọt buồn.

MƯA PHÙN

Mưa phùn phơ phất ngang hoa.
Làn hương dịu lắng vào xa núi rừng.
Hơi xuân buông thả dửng dưng.
Cùng mây sương khói ngập ngừng dưới thung.

CÁT SỸ

Kính thưa quí Thân Hữu

Tôi là một giáo già đã ngoài 84 tuổi. Đôi khi, ngồi một mình,
nghĩ vớ vẫn về những mảng đời mà tôi từng ghi chép tản mạn trong
30 tập tùy bút, khi còn đi học đi dạy. Cuối đời, để không quên,
tôi  chọn  một số bài, gom lại thành “cụm chữ” theo một  tiêu đề nào đó
như Chiếc Lá, Mái Xưa, Hạt Mưa, Viên Cuội v.v.
Rất mong quí vị thông cảm và hãy xem “con chữ” của tôi như
hạt bụi lăn qua trang giấy rách, hay như hạt mưa rơi trên nón lá cũ.

MƯA

Mưa. vẫn mưa mãi mà.
Liễu miền xa thướt tha.
Mưa ướt bờ vai nhỏ.
Mưa giăng mờ bóng hoa.

Mưa rơi nghiêng chiều tà.
Mưa theo mùa đi qua.
Mưa lạnh miền đất cũ.
Mưa nhạt nhoà phố xa.

Mưa từ xa lênh lênh.
Kỷ niệm nào mông mênh.
Mưa rơi từ nỗi nhớ.
Mưa tạt vào cõi quên.

Mưa,vẫn mưa mãi mà.
Mưa ru tình đậm đà.
Mưa thêm người héo hắt.
Vui buồn đâu riêng ta.

CÁT SỸ

MÁI XƯA và TÔI

Nhà xưa còn nguyên vùng ký ức
dù đã khuất vào xuân xanh
mái cành nôm, liếp lá thưa ngày bấc lạnh.

Bao mùa đi qua cánh đồng trước ngõ
tôi mót lượm gié lúa bỏ quên trong đầm
nghe tiếng hát mùa xa thơm mùi rơm rạ
lời ca dao còn đọng tháng năm.

Một con thuyền ngủ xa xăm
dưới bờ cây những mùa mưa nắng
người giặt áo bên sông, lặng thầm về đâu
tiếng cười rung bóng nước
chiều lắng buồn sông sâu.

Tôi về đây một ngày hoa cúc
buồn vui thinh không như hương cỏ lau
khi được ngủ quên bên thềm trăng cũ.

Mây trắng bay cao niềm xưa gió thoảng
đường thôn hoa dại nở đầy
đâu cần nhớ chi mấy mùa lưu lạc
hương trời đâu đây.

CÁT SỸ

MÁI XƯA.

Từ biệt mái nhà xưa,
nghe lòng ta rơi mưa,
khi xa kỷ niệm đầu đời,
xa những ngày yên tĩnh,
những ước mơ không lời.

Đâu những buổi chiều lặng.
Ánh nắng vàng bên kia song cửa,
Gió đưa hương hoa nhẹ vào cây,
Một bóng mây trên cao khung trời.
Đâu những đêm trăng vừa lên.
Mộng mơ tan vào ánh bạc.
Ruộng đồng khuya yên ắng không gian.

Ôi, ngôi nhà của Mẹ ta xưa.
Mái lá đơn sơ nhưng ấm tình non nước.
Ra đi rồi ai hiểu được lòng ta.
Ai sẽ cho ta những ngày yên gió.

CÁT SỸ

VỀ NGANG NHÀ XƯA

Ly gia La Gi buồn mông mênh.
Tôi về tìm đâu ngày bình yên.
Đất đai ngủ lạnh, hoa dại thức.
Hờ hững đường quê, phố lãng quên.

Tôi về còn ai mong đi thăm.
Tôi về lạ lẫm như trăm năm.
Tượng đá vườn cây nhìn ngơ ngác.
Cội trúc hoang sơ tự lên mầm.

Tôi về ngang đây thăm vườn hoa.
Dường như cỏ cây đâu xóa nhòa.
Vàng thu khóm cúc lặng lẽ nở.
Một thoáng hoàng lan vương chiều tà.

Dừng chân đôi giây bên hiên ngoài.
Nghe như ngọc anh hương còn bay.
Hàng cây nguyệt quế thơm hoa cũ.
Bao mùa kỷ niệm còn đâu đây.

Nhà xưa tường vôi nay sơn xanh.
Ai nghiêng vai nhỏ ngồi sau mành.
Và bầy chim sẻ trên mái ngói.
Nào hay tôi như một lữ hành.

ĐOÀN THUẬN

NHÀ XƯA

Nhà xưa ở cuối nẻo thôn dâu.
Lối ngõ quanh co khuất phố lầu.
Bụi bám tường vôi mùa bấc lộng.
Rêu phong mái ngói bóng mưa ngâu.
Vài pho tượng đứng buồn năm tháng.
Mấy bức tranh treo bạc sắc màu.
Tịnh xá am mây đều chẳng phải.
Hồn xưa nếp cũ nghĩa tình sâu.

CÁT SỸ

VƯỜN CŨ

Vườn xưa, khóm trúc bên tường.
Thoáng rêu xanh phủ và sương đêm mờ.
Trăng rừng trong nửa vần thơ.
Nửa kia để nhớ bến bờ đã qua.

CÁT SỸ

NHÀ XÓM CŨ

Tìm thăm nhà thôn nơi bưng biền.
Gác cây bên suối rừng tịnh yên.
Thảm cỏ đôi bờ viền cổ thụ.
Một miền ký ức thuở hoa niên.

Đường ngang sân hoa xanh rêu phong.
Thiên lý tàn khô hương phiêu bồng.
Cội mai lặng lẽ bên khóm trúc.
Bàn thiên nhang khói hồn tĩnh không.

Dừng chân đôi khi đời tha phương.
Từ biệt ra đi bao mùa sương.
Nay nhà hoang trống, người xa khuất.
Bên hoa còn lại nỗi buồn vương.

Mong ngày tang thương rồi qua đi.
Đất trọ xóm nghèo nơi biên thùy.
Cùng về nhóm lửa đêm hoa mộng.
Ngờ đâu thăm thẳm đường biệt ly.

Tân Lý,1960
CÁT SỸ

NHÀ CŨ NGÀY TẢN CƯ

Nhà sàn đơn sơ trong rừng xanh.
Hai gian cành nôm nơi đầu gành.
Vách tre dừng lá, cửa song trúc
Tản cư tạm trú thời chiến tranh.

Lương khô trời cho kho không lưng.
Khoai mài, linh chi, nần, sâm nhung.
Lúa rài Ba Trăng, bột săn tế.
Cá đồng, thịt thú, mật ong rừng.

Hương hoa màu cây thay quanh mùa
Muồng vàng, mây bưng, bông lau thưa.
Nấm dại, rêu hoang, suối trong mát.
Phong lan thơm thoảng theo gió lùa.

Ngày vang lời chim muôn âm thanh.
Đêm ru hương pha sương long lanh.
Người xa quê cũ chốn rừng thẳm
Thầm lặng ước mong đời yên lành.

CÁT SỸ

NHÀ MẸ XƯA

Ngôi nhà mẹ.
Ánh lửa bếp chiều ấm ký ức hoang vu.
Ngói âm dương vỡ tan những mảnh vụn kỷ niệm.
Âm thanh ngói rơi xuống tuổi thơ lời ru xưa.
Tan loãng mông lung buồn mây mưa.

Tiếng ngói đổ chạm đáy hồn người tha phương.
Giọt trầu đỏ quệt ngang thềm phố cổ mùa đông.
Vách lam ngả bóng hoang sơ vào kẻ nứt ngày tháng.
Dội lên màu khói lửa nhức nhối tâm tư cô đơn.

Nỗi quê gối đầu lên rêu xanh sân gạch.
Cành điệp vàng quét bụi khói nhang bàn thiên.
Mẹ móm mém tạ ơn đất trời đứa con lưu lạc.
Chiều lại buồn nước mắt tiễn chân con.

Rồi ta về một mai lạ lẫm những lối mòn.
Rồi ta về một mai đâu ai quen.

Tân Lý,1960
CÁT SỸ

VỀ LẠI  XÓM CŨ

Về đây trong lũng mây chiều
mưa rơi thôn lẻ ít nhiều bâng khuâng
suối trôi trong dáng ngại ngần
người đi để nhớ đôi lần trong mơ.

Bãi hoang với cát lưng bờ
dấu chân chim đã mịt mờ lối xưa
một đời ta những nắng mưa
lời ca dao cũ đong đưa phố sầu.

Ta về ngã nón qua cầu
nhớ trang thư cũ những câu tạ từ
có gì đâu một mùa thu
ngày thơ ấu đó cũng mù xa thôi.

Giờ ta xóm cũ bồi hồi
nghe hoàng hôn rụng cuối trời buồn tênh.

ĐOÀN THUẬN

NƠI ĐẤT CŨ

Về quê ghé lại đất xưa.
Cảnh đời lạ mắt dưới mưa chiều tà.

Từ xa một góc vườn hoa.
Trúc xanh, nhưng cội mai già đi đâu.
Một pho tượng đá nứt đầu.
Ngực vai bụi bám, mặt nhầu rêu phong.

Gió lùa cát đất phiều bồng.
Đôi bờ lộ giới xóm đông phố giàu.
Liền kề nhà cửa lầu cao.
Tiệm hàng khách sạn lao nhao bóng người.
Hè đường, cây kiểng hoa tươi.
Hàng rong quán cóc, tiếng cười tiếng rao.

Khuất đâu ruộng lúa nương rau.
Mái tôn vách đất, hàng rào lũy tre.
Chợ chiều chợ sớm vắng hoe.
Bến chờ khuất dạng chiếc bè sang ngang.

Cố nhân khẩn đất khai hoang
Cư dân bản địa rời làng tha phương.
Chỉ còn thoáng bóng gió sương.

ĐOÀN THUẬN

CHIẾC LÁ
và TÔI

Lá nào ghé lại bên tôi.
Đường trần cõi tạm đổi dời thực hư.

Lá rừng che xóm tản cư.
Cành nôm mái lá dựng từ lũy tre.
Ao chum nương rẫy đồi le.
Lá sen, lá lúa, lá chè, lá dâu.

Áo tơi nón lá chăn trâu.
Vướng đầy lá trúc lá dầu lá dong.
Trâu qua láng quạnh đồng không.
Gậm nhai lá cỏ, ăn rong lá bàng.

Nón rơm đội đến trường làng.
Lá me chợt rụng lên trang vở dầy.
Lá non mỏng mảnh hao gầy.
Tưởng như lưu dấu tháng ngày thư sinh.

Lá dương lá phượng lặng thinh.
Theo tôi lần bước hành trình tha phương.
Lá thư gửi lại bạn đường.
Tình xanh lá thắm sắc hương một thời.

Lá Rừng xanh biếc thơm hơi.
Mùa trôi thả lá vàng rơi khắp trời.
Lá Thư mực tím đôi lời.
Thời gian phả bụi trang đời bể dâu.

CÁT SỸ

LÁ SEN
và CÁT BỤI.

Một lá sen tròn như nia con,
rời xa đầm xưa, luôn mỏi mòn,
trôi nổi bồng bềnh nơi hồ vắng,
mưa dầm nắng quái thêm héo hon.

Qua bao mùa đi đời lang thang,
nước thấm sương pha màu úa vàng,
dần dà thân vướng đầy cát bụi,
phận mềm nặng nợ tình cưu mang.

Gió chướng thổi bay bụi xa vời.
Mặt hồ in bóng vòng rụng rơi,
lặng thầm nhập cuộc vào bùn đất.
trầm ngâm đáy nước, khuất mây trời.

Cát sạch bụi đời, còn lơ mơ
nằm trên thân lá trôi vật vờ,
chờ ngày qua bến bờ dâu bể,
thoát thời phiêu bạt, phận nương nhờ.

Nia sen chở cát dạo quanh hồ.
nước dâng dạt vào rễ cây khô,
ngụ tạm dưới trời, bên rừng đước,
rã rượi lắng vào cõi hư vô.

CÁT SỸ

CHIẾC LÁ
và GIỌT SƯƠNG

Bão gió cuốn cỏ cây về ao rác
Lá héo nằm rách nát dưới sương mai
Giọt hương xưa còn lưu trên mép nõn
Đêm hoàng hoa ấp ủ mộng đời dài.

Hơn một lần hơi sương vào hư ảo
mang theo màu mắt biếc lúc thu phai
bỏ quên lá se lòng ôm giá lạnh
bên vườn hoang mộng mị nỗi ai hoài.

Lá vắt kiệt nhớ nhung khô giọt lệ
thân mỏng manh gầy guộc, sắc hao mòn
cuốn khô khốc tàn dần trong nắng quái
nhựa cạn nguồn tách lá buổi xanh non.

Lá vàng úa khi lìa cành bất chợt
dưới cội cây mục rã  mối mọt đầy
lũ trùng đất đùn lên như mộ chí
tưởng cùng sương hạnh ngộ cõi khói mây.

Giờ nằm đây trên lớp bùn quánh đặc
rác cuộc đời ngập ngụa giấc mơ hoa
nghe cát bụi thì thầm cùng giun dế
Lá cuối trời heo hút ngóng sương sa.

CÁT SỸ

HỒ NÚI
và LÁ DONG

Cây thu thả chiếc lá vàng
xuống hồ Núi Đất, bên ngàn Rừng Dong.
Sương pha, gió nhẹ, nước trong.
Lá men Bến Cỏ vào dòng Suối Sâu.

Con chim bói cá cúi đầu
thương duyên “lá thắm” phai màu “tình xanh”.
Nghiêng nhìn bóng nước long lanh
soi buồn lá ướt vượt gành rêu rong.

Giã từ Núi Đất Rừng Dong
Thân tàn phận úa phiêu bồng về đâu ?
Đồi Sầm Động Dứa Bãi Dâu
Phong lan cúc dại như sầu biệt ly.

Bảo bùng thổi lá Dong đi
Lác bàng sen ngó hoa qui tiễn đưa.
Lặng buồn, tu hú âm xưa.

Hồ Núi Đất, 1972
CÁT SỸ

ĐƯỜNG LÁ BAY.

Giữa đời bao nhiêu chiếc lá bay,
tách rời đọt nhánh thân cội cây
tàn tạ héo khô theo mưa gió,
khuất vào cát bụi trong bùn lầy.

Đôi khi non nớt chợt rời cành
gió hát ru đưa vào cỏ tranh,
xa nguồn nuôi dưỡng dần teo tóp
thành ra phân bón dưới rễ xanh.

Lá bay theo gió mây sương mờ,
rong ruổi phiêu diêu không bến bờ.
Chiếc trôi lênh đênh cùng sông nước.
Chiếc mắc vào gai rách xác xơ.

Gân may cọng mắn nhờ thời gian,
lá từ tơ lục sang úa vàng
rời rã rụng rơi rồi mục nát
đâu chờ đông tận hạ thu sang.

Thân lá phận người, một bóng hình.
Ngắn dài còn mất cuộc tử sinh,
Duyên số tuần hoàn theo nhân quả.
Đất trời luân lưu thoáng nghĩa tình.

CÁT SỸ

ĐỜI LÁ .

Vào thu, lá úa vàng khô.
Lìa cành theo gió giang hồ rong chơi.
Dừng chân bên cỏ chân đồi.
Cây xưa rừng cũ bồi hồi nhớ mong.

Lá như bè nhỏ trên sông.
Cùng bèo trôi dạt bềnh bồng về xuôi.
Đâu hay bàng lát ngậm ngùi.
Nghiêng mình lay lắt, dừng lùi về sau.

Lá thu xanh đã bạc màu.
Như tờ lưu bút nét sầu biệt ly.
Trường giang, lớp bụi biên thùy.
Hè sang cuống lá xuân thì nhạt phai.

Thu phong đông giá u hoài.
Sương sa, lá ướt ứa dài giọt rơi.
Mùa màng lặng lẽ nổi trôi.
Cây già lá chết, đâm chồi lộc non.

Thiên nhiên luân chuyển mất còn.
Cỏ hoa tàn tạ, vuông tròn một mai.

Cát sỹ

LÁ SẦU ĐÂU

Heo may chia tay lá sầu đâu,
hiu hiu thu sang phố Bên Cầu,
thả lá xuống chiều xóm Ruộng Cỏ,
bên bờ Rạch Chiếc, cạnh vườn dâu.

Sầu theo mây bay về nơi đâu,
lệ trời rơi ướt mộng ban đầu
nứt mầm lên cây nơi đất nhớ,
lá ủ hình hài trái tim đau.

Cành xanh chồi non chờ đông tàn
nở bông thơm hương mừng xuân sang,
môi hoa chúm chím nụ cười gượng
trong héo, ngoài tươi dáng dịu dàng.

Từng chùm đong đưa theo gió lùa,
tim tím buồn vương màu hoa mua
lá thắm tình xanh dần tàn úa,
rụng vàng cuối hạ dặm đường xưa.

Sầu không nơi đâu, ở nơi đây,
nỗi niềm chia ly qua từng ngày,
hoa tàn lá rụng lìa cành cội,
du tử tha phương, cát bụi bay.

CÁT SỸ

LÁ ME NON

Lá me rơi đầy trên mặt bàn,
sau ô cửa nhỏ, trong nhà ngang,
lặng yên như thể quên ngày tháng.
bên trang sách khép mùa hạ tàn,

Đôi lá dìu nhau về muôn phương.
Khi gió heo may lạnh khu vườn.
Cơn mưa rào rạt qua mái ngói.
Lá sầu đâu trọ cạnh bờ mương.

Bút khô chữ đói, ngày nghỉ hè.
Hồn nhiên bụi phủ trang lá me.
lấp dấu mùa đi thân bé nhỏ,
bóng cũ hình xưa đã vàng hoe.

Lũ lụt mưa dông, nước ngập sâu,
hoa rụng xuống đời, trôi về đâu?
Chiếc lá me non tuy màu nhạt,
vẫn như lưu niệm mùa học đầu.

CÁT SỸ

LÁ THẮM

Chiếc lá vàng khô rụng.
Gió thung đưa tiễn về cuối lũng.
Dù mùa chưa tàn thu.

Đồi cây cao vi vu.
Hơi mây mù theo sương lạnh giá.
Phả ướt hoa tàn tạ.

Kiêu sa dạ lý hương.
Yên nhiên thơm thảo bao đêm trường.
Bên hoa mua cỏ dại.

Bao sắc hình tím tái.
Ái ngại mùa trôi màu phôi pha.
Tươi non dần nhạt nhòa.

Lá thắm đầy cát bụi
Tình xanh sầu úa trong sương muối.
Tàn lụi vào tĩnh không.

CÁT SỸ

CHIẾC LÁ

Sương thu bãng lãng qua đồi.
Rừng xanh gió lạnh thổi rơi lá vàng.
Cuộn theo cát bụi bên ngàn.
Nắng khô mưa ẩm thân tan nát dần.

CÁT SỸ

LÁ MƯA ƯỚT

Mưa rào ướt lá vàng khô.
Đầm đìa lướt thướt như mờ lệ rơi.
Đã xa nhành cội đọt chồi.
Nay tràn lũ quét lá rời đất xưa.

CÁT SỸ

CHIẾC LÁ RƠI

Chiếc lá vàng khô bay trước cửa,
Hồn nhiên như thuở chưa lìa cành.
Chao nghiêng trước gió chiều thu muộn,
Lướt nhẹ qua thềm vạt nắng hanh.
Núi cổi chồi khô phai sắc biếc,
Rừng già đọt héo mất màu xanh
Năm tàn tháng tận ngày đêm bạc.
Phận mỏng phong phiêu âu cũng đành

CÁT SỸ

LÁ SEN GIÀ.

Ngó sen lên cao ngóng mây trời.
Ngàn năm mây trắng lửng lơ trôi.
đâu hay trong đầm, dưới liễu rũ,
lá sen tàn tạ màu pha phôi.

Bao mùa hanh nắng, mù sương pha,
bão rớt, mưa bay, gió lùa qua,
mặt lá xanh non dần vàng úa,
cằn cỗi nương thân búp nõn nà.

Mặt nước nâng lưng lá tan hoang.
dưới đóa sen hồng hương dịu dàng
bên cọng ngó nghiêng bầu trời rộng
xanh non thơ mộng như xa ngàn.

Lá già khô héo, rụng, rã rời,
tách ra từng mảnh, rách tả tơi,
mảnh chìm đáy nước thành bùn đất,
mảnh trôi mênh mang luôn chuyển dời.

Vạn hữu như nhiên tự phân thân.
Sen, lá tự tàn mục nát dần
lặn vào lòng nước bên cội rễ.
dưỡng nuôi mầm mộng búp thanh tân.

Hà Tiên, 1969
CÁT SỸ

LÁ SEN NON.

Búp lá sen non trong lòng đầm.
trong dòng nước lạnh trôi âm thầm,
từ giã bùn lầy nơi gốc rễ,
vươn lên nhìn mây bay xa xăm.

Búp nở mặt xanh đón nắng vàng.
Thân tròn chạm nhẹ lớp bèo hoang,
cùng đám rong rêu, lục bình tím,
làm quen hiền hậu với lác bàng.

Đôi khi mông lung giữa đêm trường,
vô tình lá nõn hứng giọt sương,
mềm mại lăn êm khi gió nhẹ,
lá biếc sương lam thoáng vấn vương.

Lá ru sương buồn điệu lắt lay,
bên nhau qua khuya chờ ánh ngày,
nắng mai soi ấm gọi sương thức,
bốc hơi rời lá theo nước mây.

Lá tròn dưỡng dục búp nõn hoa,
thoảng hương thanh khiết bao chiều tà
Ngó nhìn Tim sen lưu tình Hạt,
yên nhiên trầm tích giữa ta bà.

Hà Tiên,1969
CÁT SỸ

LÁ DONG

Một chiếc lá Dong khô
lênh đênh trên mặt hồ,
thân phủ đầy cát bụi,
phận trôi nổi vật vờ.

Nắng, cong lên thành thuyền.
Mưa, bằng ra bè nghiêng.
Cát Bụi dần buông thả
vào hồn mùa như nhiên.

Bụi lắng xuống đầm lầy,
Cát ôm gốc cỏ cây,
chuyển hóa sang bùn đất
theo dâu bể vần xoay.

Dong chia tay Đất Bùn,
rời Cát Bụi mông lung,
bỏ quên hình bóng Lá,
Rừng xưa xa chập chùng.

Bè Dong trôi lang thang,
bạn cùng đám Lác Bàng,
thân với cánh Bèo dạt,
dưới trời mây mênh mang.

Bến Cát,1962
CÁT SỸ

LÁ RỪNG

Thu sang ru lá vàng bay.
Sương mù gió hú heo mây về trời.
Đồi non cỏ cú im hơi.
Theo dòng suối nhỏ lá trôi xa mờ.

Rừng hoang bám rể đôi bờ.
Lá bay bỏ lại cành trơ trụi buồn.
Lá già héo úa thả buông.
Tả tơi mụt nát bên nguồn gốc xưa.

Lá non nớt tự đong đưa.
Như ngơ ngác trước cây thưa lá dần.
Đâu hay trong cõi phong trần.
Chồi xanh búp nõn tự thân cỗi cằn.

Lá mùa đi ở đôi đằng.
Bay xa về đất giá băng ven trời.
Rơi nằm dưới cội luân hồi.
Rã tan thành bụi nuôi đời cỏ cây.

Lá rừng đâu nhớ tháng ngày.
Nương theo sương gió nước mây bụi đời.
Dù hoa bên lá thơm hơi.
Nhưng đời lá thắm vẫn rời tình xanh.

CÁT SỸ

CHIẾC LÁ MÙA DỊCH

Ngoài hiên chiếc lá vàng rơi.
Chạm vào vách cũ, kẹt nơi khe tường.
Lá thầm nhìn xuống lề đường.
Rêu phong thềm gạch, bụi vương vĩa hè.

Hẻm dài lặng tĩnh vắng hoe.
Không ai qua lại đi về phố quen.
Cách ly, nhà cửa cài then.
Người như kẹt giữa ánh đèn âm u.

Gió chiều thu thổi vi vu.
Ru đưa chiếc lá bay vù xa khơi.
Lá đi bỏ lại bụi đời.
Lìa xa bóng dáng ma hời rình đêm.

Tử vong mùa dịch nhiều thêm.
”Ép không ép một” ép mềm xác thân.
Khắp nơi thấp thoáng tử thần.
Không tàn vì dịch, vì bần cùng thôi.

Lá nương theo áng mây trôi.
Dù vàng úa, vẫn về trời thênh thang.
Người chìm trong cảnh tóc tang.
Dù ly cách, vẫn lệ tràn thấm khăn

Gò Vắp 2021
Đoàn Thuận

CHIẾC LÁ KHÔ.

Lá khô từ cõi nào xa.
Bay ngang hẻm nhỏ chiều tà im hơi.
Bỗng nhiên buông thả không lời.
Bên nền gạch vỡ rã rời hanh hao.

Thân khô cọng héo bàu nhàu.
Đong đưa mỏng mảnh rơi mau nhẹ hều.
Nằm im kế thảm xanh rêu.
Sau cơn gió thổi lêu bêu ngoài trời.

Lá đành ghé tạm góc đời.
Dựa lưng cát bụi dưới hơi sương mờ.
Lìa xa nhánh ngọn non tơ.
Hương mơ hoa mộng mịt mờ rừng xưa.

Một thời vui thú nắng mưa.
Nay như bóng lạ dư thừa chơi vơi.
Thu tàn lá úa vàng rơi.
Lạc loài một chiếc đơn côi lặng thầm.

CÁT SỸ

CHIẾC LÁ THƯ

Chiếc lá vàng bay ngang đời tôi,
như trang thư xưa chiều xa xôi,
mờ phai màu mực, nhòe nét chữ,
khô héo ngày xanh, mùa đơn côi.

Lá vàng in hình bìa phong thư
nhưng không lưu hương dòng tạ từ,
chiếc lá, tờ thư, dần rời rã.
Chuyện cũ người xưa, đâu thực hư ?

Đôi khi vương thầm trên tóc mai,
lá ướt sương rơi lệ trang đài,
chạm lên nỗi niềm, buồn ly biệt
trong cõi tĩnh không, năm tháng dài.

Lá thắm trôi xuôi theo dòng đời.
Bờ hoang, bên kia xuân hoa rơi,
hạ nắng thu mưa đông giá lạnh.
Bến đỗ, bên này một mình tôi.                                  .

Tăng Nhơn Phú,1967.
CÁT SỸ.

THÂN LÁ VÀNG

Lá vàng tựa một cánh chim
nhẹ bay xuống đậu im lìm ngoài hiên.
Ngày nao xa lắc một miền.
Nay bên thềm gạch tịnh yên phố chiều.

Xóm nghèo hẽm vắng đìu hiu.
Một mình chiếc lá ít nhiều đơn côi.
Vàng hoe dáng vẻ bồi hồi.
Nhớ về nhành cội bên đồi xanh non.

Úa màu mặt lá héo hon.
Cuốn cong cọng nhỏ mõi mòn ngóng trông.
Bao mùa theo gió bềnh bồng.
Hương xưa với lá thong dong lưng trời.

Đôi khi một giọt sương phơi,
nằm trên lưng lá cùng rơi xuống đời.
Nắng thơm sương mọng thoảng hơi.
Bỏ quên thân lá rụng rời phiêu diêu.

Tình cờ lá xuống phố chiều.
Nằm bên rêu biếc buồn hiu bên thềm.

CÁT SỸ

LỤC BÌNH TRÔI

Lục bình từng đám lênh đênh.
Nõn xanh bông tím bềnh bồng êm trôi.
Lá già vàng úa bồi hồi.
Che ngang góc rễ thôi nôi một thời.

Sông dài con nước đầy vơi.
Rong rêu chìm nổi tả tơi theo dòng.
Lục bình đâu mãi thong dong.
Hoa tươi lá búp long đong nở tàn.

Đôi khi ghé tạm bờ hoang.
Cùng bàng lác ngủ mơ màng dưới trăng.
Nước trôi bến đậu đôi đằng.
Phao bèo thuyền lá nhọc nhằn bên nhau.

Gió ru cây cỏ thì thào.
Vi vu như thể lời chào biệt ly.
Tiễn đưa sen ngó hoa quì.
Sông xuôi dòng đến biên thùy nào xa.

Chỉ còn tim tím sắc hoa.
Trên màn màu lục nhạt nhòa phong sương.

Cát Sỹ

HỒNG HOANG

Nụ hồng như chúm môi son.
Hôn lên nhân thế núi non phận người
Búp tròn khép nép mỉm cười.
Lặng thầm mộng tưởng thắm tươi duyên tình.

Hồng hoang trước nhịp tử sinh
Hương mơ hoa mộng yên bình như nhiên.
Muôn mùa mây nước lâm tuyền.
Sương sa mờ bóng đào nguyên bên trời.

Hoa hồng chuyển sắc tùy phôi.
Hoa đời tùy phận luân hồi thông dung.
Hồng vàng, hồng trắng, hồng nhung.
Tùy mùa mưa nắng chập chùng sắc hương.

Đài xanh nở trước gió sương.
Tia gai khía lá cánh hường phấn tơ.
Bảo bùng cây cỏ vật vờ.
Hương xưa sắc cũ nhạt mờ theo mây.

Nụ hoa hồng giũa tháng ngày.
Hương bay theo gió heo mây ngang đời.

Đoàn Thuận

MÁI TÓC THỜI GIAN

Thời gian gõ nhịp séc-na.
Tóc xanh theo đó sương pha mái đầu.

Người đời đứng trước bể dâu.
Bên làn cát bụi, dưới màu khói mây.
Mây mưa, đất biến bùn lầy.
Cát chuồi xuống lũng, bụi bay đường dài.

Sao Hôm mong ngóng Sao Mai.
Sao khuya nhấp nháy đêm dài sao rơi.
Sao nào vận mệnh đời tôi.
Mây Hàng lờ lững lưmg trời phiêu du.

Quê xưa thăm thẳm dặm mù.
Mẹ nghèo khốn khổ bao thu lệ sầu.
Mắt mờ thao thức đêm thâu.
Mong con đến buổi bạc đầu chưa nguôi.

Còn tôi lưu lạc ngược xuôi.
Thân nơi cõi tạm ngậm ngùi nhớ thương.
Âm thầm mong ước hồi hương.
Dù cho mái tóc bạc đường thời gian..

Đoàn Thuận

Tôi thành thật cám ơn quí Thân Hữu
đã chúc mừng Sinh Nhật tôi.

Thật ra, tôi không rõ “tôi vào đời ngày nào”.
Sau 1954, “Thế Vì Khai Sanh” của tôi chỉ ghi “Sinh năm 1943”,
không có “ngày, tháng”.(Thực sự, tôi sinh năm Canh Thìn,1940)
Năm  2003, tôi về hưu. Quyết định cho tôi nghỉ hưu lại ghi : tôi “sinh
ngày 1 tháng 7 năm 1943”. (Do đâu lại có “ngày 1 tháng 7” ?)
Năm 2021, Quận Gò Vấp làm “Căn Cước Công Dân” điện tử lại ghi
”Sinh ngày 1 tháng 1 năm 1943”.

Tôi tự nghĩ : tôi như “hoa dại” không rõ phút giây chào đời.

.
MẤY MÙA HOA DẠI.

Hoa mùa chuyển nhựa hồng hoang,
như đời nhân quả tuần hoàn tử sinh,
như ngày khởi tự bình minh,
như đêm buông phút lặng thinh hôn hoàng.

Hạ thu mưa đổ lá vàng,
sầm, sim, huệ, cúc, hồng, xoan, tràm, muồng,
bằng lăng, dạ lý, quế hương
chờ cây thay lộc lạnh sương đông hàn.

Ngàn mai tự đón xuân sang,
anh đào, ngọc điểm, địa lan, sen đầm,
từng đàn én hạc xa xăm,
về ngang động diếc, đồi trâm, rừng dầu.

Bấc nồm ru ngọn sầu đâu,
lưu ly, thiên lý, phai mầu mơ xưa.
cây hoang cỏ dại bụi thừa
tiễn đưa từng cánh lưa thưa hoa tàn.

Hồn nhiên theo bước thời gian
lương duyên sương gió bên ngàn phôi pha.
Tình xanh lá thắm hương hoa
mấy mùa thơ dại cũng nhòa nhạt thôi.

Đoàn Thuận

NHỮNG NHÁNH SÔNG

Những nhánh sông dài âm thầm trôi
gọi mùa xanh biếc từ xa vời.
Ta nghe gió nhớ lùa qua tó
và cả tên người trên đôi môi.

Nước mang theo mùa ra đại dương.
Bao nhiêu hương núi vương tâm hồn.
Cỏ ngàn năm ngủ đôi bờ vắng.
Một áng mây chiều qua viễn phương.

Ta mong chim rừng xa trở lại
khi mùa mưa lạnh một phương người.
Hoa sông cây bến bao lần đổi,
ta vẫn chờ người trong đơn côi.

Những nhánh sông chiều qua đời ta.
Đâu bờ đâu bến ta mong ngóng,
và lũ chim rừng
vẫn bay xa.

Đoàn Thuận

MỘT BẾN SÔNG

Dù thành phố bao lần thay đổi,
vẫn không quên bến nước đò chiều,
nơi em đã qua dòng sông ấy,
cũng là nơi để lại cô liêu.

Xưa, hẹn nhau tìm về đất trọ.
Miền địa lan, một cõi yên nhiên.
Hương thanh khiết tịnh không tên tuổi.
Xa cách đời dâu bể muộn phiền.

Nếu, em về sang bờ bến cũ,
thì xin đừng gọi chuyến đò xưa.
Người đưa đò sớm thành lú lẫn,
và con thuyền mục nát dưới mưa.

Đã khuất nẻo vào hồn cổ tích.
Cỏ hoa tàn mê muội dưới trăng.
Bao lá chết rụng đầy mấy phố.
Cõi hẹn chờ nay đã lạnh băng.

Đoàn Thuận

GA VẮNG

Ta ngồi đây giữa ga truông
chống tay cằm ngó sương buông ngoài thềm.
Một đêm này nữa bao đêm.
Một thân cát bụi đã mềm nắng mưa.

Ga khuya quán lạnh gió lùa.
Đèn leo lét bóng như vừa chiêm bao.
Bây giờ những nặng mai nào.
Nỗi niềm xưa chật hồn bao lâu rồi.

Đường cây bóng đổ chơi vơi.
Tàu đi còi rúc nhỏ hồi tiếc thương.
Xuống đây thức suốt đêm trường.
Một mình phố lạnh, một đường chia ly.

Nghĩ ta bến mộng thầm thì
trót sinh lầm lỡ tuổi chi muộn phiền.

Đoàn Thuận

Ở MỘT GA XÉP

Con tàu mang nỗi nhớ qua.
Nhớ, ta nhớ cả đường xa phố gần.

Không mong, chiều cũng hao dần.
Không mong, người đã có lần quên ta.
Tàu dừng, tàu lại rời ga
Người đi, người để lòng ta lạnh đầy.

Xưa nơi lũng phả sương dầy.
Bên nhau ấm giấc mộng đầy hương hoa.
Giờ nhìn từng chuyến xe qua.
Lắng chuông chùa cổ, ngẫm ra mơ hồ.

Ngồi buồn ngắm ngón tay thô.
Lanh canh ly đá nghe khô khốc chiều.
Còi tàu xa hút phiêu diêu
Còn đây ga xép ít nhiều bụi bay.

Đoàn Thuận

GA CHIỀU

Sương bay nghiêng phố ga chiều
tàu xuôi bỏ dại bóng xiêu bước về
một bờ hoang đá xanh khe
âm u tiếng gõ kiến nghe cuối rừng.

Dã quì vàng suốt mấy thung
người xa buổi nọ chập chùng bao thu
trả cho người phố sương mù
trả cho ta buổi nắng thu mấy trời.
Nỗi buồn ru đến chơi vơi
lặng trong tình cũ một đời xót xa.

Dường như người tiễn đưa ta
về miền đất cũ nhặt hoa phố phường
nụ cười lẫn khuất trong sương
áo bay trắng cuối dặm đường cỏ lau.

Hương mùa thu muộn phai mau
thản nhiên thềm gạch biếc màu rêu phong
tháng ngày tuột xuống mênh mông
bên bờ chiều tạnh tịnh không dấu người.

Đoàn Thuận

CHIỀU TÀN

Ngày trôi bỏ lại bóng chiều.
Bên bờ sông vắng ít nhiều âm u.

Lẫn trong một thoáng bụi mù
Cùng làn gió nhẹ vi vu âm buồn.
Hoàng hôn mở cửa đêm suông.
Đi vào khoảng lặng từ nguồn thinh không.

Sao Hôm thắp sáng ánh hồng.
Soi lên những áng mây bồng bềnh trôi.
Đôi vì sao lạc đổi ngôi.
Nháy trong tăm tối tựa đôi mắt trời.

Địa đàng mây nước buông lơi.
Bao người luân lạc đường đởi ngược xuôi.
Tiễn đưa ly biệt ngậm ngùi.
Tìm nơi ngơi nghỉ buồn vui mơ màng.

Chiều tàn, đêm phủ không gian.
Sương mơ bảng lảng dặm ngàn non yên.

Đoàn Thuận

GIÀ GIỮ TRẺ.

Trẻ đi kèm trẻ tư gia.
Già về kèm cặp miệng già bớt ăn.

Thế nhưng cuộc sống nhọc nhằn.
Đồng tiền mất giá khó khăn mọi bề.
Giáo làng hưu thắp, xa quê.
Đành thêm phụ trội giữ thuê trẻ giàu.

Rồi đây ăn nói thế nào ?
Khi dòng tuổi tác tăng cao thường hằng.
Rụng răng, miệng móm, trán nhăn.
Đất trời để lại vết hằn thời gian.

Xưa mong trẻ sống huy hoàng.
Nay già mơ được yên hàn tĩnh tâm.
Lui vào nơi chốn lặng thầm.
Tự lo thân phận những năm cuối đời.

Đi kèm đi dạy một thời.
Về vườn nhín nhịn đôi lời trong tim.

Đoàn Thuận

LÃO  BÁN BÁNH.

”Bánh mì nóng… mới ra…lò”.
Tiếng rao méo mó rồi nho nhỏ dần.

Người rao dừng lại ngoài sân.
Người mua lối xóm ở lân cận nhà.
Mùi thơm bánh nóng bay qua.
Hương mì như giúp cụ già khỏi rao.

Bà con kẻ hỏi người chào.
Tiền trao không đếm, bánh giao đủ đầy.
Nụ cười móm, tóc trằng bay.
Lom khom kiếm sống qua ngày già nua.

Đơn thân trọ dưới hiên chùa.
Buồn vui tựa ngọn gió đùa hồn nhiên.
Về già bóng đổ ngã nghiêng
Dù từng nghiêng ngã theo phiền muộn xưa.

CÁT SỸ

LÃO BÁN BÁO

“Báo nóng…vừa thổi vừa coi”.
Lão gù ôm báo nhẹ hơi rao dài.
”Xem ngay…báo nóng hổi đây”
”Mua dùm mua giúp thằng này…đi thôi”

Vừa năn nỉ, vừa nghẹn lời.
Lão gầy tóc trắng, áo tơi quần đùi.
Ốm o da dẻ đen thui.
Lòm khòm lụ khụ tới lui lần quần.

Bà con quanh xóm xa gần.
Chờ ông từ sớm đâu cần nghe rao.
Lão nghèo dành dụm từng hào.
Ăn nhờ ở đậu, cháo rau qua ngày.

Tiếng rao “báo nóng hổi đầy”.
Âm thanh hương vị lắt lay lòng người.

CÁT SỸ
Đoàn Thuận

PHỐ  NGHÈO
và TÔI.

Tôi nơi phố cũ hè xưa.
Đi về lá úa lưa thưa rụng buồn.

Đường ray dẫn đến ga truông.
Dăm ba cột điện pha buông đèn vàng.
Phố nghèo hẻm nhỏ dọc ngang.
Mái tôn mái ngói, ẩn tàng rêu phong.

Quán cơm, phòng trọ, hàng rong.
Học trò ở đậu, lao công ăn nhờ.
Dân đen lỡ độ thất cơ.
Nương nhau sống tạm bên bờ đục trong.

Phế nhân, quả phụ, lão ông.
Mồ côi trẻ dại, người không cửa nhà.
Di cư tứ xứ gần xa.
Dù nghèo nhưng vẫn chan hòa nghĩa nhân.

Đôi khi chung một vuông sân.
Dưới trăng ngẫm nghĩ lời dân dã buồn.
Cung đàn nhịp điệu lam thôn.
Hát ru ước vọng tâm hồn an nhiên.

CÁT SỸ

NHỊP CỬA

Gió mưa nhịp nhẹ cửa nhà
Sấm rền vang những âm ba cuối trời..

Thanh trầm gợi nhớ xa xôi.
Trống trường như nhịp từng hồi trong tim.
Trang thư ép cánh hoa sim.
Giấy nằm dưới bụi, ý chìm vào xưa.

Sân trường vắng vẻ dưới mưa.
Mùa hè hoa phượng lưa thưa rụng buồn.
Một người ngồi lại ga truông.
Một người tạm biệt về phương trời nào.

Mùa đi sương gió lao xao.
Ngày xanh áo trắng với bao nỗi niềm.
Cuối đời trong phút lặng im.
Nghe ai gõ cửa trái tim mơ màng.

Đã xa rồi cổng trường làng.
Bao thu để rụng lá vàng biệt ly.

Thảo Điền, 2014
Đoàn Thuận

TRÀ ĐÁ, MỘT LY

Một ly trà đá trong xanh.
rót vào miệng khát cho lành lạnh môi.

Một khi nắng gắt không thôi.
Để không gian nóng phà hơi xuống đầm.
Đá tan ra nước lặng câm.
Cọng trà buốc giá xuống nằm đáy ly.

Thản nhiên mùi vị bay đi.
Chỉ còn chất đắng thầm thì nhẹ trôi..
Vị trà lắng lặng im hơi.
Cùng dăm chiếc lá rã rời sắc hương.

Tưởng như gió thoảng bụi đường.
Nắng phơi khô héo một vườn rau xanh
Quán chiều lữ khách độc hành.
Khát khao một chén nước chanh pha đường

Thế rồi hai vị lạ thường..
Trà thơm đá lạnh nhúng nhường chung ly.
Giúp người giải khát đôi khi.
Trời hanh, một ngụm nhâm nhi mát lòng.

Thảo Điền,2014
Đoàn Thuận

TRÀ NÓNG, SỚM MAI

Tách trà nóng, một sớm mai.
Nhấp môi thấm ướt một hoài niệm riêng.

Nhớ thời theo đuổi bút nghiên.
Tay ôm sách vở qua miền gió sương.
Chân trần từ góc sân trường.
Học hành tập bước vượt đường chông gai.

Bóng ai áo vải áo dài.
Bên nhau mong ước một mai đồng hành.
Mùa duyên lá thắm tình xanh.
Sắc xuân ru giấc mộng lành dịu êm.

Ngày nao thao thức trong đêm.
Dăm trang bút ký ghi thêm chuyện đời.
Thực hư sinh tử đổi dời.
Bao điều nghe thấy dưới trời bao la.

Giờ đây bên cạnh tách trà.
Như nhiên thoang thoảng hương hoa bồi hồi.
Trà thơm pha ấm lòng tôi.
Tịnh yên phả nhẹ thoáng hồi tưởng xưa.

Thảo Điền, 2014
Đoàn Thuận

TỰ BUỒN

Đôi điều biết nói với ai.
Khi mùa thu chết bên ngoài hàng hiên.
Nhiều lần bên cạnh bạn hiền.
Giám đâu tâm sự, sợ phiền muộn thêm.

Để rồi thao thức bao đêm.
Nghe sương khuya lạnh bên thềm rơi rơi.
Lơ mơ, tôi tưởng lệ trời.
Buông theo mây nước xuống đời long lanh.
Giọt sương nào cũng mong manh.
Tan vào cỏ dại rêu xanh lặng thầm.
Nơi nào nữa cõi xa xăm.
Gió ru từng bóng sương mầm lênh đênh.

Tôi khờ, nên rất dễ quên.
Việc đời lạ lẫm không tên khó dò.
Bút lá tre, mực học trò.
Ghi lên trang vở nỗi lo riêng mình.
Thế mà con chữ lặng thinh.
Chẳng cho tôi biết sự tình đã ghi.

Thật ra, tôi rất ngu si.
Không xem, đâu nhớ những gỉ đã quên.
Tự tôi lại thấy buồn tênh.

Đại Học Văn Khoa, 1964
Cát Sỹ

NHỮNG QUÃNG ĐƯỜNG.

Tôi từ Tân Lý La Gi.
Xa quê xa Mẹ, ra đi xa ngàn.

Sáu Say, bến nước đò ngang.
Sông Dinh trầm mặc bên hàng liễu dương.
Đưa tôi lần bước dăm trường.
Bé con dưới bóng bụi đường sương pha.

Giã từ đất tổ quê cha
Bơ vơ khờ dại lạc qua xứ người.
Buồn đau dấu kín nụ cười.
Xót xa trước cảnh hoa tươi hoa tàn.

Tản cư qua cánh rừng hoang.
Bàu Dòi Sao Cháy Bưng Ngang Phò Trì.
Xuôi Nam, Xóm Rẫy Cù Mi.
Bình Châu Xuyên Mộc Phước Tuy Sài Còn.

Năm tư, chia cắt nước non.
Ngu ngơ đâu rõ mất còn đục trong.
Học hành, kiếm sống, chơi rong.
Giữa lòng Hòn Ngọc Viễn Đông một thời.

Bảy lăm, thống nhất đất trời.
Lui về dạy học tại nơi quê nhà.
La Gi La Dạ La Ngà.
Sống cùng huyền thoại Hòn Bà Núi Ông.

Nghỉ hưu, tôi lại phiêu bồng.
Lại rời Tân Lý, vào trong Thảo Điền.
Nơi xưa trọ học bút nghiên.
Bên bờ Rạch Chiếc, một miền tạm cư.

Cuối đời còn mấy năm dư.
Ngẫm trong an tịnh thực hư cõi lòng.

Thảo Điền,2014
Đoàn Thuận

MÊNH MANG.

Thuyền nan rời bờ đi xa xôi.
Người ngồi bên sông bao bồi hồi.
Chờ mong bạn xưa về bến cũ.
Chỉ thấy bèo xanh, lặng lờ trôi.

Mây trời soi gương theo sông dài.
Đâu hay lòng người thầm bi ai.
Mỏi mòn trông ngóng về xa thẳm.
Chỉ nghe mưa rơi, giọt u hoài.

Bao mùa lưu ly hương xa hoa.
Hoa quì bên nương chờ sương sa.
Đưa thoáng hương nhu quay về cội.
Chỉ luồng gió bạt, màu phai nhòa.

Đôi bờ trường giang không đò ngang.
Đôi người chia tay luôn bàng hoàng.
Ước hẹn sum vầy nơi đất trọ.
Chỉ bóng khói sương, buồn mênh mang.

Bến Ninh Kiều, 1968
Cát Sỹ

ĐƯỜNG HOA LƯU LY

Đường hoa lưu ly đi về xa.
Đưa tôi bơ vơ rời quê nhà.
Giữa mùa sương gió miền hoang dã.
Giữa bao hương sắc nơi phồn hoa.

Từ bờ lưu ly đi đôi nơi.
Xuyên rừng, lên non, quanh chân đồi.
Qua đồng, xuống biển, sang phố thị.
Mang tuổi thơ tôi về xa xôi.

Lời hoa lưu ly ngày ra đi.
”Đừng quên tôi” dù đời phân ly.
”Forget me not” khi biệt xứ.
Lòng vẫn khắc ghi tình xuân thì.

Hương mùa lưu ly còn đâu đây.
Dù tôi xa rồi thời thơ ngây.
Nhưng mãi nhớ nhung hương tóc Mẹ,
nhà cũ, làng xưa dưới bóng mây.

CÁT SỸ

THEO MÙA ĐI

Đi theo mùa hoa qua đường trần.
Đôi lần lòng tôi thầm bâng khuâng.
Khi hương vương vấn vai đầy bụi.
Bùn đất nhớt nhầy bám gót chân.

Cây trên non cao luôn lao xao.
Hoa bay theo mây về phương nào.
Còn tôi đường rừng vào xóm ruộng.
Dưới bóng đong đưa những buồng cau.

Trầu cau xe duyên trong thinh không.
Hoa mơ hương nhu trôi bềnh bồng.
Gót son thơ ấu thầm nứt nẻ.
Hư ảo mất còn giữa đục trong.

Thầy cô hiền nhân nơi quê hương.
Dìu vai từng ngày qua sân trường.
Giúp tôi xóa dần bao mê muội.
Tu dưỡng tâm an trước gió sương.

Rạch Chiếc, 1962
Cát Sỹ

THEO ĐƯỜNG HOA.

Đường hoa dẫn dắt tôi đi.
Sầu đâu bên suối, hoa quì dưới thung.
Dại khờ trước cảnh mông lung.
Âm u rừng rú, chập chùng núi non.

Qua bao sáng tối mất còn.
Ruộng nương đưa đón gót son về đồng.
Hái hoa bắt bướm bên sông.
Giữa mùa lúa nước hương đòng đòng bay.

Giã từ trâu cặp trâu bầy.
Xa dần bưng đước, bãi lầy cỏ hoang.
Lò dò vào cổng trường làng.
Tôi ôm sách vở theo đàng bút nghiên.

Lang thang lưu lạc đôi miền.
Làng chài xóm rẫy, bến thuyền sân ga.
Tôi mơ có một mái nhà.
Bình yên trước cảnh ta bà bể dâu.

Rạch Chiếc,1962
Cát Sỹ

MỘT ĐỜI TÔI

Đời tôi lang thang khi tha phương.
Đơn côi bơ vơ bao dặm trường.
Gót chân bám đất đầy cát bụi.
Lầm lũi mưu sinh dưới gió sương.

Thư sinh đi qua nhiều sân trường.
Cù Mi La Gi nơi quê hương.
Cái Bè Bà Rịa Sài Gòn cũ.
Từ thôn quê xa lên phố phường.

Làm thân thầy đồ, nhờ đồng lương.
Không còn phiêu diêu trong đau thương.
Ước vọng quay về miền đất tổ
Dưới mái rêu xưa giữa đời thường.

Đôi khi sầu vương theo đường trần
Chia ly thưa dần bao người thân.
Trường làng xóm ruộng vào xa khuất.
Quê người nhớ Mẹ lòng bâng khuâng.

Thảo Điền, 2014
Đoàn Thuận

SÀI GÒN TRONG TÔI.

Sài Gòn đất phố, tôi du cư.
Từ quê La Gi, sau năm tư.
Thư sinh áo vải vào trọ học.
Tập tành tìm hiểu lẽ thực hư.

Tôi được lớn khôn nơi Sài Thành.
Từ trẻ chăn trâu được học hành.
Được quyền mơ ước làm thầy giáo.
Nhờ sự dưỡng nuôi của dân lành.

Từ đây, từng bước vào cuộc đời.
Dù bao oan trái vùi dập tôi.
Trước cảnh gian truân, vẫn đứng thẳng.
Vẫn giữ tâm an, dù đổi dời.

Thầm mong đi theo đường bút nghiên.
Theo nền giáo dục cùa tổ tiên.
”Nhân bản dân tộc và khai phóng”.
Trong tầm đạo lý của thánh hiền.

Nghỉ hưu, tôi lại vào Sài Gòn.
Sau thời lưu lạc qua núi non.
Trú tạm Thảo Điền, đất trọ cũ.
Tha phương, phận mỏng thân mỏi mòn.

Thảo Điền, 2008
Đoàn Thuận

MẠ LÚA NƯỚC

Bùn ôm hạt giống lúa đồng.
Thả theo nước nổi bềnh bồng mạ non..

Mạ sinh ra lứa lúa con
Nứt mầm lên tép cọng tròn búp xanh.
Mạ nuôi mộng lúa nên nhành.
Lớn quanh bụi rễ trở thành lúa cây.

Dưới trời mưa nắng mây bay.
Vào mùa nước xuống, rễ thay mạ già.
Bám vào bùn đất phù sa.
Mênh mang lúa nước trỗ hoa đòng đòng.

Bèo hoang theo gió trôi sông.
Lúa rài hoa dại hương nồng về đâu ?
Nước đầm rút xuống lũng sâu.
Để bao gốc rạ rụt đầu hanh hao.

Mạ non Lúa Nước ra sao.
Khi đồng khô cạn, đập cao chắn rào.

Cái Bè, 1998
Đoàn Thuận

MƯA XA MƯA GẦN

Mưa xa rồi lại mưa gần.
Hạt mưa rụng xuống từ tầng mây cao.

Mây đêm che khuất ngàn sao.
Mây ngày tựa tấm khăn lau mặt trời.
Mây nương bóng khói làn hơi.
Không trung đủ ẩm thành đời hạt mưa.

Có khi theo ngọn gió đưa.
Phất phơ từng hạt lưa thưa ngoài trời.
Lăng tăng rơi lạnh núi đồi.
Nghe xa tựa nhạc không lời dịu êm.

Có khi y giọt sương mềm.
Rơi trên cát bụi bên thềm nhà hoang.
Tiếng rơi như những nhịp đàn.
Gõ trên phím đá đã vàng sắc rêu.

Mưa xa rĩ rã lêu bêu.
Tự buông trên lá nhẹ hều lâm râm.
Mưa gần nhiễu điệu thanh âm.
Ngỡ bao tiếng thở của âm dương buồn.

La Gi, 1976
Cát Sỹ

NẮNG MƯA

Trời đang nắng bỗng rơi mưa.
Sấm gầm lốc xoáy, gió đưa dông về.
Nắng soi rực rỡ sơn khê.
Mưa bay bạt nước tư bề tầng không.

Trong mưa có ánh nắng lồng.
Long lanh từng giọt sáng trong rụng dài.
Trong tia nắng, bóng mưa phai.
Mờ mờ tựa thoáng u hoài sương sa.

Mưa gần đón bóng nắng xa.
Nhạt nhòa hơi ấm nguồn hoa mặt trời.
Lạnh lùng thấm nước đôi nơi.
Đâu hay nóng bức thầm phơi địa đàng.

El Nino chợt bàng hoàng.
Thiên đình nắng cháy, trần gian mưa dầm.
Nắng phơi từng đám bụi lầm.
Mưa lau mặt núi, thêm đầm đìa sông.

Một ta trọ giữa mênh mông.
Giữa lòng cõi tạm sắc không, bình thường.

Gò Vắp, 2023
Đoàn Thuận

XÓM RUỘNG MỚI

Về thăm xóm ruộng một chiều.
Đồng bằng lúa nước nay nhiều đổi thay.

Ruộng vườn thưa thớt bóng cây.
Đường ngang lối dọc, chợ ngày quán đêm.
Người về đất cũ đông thêm.
Nhà tường gạch ngói, nền thềm đá xanh.

Khuất dần mái lá chòi tranh.
Cầu tre sàn gác kè quanh rạch hào.
Đờn cò vọng cổ hát rao.
Lắng sâu vào chốn xanh xao đước bần.

Nay theo cấu trúc nhiều tầng.
Quan trên biệt thự, nông dân nhà vườn.
Đường xe tráng nhựa thông thương.
Nối liền phố thị nông trường miền quê.

Cảnh đời khác trước mọi bề.
Tôi như khách lạ chưa hề qua đây.

Mỹ Tho, 1990
Đoàn Thuận

NHÀ THƯƠNG XƯA

Nhà thương Chợ Quán cổ xưa.
Năm đầu tạm bợ lưa thưa giường nằm.
Nhờ người từ thiện hảo tâm.
Góp công góp của thăng trầm dựng xây.

Dựa theo kiến trúc phương Tây.
Từ nhà chật hẹp từng ngày rộng ra.
Bệnh nhân đủ loại, trẻ già.
Nhân viên y tế Lang Sa, Ta, Tàu.

Và rồi ba chục năm sau.
Đổi tên thành Viện Bài Lao Ngô Quyền.
Một nhà thương thí rất chuyên.
Ho lao hen suyễn nhiều miền về đây.

Thường dân bệnh hoạn lâu nay,
Thuốc Nam thuốc Bắc qua ngày ốm đau.
Thuốc Tây trị liệu bài lao.
Nhà thương Chợ Quán cứu bao dân nghèo.

Chợ Quán,1964
CÁT SỸ

NGÔI ĐÌNH CỔ.

Ngôi đình cổ nhất Sài Gòn.
Qua bao thế kỷ vẫn còn vẹn nguyên.
Đình Hạnh Thông, một cõi thiền.
Trên gò cây Vắp trong miền hoa soan.

Đình thờ hai vị Thành Hoàng.
Hai vị “Thủy tổ khai hoang” đất vườn.
Đông Chinh Vương, Dục Thánh Vương.
Con Lý Thai Tổ bị vuong triều đày.

Vô Nam lập Hạnh Thông Tây.
Từ vùng An Hội nối dài Hạnh Thông.
An cư cho một cộng đồng.
Xóm làng, vườn tược, bến sông, rạch hào.

Gò cây hoa Vắp trên cao.
Thành làng Gò Vắp sắc màu địa phương.
Chúng sinh thắp những nén hương.
Lập Đình thờ phụng Thần Vương thiên triều.

Gò Vắp, 1964
CÁT SỸ

MIỀN ĐẤT TRỌ

Lăng Ông Bà Chiểu Cần Giờ.
Gò Công Cần Đước Cần Thơ Cái Dồn.

Chương Dương Ông Tạ Vân Đồn
Dĩ An Ông Tố Hóc Môn Bà Nghèo.
Ông Đồn Gò Vắp Rạch Keo.
Hang Trong Cầu Đúc, Cầu Treo Hang Ngoài.

Chợ Lớn Chợ Nhỏ Cây Mai.
Bến Đình Chợ Quán Đồng Soài Hòn Rôm.
Rạch Gầm Bà Quẹo Hồ Tôm.
Bà Đen Cần Giuộc Bà Hôm Phò Trì.

Sông Hàn Núi Bể Cà Ty.
Núi Ông Tà Cú, Cù Mi Hòn Bà.
Hậu Giang Bến Lội Hoàng Sa.
Bình An Thủ Đức, Bà Nà Hạnh Thông.

Bình Châu Phú Quốc Sơn Đông.
An Nhơn, Bà Rịa Hạ Long Thái Bình.
Nam Hà Bắc Cạn Tây Ninh.
Bình An Bình Phước, Đức Linh Đức Hòa.

Phước Tuy Bình Thuận La Ngà.
Lâm Đồng Đất Đỏ Trường Sa Phong Điền.
Đông Hồ Vĩnh Tế Hà Tiên.
Đèo Ngang Động Chú Thừa Thiên Dinh Thầy.

Suối Nhum Mũi Né Mõ Cày.
Cái Bè Cai Lậy, Cái Mây Định Tường.
Bến Tre Rạch Giá Kiên Lương.
Côn Sơn Đồng Tháp Đơn Dương Vũng Tàu.

Kê Gà Đà Lạt Cà Mau.
Suối Muồng Núi Nhọn Mây Tào Tà Mon.
Hố Nai Hòn Trẹm Láng Gòn.
Đa Nhiêm Mũi Điện Ba Son Hồng Bàng.

Rạch Hào Láng Đá Sông Phan.
Thất Khê Đồng Đế,Phan Rang Trãng Bàng.
Gia Lai Xuân Lộc Hội An.
La Ngâu La Dạ La Gàn La Gi.

Nha Trang Ninh Thuận Bình Tuy.
Nhà Bè Cửa Cạn, Củ Chi Bưng Tràm.
Sông Hương Bến Nghé Sông Lam.
Sông Hồng Tháp Bút, Tháp Chàm Núi Dinh.

Bến Thành Bến Ngự Ba Đình.
Hồ Gươm Hà Nội Mê Linh Sài Gòn.

Gia Định, 1969
Cát Sỹ

GÓT CHÂN NGƯỜI

Gót chân đi mãi không mòn.
Từ ngày lững thững bé con dại khờ.
Khi xa tiếng mẹ ầu ơ.
Lò mò từng bước qua bờ đục trong.

Giữa lòng trời đất mênh mông.
Phân chia từng loại cộng đồng khác nhau.
Cho dù thuộc loại người nào.
Vẫn cần đi lại dựa vào gót chân.

Gót son lứa tuổi thiên thần.
Theo chân cha mẹ vào sân cuộc đời.
Chăn trâu ở đợ mồ côi.
Chân trần chân đất gót hôi nhớt nhầy.

Dân nghèo sống tạm qua ngày.
Ngón bè gót nứt chân đầy bọ sâu.
Dép da dép nhựa dép râu.
Đưa người khốn khổ qua cầu mưu sinh.

Người giàu sống dựa tư dinh.
Giầy da cao gót, giầy đinh ống dài.
Guốc hoa guốc mộc, hia hài.
Chân thon gót hạc trang đài kiêu sa.

Bước đi giữa cõi người ta.
Chân không vẫn cứng, hài hoa lại dòn .
Đường cây lối đá rãnh non.
Ai thường bước thẳng chẳng mòn gót chân.

Gò Vắp, 2023
Đoàn Thuận

CUỘC LỮ HÀNH

Đơn thân độc mã lên đàng.
Dò tìm đất trọ bên ngàn bể dâu.

Lần theo từng nhịp vó câu.
Núi cao rừng rậm sông sâu thác gành.
Ngựa nhoài sức kiệt lữ hành.
Yên cương bỏ lại bên nhành liễu tơ.

Đường trần cát bụi mịt mờ.
Gót chân bùn đất bám bờ lội mương.
Quẩn quanh lưu lạc dặm trường.
Làng chài xóm rẫy, ruộng vườn bãi dâu.

Sương sa pha bạc mái đầu.
Mồ hôi nước mắt thấm sâu nỗi niềm.
Nhịp đời khác nhịp trái tim.
Phận người mỏng mảnh nổi chìm trầm luân.

Hanh thông qua bóng gian truân.
Cao sang quyền quý đâu thuần an nhiên.
Địa đàng, cõi tạm du miên.
Ghé qua chờ giấc ngủ yên cuối cùng.

La Ngâu, 1972
CÁT SỸ

MỘT NGẢ ĐỜI

Anh và tôi, dường như, loanh quanh.
Lên non qua rừng về sông xanh.
Nhìn hoa tàn nở nghe chim hót.
Chung đường chưa hẳn đã đồng hành..

Anh từ gia đình cha làm quan.
Tôi từ lưng trâu thân cơ hàn.
Phần số trầm luân cùng dâu bể.
Anh người giàu có, tôi lang thang.

Rong chơi lơ ngơ đôi cung đường.
Đầu đời thơ ngây nơi quê hương.
Rồi anh lên phố làm quan lớn.
Nối nghiệp cha anh sống đế vương.

Sau mùa thư sinh, khi ra trường.
Tôi làm nhân viên, nhờ đồng lương.
Gần gụi bút nghiên nơi làng cũ.
Mong được bình yên giữa đời thường.

Đường qua trăm năm đâu còn dài
Vàng son dung nhan rồi tàn phai.
Tôi, anh, mỗi người đi mỗi ngả.
Chỉ thoáng găp nhau nơi trần ai.

La Gi, 1972
Cát Sỹ

TIẾNG ĐƯỜI ƯƠI

Ganh tôi, anh lại hô hào.
Đánh cho thành thẹo xấu đau cả đời.
Người đau không hẳn là tôi.
Chính cô gái trẻ một thời anh mê.

Cô buồn, đau đớn ê chề.
Đâu còn thiếu nữ đi về trắng trong.
Đã từng muốn chết bên song.
Nhưng dây thắt cổ lại không đành lòng.

Anh quên một giọt tình hồng.
Bỏ rơi cô ấy bên dòng thương đau.
Về nơi phố núi hoa đào.
Trước bao bạn trẻ tự hào đào hoa.

Đâu hay mòn mỏi xót xa.
Người cô yêu dấu vẫn là riêng anh.
Còn tôi là bạn ngày xanh.
Trường làng đèn sách học hành quen nhau.

Lẽ nào trước một nỗi đau.
Im hơi bình thản như bao xác người.
Đánh tôi, có kẻ vui cười.
Thật ra là tiếng đười ươi nhất thời.

Gia Định,1969
Cát Sỹ

MỘT TIẾNG THỞ DÀI

Đá tôi bắng bốt-đờ-sô.
Mắng tôi bằng những lời thô tục tằn.

Anh cầm gậy sắt hung hăng.
Đập trên đá dưới, nghiến răng chửi càn.
”Đồ thằng mắc dịch nghèo nàn”.
”Cấm không được chạm tay nàng tiểu thư”.

Tôi đâu biết rõ thực hư.
Chỉ lo chống đở đòn nhừ bủa vây.
Dù bầm tím một cánh tay,
Vẫn không đánh trả, thôi ngay giận hờn.
Chỉ tan nát một cây đờn,
Một chân bàn viết tróc sơn nứt dài.

Rồi anh chống nạnh rất oai.
Thấy tôi bình thản nhìn hai chiếc giày,
Một chiếc đế gót đã bay.
Một chiếc rách nát, khoen dây đứt rời..

Tôi mời anh đến ghế ngồi.
Mong nghe dạy bảo đôi lời đúng sai.
Nhưng anh cà nhắc ra ngoài.
Chỉ nghe một tiếng thở dài “trời ơi”.

”Tiểu thư”chợt đến, nghẹn lời,
nhìn anh cầm gậy, còn tôi cúi chào.
Nhìn qua như thấm nỗi đau.
Tay em đầy lệ chạm vào vết thương.

Cư Xá Hỏa Xa SG,1969
Cát Sỹ

MỘT MÁI NHÀ

Cung đường cũ gọi tôi về.
Cùng bao kỷ niệm bên lề thời gian.
Ngày nao áo vải nghèo nàn.
Thư sinh sách vở trường làng song thưa.

Nay, tôi tựa mái nhà xưa.
Em cần tránh nắng đụt mưa bao chiều.
Không là bến đỗ cô liêu.
Chỉ như cõi tạm ít nhiều bình yên.

Riêng em dấu kín ưu phiền.
Từ lần dang dở mối duyên tình đầu.
Lẫn trong tiềm thức thẳm sâu.
Đôi khi ẩn hiện nét sầu trên mi.

Dại khờ một thuở xuân thì.
Tôi về học hỏi đạo nghì cha ông.
Em xưa như bạn đồng song.
Giờ thêm mơ mộng bạn lòng mai sau.

Mong em buông bỏ buồn đau.
Giữ tâm an tịnh giúp nhau ở đời.

La Gi, 1969
CÁT SỸ

MỘT BỜ VAI

Cung đường xưa đưa tôi về bên em.
Nhành thùy dương rơi sương trên vai mềm.
Bao kỷ niệm ngày nào vào sâu khuất.
Chuyện bể dâu đâu biết nói gì thêm.

Im lìm thôi, trong em còn bao điều.
Tình đầu đời ly tan dù phiêu diêu.
Vẫn còn đó nỗi đau buồn thương nhớ.
Đâu thể nào buông bỏ theo gió chiều.

Tay trong tay, sao ta còn hoang mang.
Mùa thư sinh hương yêu đà phai tàn.
Thư ép hoa gởi tôi lời từ biệt.
Như xua đi bao nuối tiếc muộn màng.

Nơi vườn hoa, giờ đây, đâu quen ai.
Người xưa đi xa xôi theo sông dài.
Chỉ còn lại bóng thu vàng lá rụng.
Em và tôi nương nhau một bờ vai.

Sài Gòn,1969
CÁT SỸ

MỘT ÁNH LỬA

Ngày xưa chuyện cũ đã qua.
Nỗi niềm tiềm thức phai nhòa lặng thinh.
Tôi mong được sống yên bình.
Dù thân phiêu bạt, bóng hình đơn côi.

Em nay quạnh quẽ bồi hồi,
Ngây thơ trong trắng một thời còn đâu.
Chỉ thầm phiền muộn buồn rầu.
Đớn đau khi mối tình đầu ly tan.

Cung đường xưa lại bàng hoàng.
Rêu phong thềm gạch, cỏ hoang dại đầy.
Bao nhiêu kỷ niệm nơi này.
Lần theo sương khói gió bay êm đềm.

Tôi đâu cần nghĩ gì thêm.
Em về nhóm lửa những đêm mưa buồn.

Nancy,1969.
Cát Sỹ

MỘT NGÓ SEN.

Em về vườn xưa chiều thu phân.
Nương theo đường hoa thăm xa gần.
Ao sen viền cỏ bên khóm trúc.
Ngó tròn búp nõn hương bâng khuâng.

Nơi đây bên nhau thời xuân xanh.
Dâng sen lên cao mơ yên lành.
Vài con chữ chạm trên mặt lá.
Tựa trang lưu bút xanh mong manh.

Hoa tàn pha phôi hương ban đầu.
Mùa đi lưu ly thêm sầu đâu.
Trang sen lưu chữ ngày thơ dại.
Vàng úa nát nhầu dưới mưa ngâu.

Nhà nghèo nương rau thêm hoa màu.
Tía tô rau má bên anh đào,
Hành hương thiên lý sen thầm ngó.
Người xưa tha hương về nơi nao.

Đời khi phân ly khi sum vầy
Hoa buông hương nhu theo mây bay.
Em chợt quay về cung đường cũ.
Tình buồn trầm lắng trong cỏ cây.

Nancy,1969
Cát Sỹ.

MỘT LÁ THƯ

Thư xưa trao tôi ngày em đi.
Tờ bơ-luya xanh trong phong bì.
Xếp giấy che mờ nét chữ ký.
Ép một cánh mềm hoa lưu ly.

Tôi còn lang thang nơi xa xôi.
Sao em đưa chi thư không lời.
Lẽ nào con chữ tự đánh mất.
Lẽ nào lòng tôi tự chơi vơi.

Thời gian trôi qua sau bao năm.
Trang thư không tên đầy bụi lầm.
Màu xanh bơ-luya sang vàng úa.
Chữ ký nhòe loang như vệt bầm.

Phong thư đâu ghi thêm điều gì.
Trừ màu phôi pha hoa lưu ly.
Dù em quay lại cung đường cũ.
Lời thầm chia tay vẫn thầm thì.

Sài Gòn,1969
CÁT SỸ

MỘT THOÁNG HƯƠNG.

Bỏ đi sao lại quay về.
Chuyện xưa tựa một giấc mê muộn màng.

Tôi như chiếc bóng chiều hoang.
Lẫn vào cát bụi địa đàng gió sương.
Bao mùa lưu lạc tha phương.
Dám đâu mơ mộng hồi hương xuôi dòng.

Bên trời bước mỏi long đong.
Thầm mong em được mặn nồng tình yêu.
Nhưng sao, nay gió đổi chiều.
Đưa em về lại cõi hiu quạnh buồn.

Bao điều tôi đã bỏ buông.
Giờ như thêm thoáng vấn vương hương trầm.
Lở về, lở độ ghé thăm.
Xin đừng nhắc chuyện trăm năm vuông tròn.

Ước mong rồi cũng mỏi mòn.
Phủ phàng son sắt mất còn như nhiên.

Cư xá Hỏa Xa SG,1968
Cát Sỹ

MỘT NỖI NIỀM

Em từng xa vắng nhiều năm.
Bỏ tôi ở lại âm thầm quạnh hiu.
Loanh quanh dưới bóng nắng chiều.
Bên chân trời cũ ít nhiều lo âu.

Một mai em sẽ về đâu,
khi say mê mối tình đầu mộng mơ.
Đường hoa phố núi nên thơ
có đưa em đến bến bờ yên vui.

Bao người lo lắng bùi ngùi.
Thầy cô bạn học đâu nguôi lời nguyền.
Mong rằng đèn sách bút nghiên
giúp em thành đạt, an nhiên ở đời.

Tưởng em hạnh phúc lứa đôi.
Đâu hay tan vỡ chia phôi đau buồn.
Thôi thì, em hãy bỏ buông.
Thả niềm phiền muộn theo luồng gió bay

Nancy,1969
Cát Sỹ

MỘT LỜI KHÔNG.

Thình lình em đến thăm tôi.
Bên thềm cư xá, không lời trước sau.
Cầm tay thay một lời chào.
Lặng thinh cúi mặt nghẹn ngào lệ tuông.

Tôi thầm cảm thấy u buồn.
Làm sao thấu hiểu ngọn nguồn bể dâu.
Em như đổ vỡ tình đầu
Chia tay phố lạnh với sầu ly tan.

Hay em sửa soạn sang ngang.
Giã từ bến cũ cùng chàng thương yêu.
Lẽ nào một sớm một chiều.
Mộng đầu duyên phận phiêu diêu mịt mờ.

Tình xanh lá thắm tóc tơ,
Đường hoa xóm núi nên thơ mấy mùa.
Nay em tựa dáng hoa mua.
Tím buồn từng cánh thẹn thùa im hơi.

Vắng xa đã mấy năm trời.
Gặp nhau em chẳng một lời nỉ non.

Nancy,1969
CÁT SỸ

MỘT CUNG ĐƯỜNG.

Bên em chỉ một đoạn đường.
Từ bờ ruộng cỏ đến trường làng xưa.
Dưới nhành dương liễu đong đưa.
Dìu nhau từng bước sớm trưa đi về.

Bút nghiên đèn sách mọi bề.
Xẻ chia học hỏi bên lề phổ thông.
Thầm mong chung một tấm lòng.
Kề vai góp sức đồng song đồng hành.

Một thời trong trắng mong manh.
Ước mơ thơ dại mộng lành về đâu.
Mây Hàng thả giọt mưa Ngâu.
Đông sang thu tận bên cầu chia ly.

Em xa tôi buổi xuân thì.
Đi lên phố núi hẹn kỳ tình yêu.
Anh đào bên nớ hoa nhiều.
Thùy dương lá rụng tiêu điều bên tôi.

Một cung đường ngắn, vậy thôi.

La Gi, 1966
Cát Sỹ

MỘT CHIẾC BÓNG

Em về gặp cuối chiều đông.
Tình cờ không hẹn, không mong dưới trời.
Bên nhau nhưng vẫn đôi nơi.
Nhớ ai em vẫn lệ rơi bồi hồi.

Em cần ở tạm bên tôi,
khi người yêu đã bỏ rơi giọt tình.
Dường như, em giữa lặng thinh
gọi tên âu yếm người tình vắng xa.

Còn tôi như một hiên nhà.
Em ngồi ngóng bóng trời xa lạnh buồn.
Anh đào rụng trắng ga truông.
Đà lạt sương phố mờ nguồn duyên xưa.

Tình đầu đọng giọt âm thừa.
Cùng đôi giọt lệ đong đưa trong hồn.
Và như một thoáng môi hôn.
Phai lời ước hẹn, nhạt son sắt lòng.
………
Riêng tôi, một chiếc bóng không.
Đường trần lặng lẽ với mông mênh buồn.

Cư xá Hỏa Xa SG,1969
CÁT SỸ

MỘT THƯỞ XƯA.
[kính tặng Minh Đạo

ÂM THỪA

Hạt buồn nhuận thấm hồn đời.
Âm thừa giọt lệ không lời chia ly.
Ta theo cát bụi ra đi.
Người về nuối mộng xuân thì một mai.

BÓNG MÂY

Người đi ngày một ngày hai.
Ta chon von đỉnh dốc dài vắng xa.
Lũng rừng sương phả chiều qua.
Nghe heo hút bóng mây và cô liêu.

SÁO DIỀU

Nhớ hoài một tiếng sáo diều.
Hiu hiu lời Mẹ ru chiều buồn trôi.
Xa rồi một thuở thôi nôi.
Tiếng tiêu trúc vẫn bồi hồi trong ta.

HẠ

Những mùa hạ đã đi qua.
Cũng qua đi những tuổi hoa mộng rồi.
Ta gom góp nhớ một thời.
Để hoa phượng thản nhiên rơi đường chiều

Đoàn Thuận

MƯA RU LỤC BÁT
[kính tặng Đinh Văn Nghi]
.

ĐIỆU MƯA RU

Điệu ru lục bát đôi câu.
Âm mưa tiếng gió, lời cầu kinh đêm.
Rêu hoang cỏ dại bên thềm.
Thầm nghe lá rụng êm đềm trên non.
.

LUỐNG CỎ TRANH

Cỏ tranh lấp một lối mòn.
Quanh co theo suối về non cuối rừng.
Nước lùa cát đất ra bưng.
Chỉ còn sỏi đá dựa lưng mưa nguồn.
.

GIỌT MỰC BUỒN

Trang thơ mực đọng giọt buồn.
Tựa màu tim tím hoa muồng tàn phai.
Mưa loang ra thoáng u hoài.
Hương xưa sắc cũ đã ngoài niềm mơ.
.

GIỌT MƯA THƠ

Trong mưa có một giọt thơ.
Rơi nghiêng “lá thắm” trên tờ “tình xanh”
Lưa thưa mưa lạnh lanh tanh.
Lâm râm thơ lắng âm thanh trầm buồn.
.
Đoàn Thuận

SÁCH VỞ CŨ
[kính tặng Lâm Chiến]
_______________________

TRANG NHẬT KÝ

Một trang nhật ký không ngày.
Trên cánh én mỏng đã bay ngang mùa.
Trên màu sắc tím hoa mua.
Trên vô cùng ngọn sóng đùa cỏ cây

TRANG SÁCH CŨ

Những trang sách ám bụi dày.
Bìa con mọt nhấm mất ngày thư sinh.
Đôi dòng chữ vẫn lặng thinh.
Trong hồn người cũ bao nghìn thu mơ.

TRANG BÚT KÝ

Trang đời con chữ câu thơ.
Sắc thanh âm điệu cậy nhờ bút ghi.
Tình người ấm lạnh thầm thì.
Lưu trong lời lẽ vân vi dưới trời.

TRANG VỞ CŨ

Một trang vở thuở đầu đời,
Nằm yên dưới lớp bụi thời gian qua.
Bỗng dưng một buổi chiều tà.
Hồn văn bóng chữ gọi xa lắc về.

Hạnh Thông Tây,2023
Đoàn Thuận

MỘT TRANG THƠ
[Kính tặng Đỗ Quang Vinh]

.
MỘT MÓN QUÀ.

Bạn xa gởi tặng món quà.
Nhắc thầm nỗi nhớ lắng qua tháng ngày.
Thời gian theo gió sương bay.
Nghĩa tình xưa cũ đong đầy trang thơ.
.

MỘT HẠT BỤI

Gió đưa một hạt bụi khô.
Rơi trên trang giấy hàng ô lu mờ.
Lăn theo kẻ tóc đường tơ.
Trắng pha con chữ, lặng lờ thanh âm.

MỘT GIỌT SƯƠNG

Sương đêm ngoài cửa âm thầm.
Giọt từng giọt lạnh vào tâm hồn buồn.
Đôi điều mong muốn bỏ buông.
Vẫn còn thấm ướt lệ nguồn mây mưa.

MỘT LỜI KHUYÊN

Đò ngang sang bến nước xưa.
Lái đò tóc bạc lưa thưa râu dài.
Khuyên tôi đừng ngại trần ai.
”Giữ tâm an tịnh, u hoài sẽ qua”.
.
Hạnh Thông Tây, 2023
Đoàn Thuận

LỤC BÁT BỐN CÂU.
[kính tặng Võ Nguyên]

CÂU LỤC BÁT

Người đi đãi cát tìm vàng.
Tôi còn mê mải về ngàn rong chơi.
Qua con suối vắng tìm lời.
Gieo câu lục bát vào nơi lặng thầm.

CÂU SÁU TÁM

Chợt nghe bấc lạnh câm câm.
Giật mình tóc đã hoa râm lâu rồi.
Tôi qua cồn cát và ngồi.
Chờ câu sáu tám ru lời biển khơi.

ĐIỆU LAM THÔN

Câu hò lục bát chơi vơi.
Lam thôn nước nổi, chim trời reo ca.
Sắc thanh âm điệu quê nhà.
Đưa ta vào dưới bóng hoa bồi hồi.

GỬI MẸ VÀ EM.

Bốn câu lục bát xa xôi.
Gửi Mẹ khúc hát một thời ru con.
Gửi vầng trăng phía sau non.
Lá dương liễu rụng lối mòn về Em.
.
Hà Tiên, 1970
Cát Sỹ

”LỬA ĐÊM MƯA”
[tặng Phan Thanh Hải]

Tình cờ lượm lại tập thơ.
Bên bao rác thối, cạnh bờ tường rêu.

Cầm lên, cảm thấy nhẹ hều.
Bên trong lòng sách, trang đều nát tan.
Đôi con chữ nhạt cuối hàng.
Còn lưu tựa nhỏ ẩn tàng ý xưa.
Ghi về ánh “lửa đêm mưa”.
Trong thời đi dạy xóm trưa quê nghèo.
Mưa qua gác lạnh vắng teo.
Thầm mơ bếp củi nơi heo hút buồn.

Không trên ngọn lửa lái buôn.
Lại nằm trên rác,dưới luồng mưa rơi.
Chữ buồn thơ lạnh không lời.
Chỉ nghe trong tối ma hời nỉ non.

Tân An,1999
Đoàn Thuận.

GIỌT THƠ BUỒN

Trang thơ ném xuống chợ trời.
Chìm trong tiếng rú ma hời u mê.
Tiếng cười hài hước nhạo chê.
Trước con chữ rách, giấy rê nát nhàu.

Giữa thời lẫn lộn vàng thau.
Thơ là thơ thẩn, lời rao thị trường.
Tụng ca xu nịnh đế vương.
Bốc thơm quan lớn, xem thường dân đen.

Nằm bên đống rác, cột đèn.
Vần thơ tiếng Việt thân quen dưới trời.
Lời quê dân dã một thời.
Xẻ chia thân phận bao đời nắng mưa.

Giọt thơ buồn rụng lưa thưa.
Trên nền đất Tổ, hồn xưa Lạc Hồng.
Giọt nào theo gió phiêu bồng.
Giọt nào đọng lại trong lòng xót đau.

Thủ Đức, 2010
Đoàn Thuận

KHÔNG LÀ THƠ.

Tôi không viết sách làm thơ.
Chỉ ghi chú vội trên tờ giấy thô.
Đôi dòng nguệch ngoạc ngây ngô.
Về “điều nghe thấy” ngoài ô cửa trời.

Rất nhanh không kịp lựa lời.
Nghe sao thấy vậy tạm thời chép ghi.
Khi cần thêm thoáng nghĩ suy.
Chỉnh chu ngữ nghĩa, chọn thì, đặt câu.

Đôi khi không thỏa nhu cầu.
Nội dung ý tứ đuôi đầu chưa thông.
Nhưng tình vương vấn trong lòng
Mong chia xẻ với cộng đồng buồn vui.

Đường đời muôn ngã ngược xuôi.
Người đi kẻ ở ngậm ngùi chia tay.
Rủi may sướng khổ dở hay
Sổ tay nhật ký lưu ngày gió sương.

Riêng tôi xa mẹ tha phương.
Bạn thân lưu bút mái trường ngày xanh.
Đồng song đồng nghiệp đồng hành.
Bút hoa lưu niệm mộng lành cho nhau.

Thời gian lặng lẽ trôi mau.
Một giây ghi nhớ, mai sau vẫn còn.
Trăm năm nước chảy đá mòn.
Tâm tình chân thật, sắt son trọn đời.

Không là thơ kẻ xu thời.
Chỉ là tùy bút ghi đời bể dâu…

Sài Gòn, 1969
CÁT SỸ

TRANG THƠ
và  SỌT RÁC.

Ném vào sọt rác thơ tôi.
Người đâu biết được bao lời buồn vui.

Đâu hay trang viết ngậm ngùi.
Nằm chung rác rưởi bùi nhùi tanh hôi.
Trở thành giấy vụn đồ tồi.
Lấm lem nét bút, pha phôi sắc màu.

Lèm nhèm con chữ bàu nhàu.
Cùng bao ý nghĩa lắng vào lãng quên.
Còn chăng như bụi không tên.
Vi vu theo gió, lênh đênh dưới trời.

Tự tôi ghi chú vài lời.
”Những điều nghe thấy”giữa đời đục trong.
Địa đàng, cõi tạm mênh mông.
Thơ thầm lưu lại đôi dòng thực hư.

Giấy, rời khỏi sọt, nát nhừ.
Thơ, quăng vào sọt, tựa thư nghẹn lời.
Lẫn trong bóng tối im hơi.
Ai, người rẻ rúng trang đời câu thơ.…

Gò Vắp, 2018
Đoàn Thuận

TRÀ XANH, MỘT TÁCH.

Sớm mai rót một tách trà.
Tôi ngồi chờ nắng trời xa lên dần.

Cuối đời lụ khụ cù lần.
Trà xanh vị chát thay dần cà phê.
Đâu hay khờ khạo u mê.
Cà phê phin đặc bỏ bê nhạt phèo.

Âm thầm một góc chèo queo.
Ngờ rằng hiu quạnh ăn theo nỗi buồn.
Ngoài hiên đôi giọt sương buông.
Lơ mơ ngỡ bóng nước nguồn phong ba.

Nhâm nhi nghĩ ngợi qua loa.
Ngụm trà không thể xóa nhoà niềm riêng.
Cũng đâu xóa được ưu phiền.
Cho thân phận mỏng tịnh yên dưới trời.

Trà sen thơm tự bay hơi.
Một tôi một tách, không lời chê khen
Dù thời trai trẻ đã quen.
Cà phê, sáng tối, đậm đen pha đường.

Nay tôi tóc rối pha sương.
Vẫn ghiền vẫn nhớ thoáng hương ngày nào.

Thảo Điền, 2014
Đoàn Thuận

VIÊN SỎI
[thơ Haiku]

Viên sỏi bên triền núi.
Vô tình lăn lóc về tịch liêu.
Bỏ quên một giọt chiều.

Vết lăn trầm đơn điệu.
Thinh không lắng đọng thanh âm dịu.
Một khoản phiêu lãng buồn.

Tịnh vắng dấu ngọn nguồn.
Viên tịch vô căn hồn gió bụi.
Đá mòn tròn đắm đuối.

Cõi hằng trụ nguyên khê.
Sỏi nương sương khói, lạc bến mê.
Nơi sơn cùng thủy tận.

Nhẵn bóng một số phận.
Giữa ngấn động cát, triền núi non
Giữa trầm luân mất còn.

Núi Cú,1965
CÁT SỸ

TRƯỚC GIÓ MƯA

[thơ Haiku]

Khi sông suối mỏi mòn
Gió mưa xoay trở hồn cát bụi.

Hóa thạch đời núi non.

Đá cuội giữa mất còn.
Lăn lóc rã rời vào lòng đất

Lắng nước hồ ngọt mật .

Sen ngó ngất mây Hàng.
Buông bỏ bùn non xuống đầm hoang

Trầm tích hương thanh khiết.

Dù nở tàn sinh diệt.
Muôn hoa cây cỏ nơi lâm tuyền

Mầm mộng thầm se duyên.

Yên nhiên cùng vạn hữu
Muôn mùa mưa nắng luôn trường tựu.

Mơ về cõi đào nguyên.

An Nhơn,1962

DÒNG SUỐI
[thơ Haiku]

Suối từ trời cao rộng.
Từ hơi mây bay, từ mưa rơi.
Thả nước xuống núi đồi.

Nguồn họp lưu rong ruổi.
Trôi qua rừng hoang ngàn đá cuội.
Cát lắng bao dòng trong.

Bao cánh bèo bềnh bồng.
Cỏ hoa đôi bờ rong rêu biếc.
Thảo thơm hương nhật nguyệt.

Du dương tiếng chim xanh.
Róc rách hòa âm cùng thác gành.
Nơi rừng thiêng tĩnh lặng.

Suối reo theo mưa nắng.
Ngầm thấm nước rẫy nương ruộng vườn.
Lắng đọng cùng gió sương.

La Dạ,1964
CÁT SỸ

DƯỚI BÓNG MÂY.

Nắng soi mặt nước, hơi bay
Vươn lên thành những áng mây lững lờ.
Mây Hàng vàng bóng trăng mơ.
Mây đen vần vũ mịt mờ bóng mưa.

Hồ đầy sóng nước hương thừa.
Búp sen cọng ngó đong đưa sương mờ.
Gió đưa từng mảng phất phơ.
Trôi qua rừng núi, thẩn thơ về trời.

Từ làn hơi nước chơi vơi.
Thiên đình buông thả mưa rơi xuống trần.
Địa đàng, vạn hữu bâng khuâng.
Người, vai ướt lạnh đôi chân bùn lầy.

Muôn mùa dưới những bóng mây.
Dòng đời chuyển hóa vần xoay luân hồi.

Đoàn Thuận

THƠ XUÔI VỀ XA

Mùa thả sương về lũng
bâng khuâng mấy độ hoa vàng
từ dạo lá nhớ mênh mang,
sao Hôm mong ngóng sao Mai
khi lệ nhòa trong mắt người đi cúi mặt.

Nắng hãy lên trên đồi xanh và trong lòng người,
dù rằng bao đêm vẫn gọi tình xa
về phong tỏa giấc ngủ thiên thần,
dù rằng mối sầu vẫn giăng tơ ngất ngây dại khờ.

Đồi thông vi vu lời thơ biếc và gió,
hãy đàn lên khúc nhạc chiều thì thầm
nơi miền thơ ngây ngày cũ.

Phố sương đêm hoa đăng
hãy thắp sáng tin yêu cho môi ấm và mắt thôi buồn
cùng suối tóc triền miên trên đôi vai ngoan
theo điệu luân vũ chập chùng.

Niềm vui hãy vỡ òa trong trí tưởng
và lãng quên xóa mờ dĩ vãng vô tư cùng kỷ niệm,
ôi kỷ niệm lung linh như sương đồi sớm ven hồ
phút giây bàng hoàng.

Lối mòn vắng hoang cỏ non nhung mượt xanh
và tiếng chim đưa bước người qua muôn bến mộng
(dĩ nhiên, mùa đông vẫn rớt lại đường tơ mong manh
trong đôi tà áo)

Thời gian cùng giông bão
hãy dừng lại cho nụ hôn bất tận giữa đời
và ta chúc người bình yên trong giấc mơ vừa chớm.

Điệu blues xa vắng miên viễn kia
hãy ở lại cùng ta đêm nay
gót giày ta lặng lẽ trên đường cô đơn muôn trùng.

Đà Lạt,1967
CÁT SỸ

HƯƠNG HOA LÝ.

1.
Bất ngờ gặp lại em,
vào buổi chiều cư xá,
bên nhành hoa dạ lý hương.

Vương một thoáng bụi đường
mái tóc hiền vai nhỏ,
chua xót nào không rõ giữa đời em
đã phảng phất nét mi thầm buồn bã.

Em ngồi đó,
như “người yêu bé nhỏ”,
một chút gì gần gụi nhưng xa xăm,
anh nhận ra bằng nỗi nhớ bao năm
giữa khoảng cách chia ly diệu vợi.

2.
Trót bỏ đi, xin em đừng quay lại.
Bởi hoa xưa tàn úa đã lâu rồi.
Bởi tình xanh lá thắm đã pha phôi.
Chỉ xin giữ một tấm lòng thân ái.

Hãy thản nhiên, xin em đừng ái ngại.
Vì đời anh luân lạc đã bao chiều,
mai mốt đây dừng gót giữa quạnh hiu,
nhận cát bụi làm bạn đường chân thật.

Đến thăm thôi, đừng lệ buồn trong mắt.
Cầu mong em cuộc sống mãi bình yên.
Chuyện nắng mưa cho anh được giữ riêng
làm hành lí của kẻ khờ lữ thứ.

3.
Em đi rồi, lưu bút thêm dòng chữ.
Dạ lí hương thơm thoảng trong lòng đêm.

Cư xá Hoả Xa Sài Gòn,1969.
CÁT SỸ

MỘT QUÃNG NGẮN.

Đường đời kỳ hẹn dài bao năm.
Đi về hoàng hoa bao thăng trầm.
Cũng chỉ bên nhau một quãng ngắn.
Rồi chợt hư hao dưới bụi lầm.

Thơ ngây hân hoan buổi hoa niên.
Nụ môi lời yêu lỡ ước nguyền.
Thoáng chốc phôi pha tình mây nước
Theo gió xuân thu lạnh một miền.

Người tặng niềm vui cùng nỗi đau.
Hành trang thiên lý lắm sắc màu.
Tôi đành yên phận trong sương khói.
Cho giọt tình buồn khô cạn mau.

Dưới hoa tôi trọ trong phút giây.
Hương vương nếp áo, mưa bụi bay
Sỏi đá cỏ cây tạm bầu bạn.
Chờ khi từ biệt chốn lưu đầy.

Nancy,1967
CÁT SỸ

NGÀY ẤY


Ngày ấy bên nhau cùng dạo chơi.
Nghe hồn thơ dại bao bồi hồi.
Tóc em che nửa bờ vai nhỏ.
Đôi mắt xanh tròn,ướt mộng môi.

Tôi gửi lòng tôi trong  mơ hoa.
Mây chiều khẽ động chân trời xa.
Cho bao u uất vào sương khói.
Nắng quái mùa xưa cũng nhạt nhoà.

Xin dấu ưu phiền vào nét mi.
Nụ hôn đầu đó buổi xuân thì.
Trên môi ấm mãi hương trinh bạch.
Nhẹ bước ta vào tuổi tình si.

Tôi chợt nghe mùa xuân dần phai.
Chiều bay mây trắng cuối phương ngoài.
Như thầm mong ước ngày hạnh ngộ.
Cùng lá xanh thơm hương tóc ai.

Đừng đưa ngày ấy vào tiêu điều.
Khi đời còn lạnh biết bao nhiêu.
Người ơi, chớ gợi niềm nước mắt.
Tôi sợ tình ta sẽ phiêu diêu.

Sài Gòn,1966
CÁT SỸ

 

CHIỀU HOANG.

Chiều bỏ đi trước trang thư ép hoa.
Vài con chữ nằm yên suốt đêm qua.
Và hạt bụi ngủ vùi trong đất cũ.
Bên thềm hoang loang lổ sắc rêu nhoà.

Chiều bỏ đi về non phía chân trời.
Câu thơ xưa tuột khỏi bờ môi người.
Tơ vàng mỏng chạm lên ngàn tiếng trúc.
Một dòng trôi vô tận cõi không lời.

Chiều bỏ đi leo lét đèn sân ga.
Tiếng võng ru lặng lẽ suốt mùa hoa.
Đêm quánh đặc bóng bờ cây dương liễu.
Ai trở về, ai vội gõ guốc qua.

Chiều bỏ đi con thuyền neo bờ xa.
Đường bên kia còn lại bóng nếp nhà.
Ngàn bông cỏ thức chờ trăng lặng tĩnh.
Phố bên này lẫn khuất giữa sương pha.

Chiều bỏ đi thật xa chỗ ta ngồi.
Khói và tro, từ lửa, đã chia đôi.
Tàn đốm thuốc không đủ soi dòng chữ.
Chỉ bừng lên khuôn mặt thuở xa xôi.

Đoàn Thuận

DÒNG THƯ CŨ

Tôi về đọc lại dòng thư cũ.
Vẫn thấy em xưa mãi thật gần,
như mới dạo chơi trên đường vắng.
Nụ môi còn đọng thoáng bâng khuâng.

Em đã xa tôi mùa mưa ấy.
Hoa ép vào thư đã tàn lâu.
Mà sao cứ ngỡ vừa đêm trước.
Trên lá thư em mực đong sầu.

Em đến đùa chơi rồi đi mãi.
Bỏ lại hồn chiều mùa cát bay.
Bến xuân dòng nước con đò nhỏ.
và lá thư phai theo tháng ngày.

Thư em thuở trước hồn nhiên quá.
Kể cả nỗi buồn cũng hồn nhiên.
Em đi nước mắt thành mây khói.
Tôi với Trương Chi một bóng thuyền.

Lagi, 1968
CÁT SỸ

NƯỚC MÂY
[thơ Haiku]

Tự trời hạt mưa rơi.
Từ áng mây chơi vơi lang thang.
Theo mùa màng nồm bấc.

Thả nước xuống mặt đất.
Tạo hồ đầm ao bưng suối sông.
Biển mặn sóng mênh mông.

Nước ngọt ngào lòng giếng.
Dưỡng nuôi vạn hữu qua biến chuyển.
Giữa cát bụi cõi đời.

Mùa theo thời gian trôi
Mặt nước bóc hơi, nắng hanh nóng.
Đồng khô khốc gió lộng.

Sương khói bóng mây trời.
Luân hồi quẩn quanh thành mưa rơi.
Nước mây cùng một thể.

Cái Bè,1964
CÁT SỸ

 

HẠT SƯƠNG
[thơ Haiku]

Hạt sương trên lá sen.
Hồn nhiên long lanh như chưa quen.
Dù chung đầm hoang vắng.

Sương giọt một chấm trắng.
Dưới nắng loãng tan bóc thành hơi.
Cùng mây Hàng rong chơi.

Trên bầu trời cao lộng.
Hơi sương hơi mây cùng ước vọng.
Mưa lạnh xuống cõi đời.

Lá sen lòng bồi hồi.
Đón hạt mùa xưa, sa mù cũ.
Trong vòng xoay vũ trụ.

Sương lang thang mờ bay
Mưa trời rơi rơi từ hơi mây.
Uyên nguyên hình bóng nước.

Đồng Tháp,1964
CÁT SỸ

 

BỂ DÂU
[thơ Haiku]

Sóng vỗ bờ sâm cát.
Gió tạt đồi dương bay long chong.
Hoa cỏ chợt phiêu bồng.

Nước soi dài dòng suối.
Trôi ngang lau lách bờ đá cuội.
Bồi nên bãi dâu xanh.

Biển tràn qua mặt gành.
Xoáy sâu bỏ dại đầm nước lợ.
Sạt lở cửa nhà nghiêng.

Đò ngang đậu bến thuyền.
Đêm yên liễu rủ che sương hồ.
Ngày mưa mờ bóng núi.

Dâu bể đời cát bụi.
Chuyển dịch luân hồi trong phút giây.
Sắc không một cõi này.

Ngảnh Tam Tân,1964
CÁT SỸ

HOA NIÊN

1.
Em như hoa đến bên đời,
giấu trong áo lụa một thời trăng non,
lẫn hương ngây dại trong hồn.
Yêu hoa, tôi gửi nụ hôn đầu đời.

Hồn nhiên em đến dạo chơi.
Hồn nhiên hoa nở hoa rơi mấy mùa.
Hồn nhiên hương thấm vào xưa.
Hồn nhiên sương gió vui đùa thường khi.

Qua vườn lặng lẽ em đi.
Tóc tơ một thoáng hoa quì bâng khuâng.
Hoang vu lối cũ đôi lần.
Rêu phong cỏ lấp dấu chân bao ngày.

Tình em tựa một bóng mây.
Gió mùa lộng thổi, sầu đầy đôi nơi.
Dặm đời lầm lủi ven trời.
Tôi mong chậm buổi thu phơi lá vàng.

2.
Dấu hài bụi phủ miên man
Vầng trăng quê cũ khuyết tàn bao đêm.
Nhà xưa bóng đổ ngang thềm.
Mùa đi để rụng lá thêm cõi người.

Tôi về, em đã xa xôi.
Vườn hoang cửa khép, không lời biệt nhau.
Mất còn như giấc chiêm bao.

Nancy, 1968
CÁT SỸ

HOA ĐẦU ĐỜI

Bên hoa hồn nhiên cùng rong chơi.
Khi trên sông xanh, đò ngang trôi.
Khi qua đất trọ, tìm nơi ngụ.
Khi vào ga truông, lòng bồi hồi.

Bên hoa thư sinh quanh sân trường.
Trường làng nhà tranh nơi quê hương.
Trường tỉnh mái ngói trong phố thị.
Sách vở bút nghiên lấm gió sương.

Bên nhau buồn vui mùa hoa xoan.
Trang thư lưu hương ngày thu vàng.
Tâm tình mong ước niềm chung thủy.
Dù đời trắc trở cách quan san.

Mùa đi lưu ly sầu đâu rơi.
Màu hoa phôi pha buồn không lời.
Tôi chiều nguyệt quế đêm dạ lý,
Dưới hoa, tưởng nhớ hoa đầu đời.

An Hội,1964
CÁT SỸ

MÙA HOA LƯU LY.

Em xa như quên mùa lưu ly
Mai xanh ti-gôn. chiều dã quì.
Lời ru êm ái đêm thiên lý.
Hương mơ hoa mộng buổi xuân thì.

Còn đâu vườn xưa thời gian qua.
Phong lan bâng khuâng ngoài hiên nhà.
Trinh nữ hồn nhiên cánh khép nép.
Nụ hồng thơm thảo đôi môi hoa.

Hương mùa trôi đi về xa khơi.
Tình người như hoa khi pha phôi..
Tím tái màu buồn đóa sim rụng.
Vàng thu sắc nhớ lá úa rơi.

Hoa dù tàn phai dần trong sương
Niềm đau theo ta đời tha phuong.
Nỗi nhớ còn nguyên trong ký ức.
Dưới hoa bên nhau một chặng đường.

CÁT SỸ
Đoàn Thuận

MÙA HOA và TÔI.

Bao mùa hoa đi qua đời tôi.
Màu phôi pha phiêu diêu về trời.
Hương thơm thảo lặng vào ký ức.
Dù tha phương luân lạc chơi vơi.

Hoa muồng non, xanh tròn thơ ngây.
Không âm thanh nương theo chân ngày.
Đã cùng tôi chăn trâu xóm ruộng.
Thả vui buồn qua đồi cỏ cây.

Bao sân trường, đường hoa không tên.
Lời Thầy Cô thời xưa đâu quên.
Gác hoa xoan, bạn bè sách vở.
Như còn nguyên dù đời gập ghềnh.

Hoa lưu ly, lưu sầu chia ly.
Lời nguyền xanh mong manh ra đi.
Cánh hoa ép, đôi trang lưu bút.
Vẫn vương mang hương tình xuân thì.

Hoa sơ khai rồi hoa tàn phai.
Tôi rong chơi bên hoa đường dài.
Ghé đất trọ tưởng niệm mùa cũ.
Theo hương trầm lần về một mai.

Thảo Điền, 2008
Đoàn Thuận

KÝ ỨC HOA
[thơ Haiku]

*
Hàng cây bến sương mù.
Về đâu xác lá buổi tàn thu
Mầm khát khao lộc biếc.

*
Thoáng hương miền ký ức.
Lối núi tĩnh không tự rơi hoa.
Lặng lẽ màu phôi pha.

*
Thơ ngụ hình trong hoa.
Hương thầm dấu kín vào giấy mực.
Nét chữ mùa xóa nhòa.

*
Một khoảnh khắc xót xa.
Buồn đâu riêng ta trong cõi người
Vô thường tình mây nước.
.
Đà Lạt,1968
CÁT SỸ

 

LÁ THẮM
[thơ Haiku]

*
Chiếc lá vàng khô rụng.
Gió thung đưa tiễn về cuối lũng.
Dù mùa chưa tàn thu.

*
Đồi cây cao vi vu.
Hơi mây mù theo sương lạnh giá.
Phả ướt hoa tàn tạ.

*
Kiêu sa dạ lý hương.
Yên nhiên thơm thảo bao đêm trường.
Bên hoa mua cỏ dại.

*
Bao sắc hình tím tái.
Ái ngại mùa trôi màu phôi pha.
Tươi non dần nhạt nhòa.

*
Lá thắm theo cát bụi
Tình xanh úa héo nơi sông núi.
Tàn lụi vào tĩnh không.

Đà Lạt,1964
CÁT SỸ

TỰ HOA.
[thơ Haiku]

* HOA
Tự nở tự tàn phai.
Dưới hoa tiếng gõ vàng cát bụi.
Hương lửa đâu một đời.

* HƯƠNG
Hương ngủ vùi trong hạt.
Xa hút mùa đi lạc dấu người.
Cõi nhớ hoa tự rơi.

* PHẤN
Trên mặt đất mỗi giây hoa nở.
Ong bướm về dạo chơi.
Phấn hương bay xa vời.

* HẠT
Vô lượng hương trời từ một hạt.
Không người không ta đi.
Không người không ta về.

Sài Gòn, 1968
CÁT SỸ

THOÁNG HƯƠNG
[thơ Haiku]

*
Hoa tàn hoa tự nở.
Hương trời phiêu lãng bao bến mê.
Mùa đi mùa tự về.

*
Dạ lý hương nguyệt quế.

Mơ màng nghiêng khóm huệ.
Búp sen lên ngó ngóng mây Hàng.

*
Cúc dại dột bên ngàn.
Dã quì tứ quí tràn mưa nắng.
Hương sắc thầm trắng trong.

*
Qua xuân hạ thu đông.
Tàn phai lại đơm bông
Gốc cội nảy mầm mong vạn thọ.

*
Sống đời cùng sương gió.
Tình bậu mẫu đơn chẳng hạn kỳ.
Trầm lắng mùa lưu ly.

Dĩ An,1962
CÁT SỸ

HƯƠNG TRỜI


*
Cỏ cây từ hổn mang.
Đục trong còn mất sắc màu đổi.
Mùa ươm hương thời gian.

*
Vạn mùa hương không sắc.
Sông nước vơi đầy bóng hoa rơi.
Hạt ngủ yên bên trời.

*
Bên non trăng tròn khuyết.
Hương gọi mùa bay hoa phai mau.
Mây nước lạnh ngàn sao.

*
Đêm qua hồ lãng quên.
Rụng ánh sao khuya trên ngó biếc.
Sương vỡ màu hương sen.

*
Cành trúc đậu chiều hoang.
Mai xuân từng cánh bay hạt nắng.
Hương khuất sau phai tàn.

CÁT SỸ
Đoàn Thuận

HOA THEO MÙA
[thơ Haiku]

1.
Trăng sao một vòm trời
núi sông một vuông đất
mang mang mây nước theo mùa trôi.

2.
Dưới dấu mùa cỏ cây
nỗi héo hon đâu thấy
chỉ thoáng sương mờ vương vấn mây.

3.
Hạ nắng vàng cây sông
bùn non theo nhựa lên đỉnh ngó
hương sen tràn thinh không.

4.
Rừng giao mùa rớt lá
bên ngàn non thẳm tiễn thu đi
mưa xa chợt thầm thì.

5.
Đông sang bấc lạnh đầy
đàn chim di rét về ngang biển
đồi vắng hoa cát bay.

6.
Xuân không mùa không cũ
non xanh lẩn khuất hương vạn cổ
mai trẩy lá hoa về.

CÁT SỸ
Đoàn Thuận

HOA BAN SƠ

Có một loài hoa không tàn phai
tự nở vu vơ vào tịch mịch
khi mùa chưa biếc trong mắt nai .

Có một loài hoa không sắc màu
từ độ rừng thu quên rơi lá
lệ sớm chưa nhòa trong mưa ngâu.

Có một loài hoa không chân dung
thoáng qua đời tịnh còn phong nhụy
chưa kịp vương hương đã mịt mùng.

Có một loài hoa không buồn vui
yên nhiên như thể chẳng ngày tháng
hóa đá lặng câm giữa núi đồi.

Có một loài hoa đã qua đời
trở về cát bụi trầm luân mãi
để giữa hồn ta dấu hương phai

CÁT SỸ
Đoàn Thuận

MAI VÀNG

Đóa mai nhụy trắng cánh vàng.
Phấn hồng thơm thoảng bên ngàn mơ xuân.
Hương mùa dịu lắng bâng khuâng,
theo dòng hoa lệ thế nhân u hoài.

Mai dù mai một một mai,
thân già vẫn dưỡng miệt mài nhựa nguyên,
đâm chồi nẩy lộc như nhiên,
tình xanh lá thắm xe duyên tự nguồn.

Mưa dầm nắng quái sương buông.
Đài xanh búp nõn cành xuông nứt mầm.
Đời người dài ngắn trăm năm.
Đời hoa một thoáng lặng câm nở tàn.

Thu phai đông tận xuân sang.
Ngàn mai nở rộ hoa vàng hồn nhiên.
Hương mai bay đến đôi miền,
như mong vạn hữu bình yên thái hòa.

CÁT SỸ
Đoàn Thuận

Kinh chúc
QUÍ THÂN HŨU
sang năm mới
BÌNH AN HẠNH PHÚC.

Xuân Quí Mão 2023
Đoàn Thuận

.
LỜI HOA.

Dù ngôn từ có mông lung.
Đất đai vẫn đợi lạnh lùng mưa rơi.
Cỏ cây ươm nhựa không lời.

Để hoa tuyết rụng trắng trời.
Gió đưa về cõi xa vời giá băng.
Mây mờ vương vấn cung Hằng.

Yên nhiên sen nở dưới trăng
Cùng hương ngó ngóng đồng bằng lúa xanh.
Im lìm không chút âm thanh.

Tàn phai một đóa ngọc anh.
Rơi thầm xuống lũng mong manh bóng hình
Hương trầm buông bỏ lặng thinh.

Đêm dài mong ánh bình minh.
Xuân xanh mơ đóa hoa xinh mai vàng.
Đông tàn, mai nở bạt ngàn.

Hoa
cầu vạn hữu
bình an.

ĐOÀN THUẬN

HOA VÀO MÙA.

Hoa mùa vào hạ sau xuân.
Mây Hàng thu tận, sông Ngân đông hàn,

Hạ mưa, phượng vĩ nở tàn.
Nghỉ hè tiếng trống trường làng lặng im.
Đồi xa tím ngát hoa sim.
Bằng lăng tím lịm nổi chìm sông trôi.

Hồ thu, sen ngó bồi hồi.
Xanh rong trong nước, biếc phôi lác bàng.
Búp cao lá thấp bèo ngang.
Lục bình lơ lửng bàng hoàng mong mưa.

Sầu đâu đông xám lưa thưa
Hàng cây trụi lá đong đưa nhánh cành.
Sương mù giá rét lạnh tanh.
Vườn hồng luống cúc mong manh sắc màu.

Xuân về thả giọt mưa ngâu.
Cây rừng nứt lộc dưới bầu trời xanh.
Lẽ nào một sớm nắng hanh,
Chỉ mai vàng nở rực cành chào xuân.

Bốn mùa chuyển hóa trầm luân
Hoa quen cỏ lạ vẫn tuân theo trời.

La Dạ,1972

TUỔI CON MÈO.

Mão mèo khoe trước thìn rồng.
Nằm gần dần cọp giữa vòng giáp can.

Rồng bay theo áng mây Hàng.
Đưa mưa rơi xuống địa đàng lâm râm.
Cọp lên ngôi chúa sơn lâm.
Cùng loài hoang dã ăn nằm gió sương.

Mèo Rừng sống dọc kênh mương.
Rình bắt chuột tí ểnh ương thằn lằn.
Cụp tai tị rắn né trăn.
Sợ đàn chó sói răng nhăn mặt ngầu.

Mèo Hoang lẩn quẩn bên cầu.
Theo bầy nghé ngọ ngựa trâu ngoài đồng.
Trèo leo nằm mọp ven sông.
Chụp chim gặm óc, cắn còng tôm cua.

Mèo Nhà nương dịp hơn thua.
Meo cưng nằm nệm, nhai lùa thịt thơm.
Meo hen theo chủ kiếm cơm.
Khi no lúc đói quen mồm ngao ngao.

Miêu mao hay quấu hay quào
Đời trôi, năm mẹo ra sao tuổi mèo ?

Đoàn Thuận

CON GIÁP TỬ VI.

Mười hai con giáp năm ta.
Chuột trâu rồng rắn khỉ gà chó heo.
Chạy theo cọp ngựa dê mèo.
Thập can thập nhị chi kèo tử vi.

Do đâu chuột dẫn đầu kỳ
để heo ủn ỉn ù lì phía sau.
Cho rồng bay thẳng lên cao.
Trâu cầy ruộng đất hoa màu thâm canh.

Rắn bò lẩn quẩn loanh quanh.
Mèo rình bắt chuột, chó ganh sủa gà.
Ngựa đua phi mãi đường xa.
Cọp gầm nhát khỉ rừng già núi cao.

Từng năm số phận thế nào.
Tử vi đoán giữa trời cao đất dày.
Tuổi nào bất hạnh đắng cay.
Tuổi nào may mắn đủ đầy hanh thông.

Lên mây chỉ có con rồng
Cao sang sao cũng đèo bồng nắng mưa ?
Bầy đàn dưới đất sớm trưa.
Gió sương cát bụi đong đưa tuổi trời.

Mỗi người một phận một thời.
Thăng trầm duyên kiếp luân hồi, thế thôi.

Đoàn Thuận

TUỔI ĐỜI NGƯỜI.

Trăng ba mươi đã về già.
Trăm năm một thoáng bóng ta ven trời.
Thinh không lắng giọt tình rơi.

Đóa hoa nở nụ chào đời.
Chưa tròn tháng tuổi đã rời rã thân.
Hương phai lãng đãng tan dần.

Hằng Nga rời bến sông Ngân.
Sang thăm Chú Cuội nơi vầng trăng khuya.
Ngày lên đêm vội chia lìa.

Rêu non sớm mọc râu ria.
Trên môi đá mẻ, bên rìa miệng hang.
Tươi khô theo nhịp mùa màng.

Tuổi đời vạn hữu lan man.
Trẻ già, sinh tử, nở tàn, tháng năm.
Tùy theo số phận thăng trầm.

Đoàn Thuận

QUA ĐƯỜNG TRẦN

Lắng nghe nói ít nhìn nhiều.
Tự thân hiểu được đôi điều thực hư.

Đời thường hai mặt bù trừ:
vui buồn sướng khổ, thiếu dư mất còn.
Ai người bội bạc sắt son,
dù cùng hẹn biển thề non chung tình ?

Đôi khi lặng lẽ làm thinh.
Ít nhiều thiện ác chính mình nhận ra.
Đục trong giữa cõi ta bà.
Nghe gì tiếng hót tụng ca ngọt ngào.

Thấy đâu hoa cũng buồn đau
khi hương sắc nhạt trước màu thời gian.
Dường như đá cũng bàng hoàng,
khi thân nứt nẻ, cuội hoang dã mòn.

Thầm mong lòng bớt héo hon.
Bước chân mềm mại qua con đường trần.

Đoàn Thuận

GIỌT SƯƠNG BÊN THỀM

Rêu hoang đón giọt sương mai.
Đêm chưa qua hết hiên ngoài lặng câm.
Đôi đàng lạ lẫm xa xăm.
Bỗng nhiên một sớm về nằm bên nhau.

Rêu nay mềm mại xanh màu.
Dù từng vàng vọt hư hao úa gầy.
Dù từng nhìn bóng sương bay.
Ngờ như một thoáng khói mây bụi đời.

Sương mù theo phận làn hơi.
Đông thành loáng nước ngang trời lêu bêu.
Một luồng gió lạnh nhẹ hều.
Lùa sương lăn xuống khe rêu mượt mà.

Rêu rong không để sương nhòa.
Cùng hương trầm ấm, cỏ hoa êm đềm.
Thân thầm ấp ủ qua đêm.
Nào hay trời sáng bên thềm ngày lên.

Bốc hơi theo nắng bồng bềnh.
Sương đâu còn hạt nằm trên rêu mềm.
Đất trời như cách xa thêm.
Sương tan rêu nát, ấm êm hoang tàn.

Đoàn Thuận

BÃO TUYẾT CUỐI NĂM.

Xuân sang năm cũ chia tay.
Sau lưng bỏ lại Đông đầy giá băng.
Lững lờ mây trắng sông Hằng.
Buông lơi hơi nước đôi đằng trần gian.

Cực Nam cực Bắc địa đàng.
Trời cao thả tuyết mênh mang lặng buồn.
Xóm làng phường phố ga truông.
Băng dày đóng kín ngọn nguồn lưu thông.

Hàng cây trụi lá sầu đông.
Âm thầm nứt mọng nẫy vòng đọt non.
Anh đào hé nụ môi son.
Bờ hoa cỏ dại, đá mòn rêu thun.

Lưa thưa những giọt mưa phùn.
Theo làn gió chướng lạnh lùng bay đi.
Trắng trời mấy cõi biên thùy.
Tối đêm khắp chốn thầm thì lo âu.

Núi non bão tuyết bạc đầu.
Bao người nuốt lệ u sầu đón xuân.

An Nhơn, 2022.
Đoàn Thuận

CHẠP

Đông sang tháng chạp lạnh lùng.
Hơi mây sương muối mưa phùn phất phơ.
Năm tàn cây trụi cành trơ.
Rừng mai chớm nụ vàng mơ xuân về.
.

 

ĐÊM ĐÔNG

Đêm đông lạnh giá mù sương.
Từ xa vang vọng tiếng chuông nhà thờ.
Sông dài vắng lặng đôi bờ.
Đôi nhành nguyệt quế cạnh tơ liễu buồn.
.

GIÊNG

Tháng giêng với luống cải vàng
Hoa dăm cánh mỏng chưa tàn phai hương.
Chiều quê nghiêng bóng sau nương
Ta theo sắc cỏ một phương nhớ người.
.

MƯA XUÂN

Mưa xuân mang bụi nước mây.
Lưa thưa sợi mỏng nhẹ bay ngang đời.
Từ mùa đông giá sương phơi.
Dư âm hoa mộng tiếng rơi giọt trầm.

CÁT SỸ

 

CHẠP GIÊNG

Chạp theo hoa nắng hanh vàng.
Mùa đông lắng một chiều tàn khói sương.
Sắc màu trong cõi vô thường.
Thấm vào vô lượng ngọn nguồn dương âm.

Chạp về đầu tháng cuối năm.
Giã từ mười một đêm rằm đã qua.
Ba mươi ngày tuổi, Chạp già.
Chờ Giêng tiếp nối quan hà mộng mê.

Giêng sang gõ nhịp xuân về.
Đôi cành mai muộn bên lề thời gian.
Mây hồng bạt đỉnh đại ngàn.
Cõi đời như lạc lối hoàng hoa xưa.

Mưa phùn phơ phất lưa thưa.
Chồi non lộc biếc đong đưa bên rừng.
Suy tàn mộng ước thịnh hưng.
Đầu xuân mai nở, Chạp mừng tuổi Giêng.

CÁT SỸ

 

NGÀY MỚI

Nắng lên từ lúc hừng đông.
Hé ra thoáng ánh sáng hồng chân mây.
Báo tin mới rạng một ngày.

Tuần hoàn thời khắc vần xoay.
Đêm tàn bóng tối phả đầy xuống thung.
Ngày sang thắp sáng không trung.

Xóa đi u ám mịt mùng.
Xua tan sương muối lạnh lùng núi sông.
Tỏa hơi nóng giữa mênh mông.

Trên cao mây trắng mây hồng.
Dưới đời nắng sưởi ấm lòng muôn dân.

CÁT SỸ

GIAO MÙA

Mùa đời tự có tháng năm.
Trầm luân bao kiếp bụi lầm bể dâu.
Thời gian nhuận thấm sắc màu.

Xuân xanh hạ trắng hanh hao.
Thu vàng đông xám mưa mau lạnh đầy.
Tím chiều đỏ lửa sương bay.

Sét na gõ nhịp phút giây.
Mùa đi giao lại đêm ngày tự trôi.
Cỏ cây thức ngủ bên đồi.

CÁT SỸ
.

SẦU ĐÔNG

Cây trơ trụi lá sầu đông.
Chim di trốn rét phiêu bồng nơi đâu.
Thuyền neo lạnh bến giang đầu.

Không gian tĩnh lặng buồn rầu.
Non cao đồng rộng một màu sương pha.
Đường rừng vắng bóng người qua.

CÁT SỸ

NHỊP MÙA

Gặp chiều trong một dòng sâu.
Nhịp mùa trong gió, bóng màu trong hoa.
Nỗi người trong một nỗi ta.

Xuân về trong thoáng đông xa.
Hạ tàn, vàng lá bay qua thu buồn
Ta về ở trọ một phương.

Trong màu hoa còn bao hương.
Trong mùa em, mắt còn vương nét nhìn.
Trên non, mai nở lặng thinh.

Mùa trôi, trôi bóng hoa xinh
Nước mây lưu dấu hương tình cỏ cây.
Hoa tàn hoa lại nở đầy.

Nắng lên nước bóc hơi mây.
Cho trời thả giọt mưa bay xuống trần.
Bốn mùa gõ nhịp bâng khuâng.

Đoàn Thuận

TỰ BAN SƠ

Lâu rồi hoa nở bên trời.
Cũng lâu hoa rụng tơi bời cuối truông.
Bao lâu hoa của nỗi buồn.

Mây như vân cát mờ sương.
Địa đàng chạng vạng, thiên đường sớm mai.
Thay phiên lơ lửng trôi dài.

Hai màu đen trắng không phai.
Trời không trăng sáng, tối cài muôn phương.
Đêm đen u ám vô thường.

Ngày lên nắng phả đại dương.
Sóng bạc đầu vỗ tang thương mấy bờ.
Phai tàn có tự ban sơ.

CÁT SỸ
.

ĐẤT TRỜI

Cõi này biến hóa không lường.
Sắc không sinh diệt vô thường xưa nay.
Núi sông rừng biển trời mây.

Người đời xuôi ngược đó đây.
Bờ hoa sạt lở, phố mây suy tàn.
Loanh quanh bước nhẹ địa đàng

CÁT SỸ

QUẢNG LẶNG.

Âm thừa chạm đáy cô liêu.
Nghe như hạt lệ khô nhiều tháng năm.
Nhịp buông lơi, quãng lặng trầm.

Âm mưa từ cõi xa xăm.
Rơi mù trên núi, ướt đầm dưới thung.
Cung thương điệp khúc lạnh lùng

CÁT SỸ.
.

THOÁNG NGHĨ.

Ta đâu khác hạt bụi nâu.
Lăn dài vào cõi thẳm sâu tháng ngày.
Đồng hoang đất lở bùn lầy.

Lốc cuồn cuộn thổi cát bay.
Phủ lên lưng nhỏ vai gầy tóc xanh.
Ngây thơ đâu rõ ngọn ngành.

Nghĩ mình phận bạc mỏng manh.
Gió đưa gió đẩy quẩn quanh đường trần.
Lặng thầm nuốt lệ tủi thân.

La Dạ,1968
CÁT SỸ

NGHĨ TRONG ĐÊM

Hiên khuya bóng đổ bàng hoàng.
Ngoài xa tiếng dế ru vàng cỏ cây.

Bao năm về lại đất này.
Ta nghiêng giấc tưởng như đầy khói sương.
Ngây thơ một lối hoang đường.
Để rêu rong phủ xanh hồn thiếu niên.

Ta đi nhặt lấy ưu phiền.
Gửi vào hương cỏ hoa miền hoang sơ.
Ta về ngần ngại bơ vơ.
Tựa ngày xa Mẹ thời thơ dại buồn.

Chim rừng gõ kiến cuối truông,
Nghe như tiếng mõ đêm trường tụng kinh.
Ta và ta, chỉ một mình.
Nhà xưa vườn cũ lặng thinh lạnh lùng.

Đường đời cát bụi mông lung.
Chân người dẫm đạp chập chùng nắng mưa.
Muôn thu mãi vọng âm thừa.
Nghĩ ta cõi tạm đong đưa phận buồn.

Đoàn Thuận

 

THẦM NGHĨ

Đi về trong cõi tháng năm.
Lặng theo bóng mẹ vào thăm thẳm đời.
Giữa mênh mang biển và trời
Ta nghe giọt hát của lời cỏ cây.

Vội cầm thân phận trên tay
Lửa đêm mưa sưởi ấm ngày bé con.
Yêu người giữa mất và còn
Giữa thiêm thiếp nhớ và mòn mỏi quên.

Bỏ chiều về ngóng mai lên
Mấy bông cúc nở vàng bên phố nhà.
Dòng sông nào chảy về xa
Trong thăm thẳm ấy ngẫm ra bóng hình.

Lặng lờ lánh chốn u minh.
Dò tìm lối ngõ tồn sinh ở đời.
Chắt chiu từng giọt mồ hôi.
Từng hơi thở muộn cuối trời phiêu du.

Ra đi từ cát bụi mù.
Quay về dưới bóng âm u bụi đời.

Đoàn Thuận

 

DÒNG LỤC BÁT.

Đôi dòng “Lục bát ba câu”.
Sao ghi hết được mối sầu trần gian.
Sách xưa mối mọt nhấm vàng.

Rách nhầu giấy dó tan hoang.
Án thư nghiên bút miên man gió lùa.
Mực màu tím sắc hoa mua.

”Lời thơ lục bát” thẹn thùa .
Vẫn thầm ghi nhớ muôn mùa quê hương.
Dù cho phả bụi pha sương.

Dù đời dâu bể đoạn trường.
Mãi lưu ân đức cội nguồn Văn Lang.
Ơn Người gầy dựng giang san.

”Câu hò lục bát” dân gian
Lời ăn tiếng nói bốn ngàn năm qua.
Sắc thanh âm điệu quê nhà.

Đoàn Thuận

MƠ HỒ

Có đêm, mưa đổ không thôi.
Nhiều ngày, nắng gắt núi đồi hạn khô.
Đôi khi lại thấy mơ hồ.

Nhớ quên chuyện cũ ngây ngô.
Buồn vui trước cảnh xô bồ dại khôn.
Ngẩn ngơ như kẻ mất hồn.

Ai xa hát điệu lam thôn.
Lời xưa dân dã bồn chồn dưới trăng.
Phải đâu tiếng vọng sông Hằng.

Sao ta cứ mãi băn khoăn.
Người đi kẻ ở, đôi đằng mà chi.
Cho đời lắm lúc chia ly.

Trăm năm như một hạn kỳ.
Chết già chết yểu, chết khi rã rời.
Lẽ nào số mệnh chơi vơi.

Mơ hồ một cõi đất trời.
Mơ hồ một phận bụi đời gió sương.

CÁT SỸ

TỰ BIẾT

Xa người, ta nhận ra ta.
Nghe hương gió sớm, biết hoa đang tàn.
Vắng buồn mấy nẻo quan san.

Lầu xưa khuất cánh hạc vàng.
Lời thơ chiều vọng qua ngàn năm sau.
Cố nhân nay ở phương nào.

Một mình dưới ánh trăng sao.
Âm thầm tự hỏi có bao lời thề.
Nhận ra ta lắm ngô nghê.

Nơi nào bến mộng bờ mê.
Đường trần trước mặt bốn bề chông gai.
Còn ai dìu bước dặm dài.

Còn đây một nỗi u hoài.
Cầu mong buông bỏ ra ngoài thời gian.
Dù ta tự biết chưa an.

Đoàn Thuận

 

TRANG VIẾT BỎ QUÊN.

Một trang viết bị bỏ quên.
Trong lô sách báo kẹt bên gốc sàn.
Mốc meo theo bước mùa sang.

Nằm im dưới lớp bụi vàng.
Dòng văn con chữ mơ màng rã riêng.
Lời như trầm mặc du miên.

Ý tình mộng mị ảo huyền.
Khuất vào bóng mực hồn nhiên nhạt nhòa.
Màu loang lốm đốm chúm hoa.

Trang đời lỡ dở bút sa.
Lờ mờ một thoáng xót xa u buồn.
Niềm đau đâu rõ ngọn nguồn.

Thời gian tự nó bỏ buông.

An Nhơn,1962
CÁT SỸ

 

MỘT MÌNH.

Ta một mình giữa đám đông.
Muôn bàn tay vỗ nhưng không nụ cười.
Tiếng ồn lấn áp tiếng người.

Nghe xa tựa giọng đười ươi.
Như giông tố dập hoa tươi nát nhàu.
Nơi nao lặng lẽ niềm đau.

Đông không đồng điệu bên nhau.
Độc quyền ca tụng, tự hào hoan nghinh.
Dân đen lùi lại làm thinh.

Đó đây lắm kẻ rập rình.
Vỗ tay đâu thấy sự tình điêu linh.
Đâu hay ngụy biện vô minh.

Người đông, ta vẫn một mình.
Đồng hành không hẳn đồng tình, vì đâu.
Cô đơn trước cảnh bể dâu.

Đoàn Thuận

 

TÔI KHÔNG SÁNG TÁC.

Tôi thường ghi lại đôi lời.
Về điều nghe thấy giữa đời đục trong.
Về bao du tử long đong.
Về thời mây khói, cầu vồng, bể dâu…

Đơn côi trôi nổi về đâu.
Rừng thu ru mãi những câu hú buồn.
Con dân phiêu bạt lệ tuôn.
Tôi mong được hiểu cội nguồn quê hương.

Quí nhân dẫn dắt vào trường.
Làm quen con chữ, văn chương, đạo nghì.
Dạy tôi phương thức chép ghi.
Về chân thiện mỹ theo qui luật đời.

Tôi không sáng tác đùa chơi.
Bút lưu mực thấm trang rời pha phôi.
Nhà thơ xu nịnh chê tôi.
Đồ thầy phản động, rác hôi, mọi hời.

May sao con chữ thay lời.
Vẫn thầm lưu chuyện đất trời thực hư.

La Gi,1994
Đoàn Thuận

 

DU TỬ

Xa quê, chạy giặc tản cư.
Vào sâu rừng thẳm, đêm hư ảo buồn.
Cha nằm tắt thở bên truông.
Nỗi đau ly biệt, Mẹ tuôn lệ sầu.

Đời trôi theo cuộc bể dâu.
Nhà tan vườn nát, một màu tang thương.
Tôi như du tử tha phương.
Bao mùa xa Mẹ, xa trường làng xưa.

Dặm trường dầu dải nắng mưa.
Lang thang bến nước liễu thưa sông dài.
Dạt vào rẫy lúa nương khoai..
Nghe chim khách hót u hoài rừng hoang.

Phiêu diêu, gió hú bạt ngàn.
Non sông khói lửa, đôi đàng phân ly.
Rời rừng lần bước kinh kỳ.
Tìm đường học hỏi đạo nghì tổ tông.

Tứ Bần, du tử long đong.
Phà ngang, ga xép, phố đông, xóm nghèo.
Cơ hàn, côi cút, gieo neo.
Giúp nhau thoát nạn, mang theo mộng lành.
Dù cho số phận mỏng manh.

Rạch Chiếc,1962
CÁT SỸ

 

“THẰNG CÀ ”

Bé Cà không có cửa nhà.
Mồ côi cha mẹ, lân la qua ngày.
Ngu ngơ bụi phủ thân gầy.
Ăn xin, ngủ chợ, hát hay, hơi buồn.

Thế rồi, có một lái buôn.
Bán người giúp việc cho nguồn ga-ra,
Cụ ông mua nhận nuôi Cà.
Ban đầu học chữ, sau qua học nghề.
Xuất thân từ trẻ nhà quê.
Nổi danh thợ giỏi chuyên về xe hơi.

Bổng nhiên hai gã tay chơi.
Đánh Cà nát miệng thành đời cà lâm.
Xương quai hàm gãy lặng câm.
Đường về âm phủ Cà nằm chờ đi.

Nhưng trần gian cũng diệu kỳ.
Giáo sư ngưới Nhật cứu nguy cho Cà.
Đất trời Nhật Bản bao la.
Mong Cà về với mùa hoa Anh Đào.

Gia Định,1964
CÁT SỸ

“THẰNG QUÈ”

Quê, thân nghèo mạt ngu ngơ.
Hái rau bắt óc bên bờ ruộng quê.
Không nhà không chốn đi về.
Thập thò ở lén bên lề chuồng trâu.

Chủ nhà bắt được, gõ đầu.
Cho vào thế chỗ chăn trâu thay mình.
Quê quì lạy tạ lặng thinh.
Vì thôi không phải lội sình mò cua.

Cỡi trâu quanh ruộng lúa mùa.
Bạn cùng hoa súng hoa mua hoa muồng.
Từ lâu chẳng rõ ngọn nguồn.
Mẹ cha vắng lặng giữa muôn tiếng cười.

Nhà bên, cô gái xinh tươi,
Thường hay han hỏi chuyện người gần xa.
Và rồi có một đại ca.
Đập Quê nát gót, thành ra “Thằng Què”.

May sao ông chủ không chê.
Thằng Què được phép lết lê tưới vườn.
Dường như trời đất còn thương.
Cho Quê sống tiếp đoạn đường đau chân.

Gia Định,1964
CÁT SỸ

“THẰNG THỐI”

Bá, nghèo nên dọn rác phân.
Nguồn vui sống tiếp đời cần lao thôi.

Phân người không thối cũng hôi.
Bình thường như chuyện đổi ngôi sang hèn.
Khai thơm, dơ sạch, đỏ đen.
Đại tiện tiểu tiện làm quen bồn cầu.
Che mồm bịt mủi ngẩng đầu.
Nghe phần nát rữa lùa sâu xuống hầm.

Thế rồi giữa một đêm rầm.
Hai chàng công tử dao cầm trên tay.
”Lôi đầu Thắng Thối,ra đây”.
Đánh cho một trận, máu bay đầy nhà.

Bá đành chống nạn đứng xa.
Nhìn người thế chỗ dọn chà cầu tiêu.
Nghĩ mình số phận hẩm hiu.
Làm nghề dọn rác cũng nhiều khó khăn.

Lẽ nào nơi bến sông Hằng.
Có ai giành ngắm bóng trăng dần tàn.
Bá mong cuộc sống bình an.

Gia Định,1964
CÁT SỸ

 

TIỂU BẦN

“Tiểu bần”, đứa trẻ nghèo nàn.
Ngây thơ đói rách dung nhan quê mùa.
Ngủ nơi xó chợ hiên chùa.
Ăn nhờ từ thiện, bao mùa tựa nương.
*
Đứa qua đám ruộng bờ mương.
Mò cua, mót lúa, tìm đường nuôi thân.
Chân bùn vai bụi đầu trần.
Chăn trâu chăn vịt, lần quần nắng mưa.

Đứa đi kiếm việc dư thừa.
Thối hôi đơ bẩn, thuê chưa ai mần.
Người chê gớm ghiếc, ngại ngần
Trẻ không cơm áo rất cần làm thay.

Đứa đi xin việc từng ngày
Rửa xe, cào dọn nhớt nhầy ga-ra.
Tưới cây, nhổ cỏ vườn nhà.
Tay sai lặt vặt trong gia đình giàu.
*
Tuổi thơ từng bước qua mau.
Đâu hay số kiếp phận nào tiếp theo.
Dù cho sống một đời nghèo.
Chỉ cần thoát khỏi gieo neo đọa đày.

Buồn đau gửi gió mây bay.
”Tiểu bần” mong mỏi tháng ngày ấm no.

Gia Định,1964
CÁT SỸ

 

THĂM GÁC TRỌ NANCY
[Thân tặng Ngọc Sơn và Hữu Khổ]

Lưu lạc, nay về gác trọ xưa.
Nancy hẻm nhỏ, cạnh song thưa.
Đây hành lang gỗ đêm trăng lạnh.
Kìa mái nhà tôn chiều tạnh mưa.
Văn Nhiệm, Ngọc Sơn mê đọc sách.
Tiến Hùng, Hữu Khổ thích bông đùa.
Mỗi người một vẻ làm ta nhớ.
Sách vở đèn khuya đã mấy mùa.

Đoàn Thuận
.

NHỚ BẠN
Bên tách cà-phê ngồi một mình.
Vườn mai đợi nắng ấm bình minh.
Nghe chim khách hót trên cành trúc.
Nhớ tiếng cười vui thuở học sinh.
Gác trọ chiều mưa câu chuyện phím.
Đường hoa áo trắng mối tâm tình.
Ta nay tóc bạc còn lưu lạc,
Bạn khuất thầy xa núi lặng thinh.

Đoàn Thuận

 

”TỨ BẦN”

”Tứ Bần”: Bá Thuận Quê Cà.
”Bốn chàng nghèo mạt”, xa nhà lang thang.
Ngô nghê trước bóng địa đàng.
Tìm nơi trú tạm dưới làn khói sương.

Cõi đời mù mịt bụi đường.
Mỗi người một phận, khó lường đục trong.
Chàng nào cũng mộng thong dong.
Nhưng rồi có lúc long đong buồn rầu.

*
Quê qua xóm ruộng chăn trâu.
Làm thêm vườn tược, trồng rau trồng cà.
Chiều đi chăm sóc vườn hoa,
Đồng lương phụ trội gấp ba bình thường.

Thuận mong được đến sân trường.
Lưng trâu từ biệt, theo đường bút nghiên.
Giúp già giữ trẻ kiếm tiền.
Đi lên đại học, có quyền ước mơ.

Chà mồ côi sống bơ vơ.
Lao công phụ thợ, ở nhờ ga-ra.
Học mò sửa được xe nhà.
Vào trường Phú Thọ, chuyển qua học nghề.

Bá chuyên làm mướn làm thuê.
Đổ phân hốt rác, khuân bê phụ hồ.
Đôi khi buộc phải chạy xô.
Không cần lười biếng, tốn mồ hôi thôi.

*
Bần hàn rồi cũng pha phôi.
Gió hiền ru nỗi bồi hồi du miên.
Tứ Bần quên lãng muộn phiền.
Giúp nhau tìm phút an nhiên giữa đời.

Gia Định,1964
Cát Sỹ

TRƯỜNG LÀNG XƯA.

Một mùa phượng vĩ nào xưa.
Mênh mang hương dịu dưới mưa chiều tà.
Vương buồn kỷ niệm đã qua.

Ta thầm nhớ mái trường xa.
Thầy cô bạn học đường hoa hạ tàn.
Một thời sách vở sang trang.

Giã từ xóm học bàng hoàng.
Ta như du tử lang thang cuối trời.
Xa quê xa Mẹ xa khơi.

Bao đêm khuya lạnh sương rơi.
Ánh đèn lưu bút nhắc lời chia ly.
Nỗi niềm xưa mãi thầm thì.

Đoàn Thuận

Quí Thân Hữu kính thân.

.
Vừa rồi, tôi có đưa lên facebook bài lục bát “Thằng Thẹo”. Thằng Thẹo là một cậu trong nhóm “Tứ Bần”, gồm có Cà, Quê, Bá và Thuận. Tôi xin phép được nói thêm như dưới đây, mong quí vị thông cảm. .
Sau 1954,nhiều người nghèo khổ,”mù chữ”, tìm cách lên tỉnh thành kiếm việc làm và đi học. ”Dân Phố” gọi những người này là “Dân Ruộng”.
Các cậu “công tử”, con của gia đình giàu có uy quyền, thường khinh khi chế nhạo, đánh đập những cậu “nhà quê” “bần cùng”,”thấp cổ bé miệng”, như  nhóm “Tứ Bần” chúng tôi. Cà được gọi là “thằng Cà Chớn”, Quê là “thằng Què”, Bá là “thằng Bồn Cầu’, và Thuận là “thằng Thộn”, “thằng Mọi”, “thằng Thẹo”…Mỗi tên đều liên quan đến một sự việc đặc biệt .
Cà là người giúp việc cho một ga-ra gần chợ Nancy và học trường Phú Thọ, rất đẹp trai. Một hôm, bốn chàng công tử đánh “thằng Cà Chớn” đến bất tỉnh, nằm bên cổng trường. Một giáo sư người Nhật đưa Cà đến bênh viện Saint Paul để chữa trị. Khi xuất viện, Cà không nhai được vì hàm răng dưới bị tách khỏi xương quai hàm.Giáo sư nhận Cà làm con nuôi vì Cà mồ côi cha mẹ từ thời Pháp thuộc. Năm 1964, từ Nhật, Cà về thăm quê và gặp lại nhóm Tứ Bần ở Cité Talence. Tại đây, chúng tôi nhắc lại nhiều kỷ niệm buồn vui, trong đó có chuyện bị các “công tử” đánh đập tàn bạo.Cà bị mất nguyên hàm dưới, thành “thằng Cà Chớn”. Quê bị đập nát chân phải, thành “thằng Què”. Bá bị đánh gãy bốn xương sườn khi đi dọn cầu tiêu cho một nhà “quí tộc”, thành “thằng Bồn Cầu”. Riêng Thuận, Cà bắt phải viết vào tập tùy bút cùa Cà về chuyện “Thằng Thẹo”… Đầu tháng 11 năm 2022, Dovica (tức Cà) từ Nhật, qua internet, gửi cho Thuận năm bài [đã viết trong lưu bút 1964] và dặn Thuận phải đăng để tưởng nhớ ngày qua đời của Bá. Tôi chọn đăng bài “Thằng Thẹo”.

Đã hơn nửa thế kỷ qua, kể từ 1964,những bài tùy bút nói trên, đối với Tứ Bần, chỉ là một lưu niệm, không mang ý nghĩa trách móc ai oán , mà đã buông bỏ gần như tất cả. “Tứ Bần” là Bốn người Nghèo. Không phải chỉ có bốn anh em chúng tôi là nghèo và bị khốn đốn. Nhưng chúng tôi kết thân với nhau ví có một điểm chung: “Ai làm gì là việc của họ. Ta phải ẩn nhẫn chịu đựng và tìm ra con đường sáng tỏ để tồn tại…” Nay, Bá ”không còn”, nhiều Bạn Cũ muốn tôi đăng “Thằng Thẹo” để tưởng niệm Bá vì Bá rất thích bài này.Bá thường nhắc tôi:”Sư Thầy dặn Thuận phải theo mùa bút nghiên. . .nhớ đó”.

Rất mong quí vị thông cảm.               .

Gò Vắp, 2022.                                     .
CÁT SỸ.

“THẰNG THẸO”

1.
Đâu ai xấu xí như tôi.
Má trái đầy sẹo lại hơi méo mồm.
Gẫy răng nếu sụm móm xồm.
Nghĩ mình dị dạng khó dòm khó coi.

Tôi đành ôm phận lẻ loi.
Lui vào góc khuất, ở nơi vắng người.
Khi nghe có tiếng đười ươi.
Như lời chế nhạo chê cười thảm thê.

”Này thằng thẹo, chúa nhà quê”
”Không ai xấu tệ gớm ghê như mày”

2.
Năm tôi lên tỉnh tìm Thầy,
Để thêm chữ nghĩa, bớt ngày u mê.
Nhà nghèo, đi học xa quê.
Ăn nhờ ở trọ, làm thuê kiếm tiền.

Một hôm, bạn gái láng giềng
tặng tôi chiếc cặp còn nguyên chưa dùng.
Bổng nhiên, một cậu anh hùng
đấm tôi rách mặt, đá vùng háng mông.

Chỉ nghe bạn gái khóc ròng
nhờ Sư Già cõng tôi rong về chùa.
Sư rằng: “buông bỏ hơn thua
tận lòng ẩn nhẫn theo mùa bút nghiên”.

Chuyện làm đau xót Mẹ hiền.
Nhớ con khuôn mặt chữ điền dễ thương.
Nhưng sao rách xước dị thường.
Khuyên tôi về lại ruộng nương quê nhà.

3.
Vết thương thành sẹo ngày qua.
Nỗi đau nhức nhối cũng pha phôi dần.
Nhưng tôi vẫn cứ ngại ngần.
Nhớ Sư dạy phải dự phần bút nghiên.

Bất ngờ, tôi gặp bạn hiền.
Tiểu thư đài các hồn nhiên chân tình.
Sống yên trong một tư dinh.
Giúp tôi kèm trẻ gia đình, lương cao.

Thế rồi, chỉ một tháng sau.
Hai chàng công tử cầm dao tuốt trần.
Một chàng đội nón quân nhân.
Cấm tôi không được đến gần tiểu thư.

Cho ăn một trận đòn nhừ.
Tôi không đánh trả, né đừ thoát thân.
May sao tránh được tử thần.
Sau ngày lành bệnh, tôi cần bỏ đi.

Ba năm trở lại kinh kỳ.
Mới hay bạn cũ đã đi tu rồi.
Đến thăm, chỉ thấy lệ rơi.
Như thương tình thắm một thời bên nhau.

Vết bầm trên má phai màu.
Vết thương trong nỗi buồn đau vẫn còn.

Gia Định,1964
CÁT SỸ

 

HOA KHÓI

Chiều ngồi thả khói qua đêm.
Bóng sương hư ảo gợi thêm dáng người.
Lửa tàn đốm thuốc lên hơi.

Người đi không nói một lời.
Mối sầu hoa khói muôn đời thẳm sâu.
Cuội tròn lăn khuất về đâu.

Bờ xa u ám một màu.
Đèn chài nơi bến giang đầu lạnh tanh.
Ta đành làm kẻ độc hành.

Một thân, một phận mong manh.
Lò mò từng bước loang quanh đường trần.
Mong ngày hạnh ngộ thân nhân.

Từng làn hoa khói phai dần.
Từ tàn đốm thuốc, từ phần sương sa.
Từ mờ mịt giấc mơ hoa.

Đoàn Thuận

 

ÂM DƯƠNG

Dương âm ấp ủ đất trời.
Mây mưa nam nữ lứa đôi ân tình.
Nguồn cơn nên cuộc nhân sinh.

Địa đàng dưới bóng thiên đình.
Dương trần âm phủ, tử sinh nở tàn.
Trầm luân chuyển hóa tuần hoàn.

Đêm ngày sáng tối, thời gian.
Gần xa cao thấp, dọc ngang dặm ngàn.
Sắc không muôn thuở mênh mang

Phôi thai tạo một noãn hoàng.
Âm cùng dương khởi nhân gian kiếp người.
Ngắn dài tiếng khóc nụ cười.

Cỏ cây héo úa, xanh tươi.
Rừng hoang thú dữ, đất người hiền nhân.
Dương sinh âm tận vô ngần.

Đoàn Thuận

 

NGỘ

Thích Ca bảy bước sen hoa.
Chín năm vách núi Đạt Ma định thiền.
Một đời ta chẳng được yên.

Dù hằng mơ ước an nhiên.
Thường ngày tu tập muộn phiền bỏ buông.
Nhưng rồi vẫn phải u buồn.

Đêm nghe gió hú đầu nguồn.
Lá khô cát bụi cuối truông bay mờ.
Điều gì chạm lạnh giấc mơ.

Bến mê khựng lại ven bờ.
Đường trần mỏi bước bơ phờ một ta.
Sen tàn biết mấy mùa hoa.

Dựa lưng cõi tạm ta bà.
Trăm năm không thể chờ ta ngồi thiền.
Dù là một phút linh thiêng.

Đoàn Thuận

 

NIỀM RIÊNG.

Dường như hạnh phúc giống nhau.
Mỗi người nhận một nỗi đau riêng mình.
Buồn vui hiện hữu dáng hình.

Trước rừng, đá núi lặng thinh.
Lắng nghe lá thắm ru tình xanh non.
Đâu hay gió thổi mất còn.

Nghĩa tình ước nguyện sắt son.
Trăm năm bia đá không mòn tuổi tên.
Dù đời lúc nhớ khi quên.

Thân cô phận mỏng lênh đênh.
Lò mò từng bước gập ghềnh thẳm sâu.
Âm thầm nuốt lệ u sầu.

Ngược xuôi nghiệt ngã về đâu
Người qua bể khổ ruộng dâu điêu tàn.
Kẻ ngồi trên đỉnh giàu sang.

Rã riêng, tàn mạt, huy hoàng.

Đoàn Thuận

 

GIỌT TRẦU ĐỎ

Vệt trầu đỏ giọt tháng năm.
Mẹ đi bỏ lại lặng thầm phía con.
Lửa buồn lay lắt trên non.

Con về lần bước lối mòn.
Nôi xưa thuở nọ đâu còn ai ru.
Chỉ còn hương khói âm u.

Mẹ đi về cõi thiên thu.
Lệ rơi nhớ Mẹ, con u buồn nhiều.
Lẽ nào tiếng khóc phiêu diêu.

Nước trầu đỏ giọt thương yêu.
Mong con khôn lớn không hiu hắt sầu.
Dù đời điêu đứng bể dâu.

Quê người đất lạ bấy lâu
Con hằng ghi nhớ lời cầu nghuyện xưa.
Muôn thu tiếng võng đong đưa.

La Gi, 1994
Đoàn Thuận

NHỚ LẠI

Thả trôi dăm chiếc lá vàng.
Theo dòng kỷ niệm muộn màng về xa.
Khi buồn ngẫm lại đời ta.

Bao năm vắng mẹ xa nhà.
Thư sinh trọ học trải qua nhiều trường.
Khác chi du tử tha phương.

Nhiều người ghét, ít kẻ thương.
Đơn côi dưới bóng bụi đường trần gian.
Đành lòng số phận lỡ làng.

Lang thang đôi chốn địa đàng.
Ngu ngơ trước cảnh phủ phàng đục trong.
Tự mang nghiệp chướng sắc không.

Cuối đời dù vẫn long bong.
Nhưng luôn bên cạnh bạn lòng an nhiên.
Bỏ buông bớt nỗi ưu phiền.

Đoàn Thuận

 

TRÚ NGỤ

Ta nương náu bóng mùa sau.
Từ hương hoa núi, từ màu khói mây.
Từ vườn rau cuối rừng dầy.

Từ nhà mái lá vách cây.
Giường tre, chiếu đệm, bếp đầy tro than.
Bỏ quên, từ độ lang thang.

Từ mùa thu rụng lá vàng.
Non sông chia cắt rời làng xa quê.
Đường trần cát bụi tư bề.

Đời như cõi tạm bến mê.
Người qua đất trọ mua thuê số phần.
Và ta kiếm sống nuôi thân.

Sau mùa lưu lạc lần quần.
Quay về đất cũ vuông sân mảnh vườn.
Ta còn một góc quê hương.

Đoàn Thuận

ĐIỀU CÒN LẠI.

Ta còn đây mấy năm dư.
Tay run ghi lại thực hư cõi lòng.
Mực đen giấy trắng bút lông.

Nghe gì, thấy đó, nghĩ nông.
Lời thô, ý vụng, đôi dòng chữ riêng.
Không làm thơ, chẳng huyên thiên.

Hằng mong cuộc sống bình yên.
Non sông đất Mẹ láng giềng an nhiên.
Tự do dân chủ nhân quyền.

Trước nền văn hóa tật nguyền.
Lưu đôi sự thật nhãn tiền nổi trôi .
Nương theo qui luật luân hồi.

Đúng sai vài nét, vậy thôi.
Làm sao thấy hết cuộc đời đục trong.
Ít nhiều cũng một tấc lòng.

Đoàn Thuận

MỘT THOÁNG

Gặp rồi xa giữa con đường.
Người xưa khuất dấu, buồn nhường lại ta.
Tình đời tựa thoáng hương hoa.

Bên đời ta chỉ còn ta.
Thương thầm giọt lệ rơi nhòa mắt ai.
Cùng thư ao ước u hoài.

”Một mai ai chớ bỏ ai”.
Sao như lời hát ru ngoài đồng không.
Đong đưa tiếng nấc sầu lòng.

Dòng đời gió bụi lông bông.
Riêng ta du tử chơi rong dưới trời.
Khúc nôi bên mẹ chơi vơi.

Phương nào người mãi xa vời.
Nỗi niềm ngây dại một thời mơ hoa.
Hương nhu một thoáng phôi pha.

Đoàn Thuận

 

XA RỒI

Ta về, người đã xa xôi.
Vườn xưa khép cửa không lời biệt nhau.
Mất còn tựa giấc chiêm bao.

Còn chăng những cánh anh đào.
Mênh mang hương dịu bay chào đón ta.
Như người khách lạ phương xa.

Mất đi lá thắm tình hoa.
Chỉ còn vuong vấn xót xa ưu phiền.
Của ngày đèn sách bút nghiên.

Lẽ nào tâm sự rã riêng.
Âm thầm buông bỏ lời nguyền ước xưa.
Cho bao sầu não đong đưa.

Để ta dầu dãi nắng mưa.
Giã từ quê mẹ bao mùa tha phương.
Đường trần mái tóc pha suong.

Đoàn Thuận

GIỌT SƯƠNG TAN

Hiên ngoài một giọt sương rơi.
Tan trên mặt gạch thành hơi sa mù.

Nương theo gió sớm vi vu.
Hòa vào làn khói phiêu du qua vườn.
Đâu còn hình dáng giọt sương.
Chỉ còn hơi lạnh vấn vương ngang trời.

Thu vàng lá rụng chơi vơi.
Đông hàn buốt giá lả lơi bụi đường.
Dù bao biến đổi tang thương.
Tưởng như còn đọng bóng sương u hoài.

Tưởng như mây nước thiên thai.
Trời cao tụ lại bên ngoài thời gian
Hay như hạt móc địa đàng.
Buông thầm nước mắt bàng hoàng chia ly.

Tàn phai từ giã xuân thì.
Giọt sương nào cũng ra đi theo mùa.

Đoàn Thuận

 

THÂN CÁT BỤI.

Tấm thân cát bụi dưới trời.
Gió lùa lăn lốc qua đời nắng mưa.

Bụi bay trên cát giữa trưa.
Trong ngày nắng quái nhẹ đưa vào chiều.
Mịt mù bóng phủ liêu riêu.
Pha mờ cỏ dại lớp rêu bên thềm.

Bụi nâu vàng vọt trăng đêm.
Lẫn vào sương muối mờ thêm đường trần.
Thoát từ lá nát bùn phân.
Hanh khô rã mịn buông thân xuống đồi.

Cát nằm dưới suối sông trôi.
Nước lau trắng mặt cát bồi đồng không.
Bay theo luồng gió bềnh bồng.
Rơi trên nỗng vắng, vào lòng biển khơi.

Dù cho đắp đổi xa rời.
Vẫn hoàn cát bụi cõi đời thiên thu.

Đoàn Thuận

 

CHIẾC LÁ KHÔ..

Lá khô từ cõi nào xa.
Bay ngang hẽm nhỏ chiều tà im hơi.
Bổng nhiên buông thả không lời.
Bên nền gạch vỡ rã rời hanh hao.

Thân khô cọng héo bàu nhàu.
Đong đưa mỏng mảnh rơi mau nhẹ hều.
Nằm im kế thảm xanh rêu.
Sau cơn gió thổi lêu bêu ngoài trời.

Lá nghiêng ghé tạm góc đời.
Dựa lưng cát bụi dưới hơi sương mờ.
Lìa xa nhánh ngọn non tơ.
Hương mơ hoa mộng mịt mờ rừng xưa.

Một thời vui thú nắng mưa.
Nay như bóng lạ dư thừa chơi vơi.
Thu tàn lá úa vàng rơi.
Lạc loài một chiếc đơn côi lặng thầm.

Đoàn Thuận

 

TIẾNG CÒI ĐÊM.

Giữa khuya hụ lớn hồi còi.
Xe rồ rượt đuổi qua đồi ầm vang.

Vô tình đánh thức dân làng.
Người vừa tỉnh ngủ, kẻ tàn giấc mơ.
Giật mình khóc thét con thơ.
Mẹ hiền thiu thỉu ru hờ đêm thâu.

Tiếng ga xe rú về đâu.
Theo luồng gió hú nơi bầu trời xa.
Ồn ào náo động đi qua.
Xóm nghèo đèn tắt, bờ hoa tối sầm.

Hàng cây lối nhỏ lặng câm.
Lá khô rơi rụng âm thầm bên nương.
Lờ mờ bóng đổ pha sương.
Còi nghe xa hút, bụi đường cuộn bay.

Âm buồn rền rĩ chân mây,
Như còn thao thức đêm đầy lo âu.

Đoàn Thuận

CON HẼM TỐI.

Hẽm sâu điện tắt ánh đèn.
Đi về xóm nhỏ lối quen thuộc buồn.
Trong nhà nến thắp đêm suông.
Hồn nhiên bóng tối lạnh buông hiên ngoài.

Đầu hôm, trẻ thức học bài.
Đường khuya quán vắng giọng ai thì thầm.
Vẳng xa giữa cõi lặng câm.
Lời kinh tiếng mỏ hương trầm âm u.

Gió ru bụi đất tù mù.
Thềm rêu sân gạch lá thu rụng đầy.
Sao mai nhấp nháy mây bay.
Đêm tàn gà gáy chờ ngày sáng lên.

Cột đèn, điện vẫn ngủ quên.
Vẫn mù mờ trước bồng bềnh sương tan.
Hẽm con thức giấc muộn màng.
Vài nhà mở cửa nghe hàng rong rao.

Đoàn Thuận

MỘT CƠN DÔNG

Dông về gió lộng lá bay.
Bụi mù lối nhỏ đường rày bến sông.
Bọt bèo nước cuốn xuôi dòng.
Đò ngang gác mái, chợ không bóng người.

Nát tan cỏ dại hoa tươi.
Quán ăn im bặt tiếng cười khách quen.
Nhà nhà đóng cửa cài then.
Ngả nghiêng cột điện tắt đèn tối tăm.

Gió gào sét đánh sấm gầm.
Mái tôn gõ nhịp theo âm thanh trời.
Rì rầm nước tạt mưa rơi.
Ầm ì tiếng bão rít lời núi non.

Thường khi, nước chảy đá mòn.
Sau dông vạn hữu mất còn đương nhiên.
Xóm thôn vườn tược láng giềng.
Tang thương trước sự đảo điên đất trời.

Giọt mưa hay giọt lệ rơi ?

 

MỘT CHỮ “ĐAU”

Tờ thư không rõ tháng ngày.
Mờ tên người nhận, mực bay bạc màu.
Chỉ còn thấy một chữ ĐAU
giữa lòng trang giấy nát nhàu chung quanh.

Thư nằm trong đám cỏ tranh.
Bên đường mòn cũ vắng tanh bóng người.
Gần kề một khóm huệ tươi.
Chúm tròn như thể nụ cười hồn nhiên.

Chữ Đau ẩn nghĩa ảo huyền.
Hay như “đau đớn, buồn phiền, xót xa”.
Đau vì bảo tố phong ba.
Ruộng vườn tang tóc, cỏ hoa tiêu điều.

Đau vì dang dở tình yêu.
Thề nguyền ước hẹn đã phiêu du rồi.
Còn chăng nước mắt bồi hồi.
Rơi trên giấy viết với lời biệt ly.

Chữ ĐAU riêng lẻ nói gì ?
Khi bao sầu muộn thầm thì nơi đâu,
Khi thư chẳng đủ một câu.
Im lìm dưới bụi đậm màu lãng quên.

Đoàn Thuận

 

BẠN HỌC CŨ.

Tình cờ gặp lại bạn xưa.
Đã từng đi học sớm trưa trường làng.

Quê nhà cách trở quan san.
Vẫn bao kỷ niệm mơ màng gọi tên.
Trường xưa lớp cũ đâu quên.
Dù nơi đất lạ lênh đênh ưu phiền.

Nhớ ngày đèn sách bút nghiên.
Nhờ người lương thiện bạn hiền đồng song.
Không còn khốn khó long đong,
Tôi về xóm học phượng hồng hoa bay.

Giúp nhau thấu hiểu lời thầy.
Đôi trang giấy nhỏ tỏ bày ước mơ.
Dìu nhau từng bước ngây thơ.
Vượt qua dốt nát dại khờ u mê.

Cầu mong lúc phải xa quê.
Bình yên giữa cõi bộn bề gió sương.
Bao mùa phiêu bạt tha phương.
Gặp nhau ôn chuyện dặm đường chia ly.

Đoàn Thuận

 

BÊN CỔNG TRƯỜNG CŨ

Tôi về trường cũ một lần.
Dưới mưa trước cổng ngại ngần hỏi thăm.

Người phòng bảo vệ lặng thầm.
Nghi ngờ kẻ lạ xa xăm đến trường.
Tôi như đã lỡ độ đường.
Dừng chân bên cột bờ tường đụt mưa.

Thầy cô đồng nghiệp bạn xưa.
Sân trường phượng vĩ mấy mùa luân lưu.
Ai còn dạy, ai về hưu.
Bảng đen phấn trắng, án thư thế nào ?

Đàn em cắp sách ngày nao.
Người đi kẻ ở ra sao giữa đời ?
Trước bao hoàn cảnh đổi dời,
Thầm mong người cũ một thời bình an.

Giã từ đất mẹ họ hàng.
Cuối đời tôi lại bàng hoàng ra đi.
Cổng trường lần nữa chia ly.
Nỗi niềm xa xứ thầm thì trong tim.

Đoàn Thuận

 

LÃO “VÉ SỐ”

Tiếng rao “Vé số mới …đây”.
Giọng trầm phơ phất cuối ngày mưa rơi.
Gió đưa từng giọt âm rời.
Bay qua xóm cũ, góc đời quạnh hiu.

Người rao bán vé số chiều.
Gầy còm tóc bạc ít nhiều khó khăn.
Thân tàn kiếm sống muộn mằn.
Cô đơn khốn khổ đôi đằng rã riêng.

Vé ghi số mã đồng tiền
Xổ ra trúng đậm có quyền giàu sang.
Người mua lắm lúc mơ màng.
Vé đưa số phận nghèo nàn ra đi.

Số chưa xổ, chửa thấy gì.
Vẫn rao với giọng nằng nì dịu êm.
Đôi người ghé lại bên thềm.
Mua dùm số vé ướt mềm dưới mưa.

Cụ già bán nốt vé thừa.
”Ai ơi, vé số…mới vừa hết…đây”.
Lời rao theo gió mây bay.

         Đoàn Thuận.

 

CHIẾC GHẾ.

Người nhà cần chiếc ghế ngồi
ăn cơm uống nước, nghỉ ngơi chuyện trò.

Người bươn chải lại so đo.
Ghế đôn ghế đẩu, bành to nệm dày.
Ghế nhôm ghế nhựa ghế mây.
Ghế giường ghế xếp, ghế xoay đủ tầm.

Người sang ngự giữa thăng trầm.
Xà cừ tràng kỷ, gỗ trầm sô pha.
Ghế vàng ngôi báu kiêu sa.
Quan qua thảm đỏ, ngồi sa lông ngầu.

Mục đồng ngồi ké lưng trâu.
Mồ côi lưu lạc ngồi lâu vệ đường.
Lương dân, dưới bóng gió sương,
dựa lưng trời đất, ngồi thương thân mình.

Ghế buôn đủ kiểu dạng hình.
Người đời đủ loại, thường tình nghênh ngang.
Ghế lùn thấp phận cơ hàn.
Ghế cao quyền lực đại quan cường hào.

Người về cát bụi mai sau.
Ghế cây ghế đá, ghế nào mang theo ?

Đoàn Thuận

 

CON CHỮ RÁCH
[tưởng niệm Cô Giáo tự tử ở QN]

Mặt trang giáo án lèm nhèm.
Trên lưng con chữ mực lem tư bề.
Sắc huyền ảo nét bút phê.
Dấu than chấm hỏi mô tê rã hàng.

Câu văn chữ nghĩa lan man.
Trang đời đen trắng trái ngang dị thường
Sân trường như chốn giao thương.
Buôn bằng bán chữ, nhiễu nhương đạo trời.

Biết bao con chữ im hơi.
Làm thân phục vụ dưới thời muội mê.
Chữ gầy chữ rách lê thê.
Đôi con chữ đói phết rê dòng buồn.

Khi nghề cao quí xa nguồn.
Giáo khoa sách sử lách luồn đổi thay.
Một con chữ đẹp buông tay.
Tự quyên sinh giữa tháng ngày thanh xuân.

Lệ trời rơi giọt bâng khuâng.

Đoàn Thuận

 

CHÂN BÀN VIẾT

Chiếc bàn viết gãy một chân.
Lâu chưa sửa chữa tựa thân phế tàn.

Vài viên gạch bể kê ngang.
Chồng lên thay nạn chống bàn đỡ nghiêng.
Gạch cong nứt, chẳng còn nguyên.
Thường khi rung lắc làm phiền chủ nhân.

Người ngồi viết tự quen dần.
Dù ba chân gỗ có chân bị kiềng.
Nhưng bàn vẫn đủ bút nghiên.
Bóng đèn trang sách vẫn yên phận mình.

Riêng người vắng bóng gia đình.
Không nhà cửa, ghé hiên đình sống chui.
Không bàn ghế, trước buồn vui.
Đành kê giấy trắng lên đùi viết thư.

Ghế bàn nào cũng mụt hư.
Chỉ cần mặt phẳng thẳng như mặt bàn.
Để ghi lại thoáng mơ màng.
Theo mùa sương khói lang thang dưới trời.

Đoàn Thuận

TỜ GIẤY CŨ.

Nhiều tờ giấy bị bỏ quên.
Nằm trong hộc gỗ không tên không ngày.
Ngoài trời sương gió mây bay.
Trong khay bụi bặm bám đầy mặt thư.

Lâu rồi giấy má cũng nhừ.
Mù mờ ý nghĩa thực hư thế nào.
Vài hàng chữ tháo viết mau.
Mực đen giấy trắng sắc màu nhạt phai.

Thời gian lặng lẽ trôi dài.
Giấy, con mọt nhấm gián nhai, bèo nhèo.
Thư từ nhật ký nhăn nheo.
Công văn khế ước giao kèo tả tơi.

Đôi trang sách rách rã rời.
Vùi quên dưới bụi im hơi qua mùa.
Giữa đời còn mất hơn thua.
Vô tư tờ giấy tự xưa cũ dần.

Đoàn Thuận

 

MỘT ĐỜI XA MẸ

Đầu đời, xa Mẹ lang thang,
qua rừng, lên núi, xuống làng chài xa.

Từ đồng lúa nước lúa ma,
quê mùa vào chốn phồn hoa phố phường.
Từ lưng trâu đến sân trường,
gót chân bùn đất dò đường bút nghiên.

Giữa đời trong đục ảo huyền,
cô đơn trước nỗi muộn phiền xót xa.
Độc hành bến nước sân ga,
chợ trời xóm trọ, lân la xứ người.

Đôi khi mím chặt môi cười,
nhìn thầm lá thắm hoa tươi rụng rời.
Thênh thang mây trắng xa khơi,
riêng tôi lận đận dưới trời gió sương.

Cuối đời, vẫn mãi tha phương,
buồn đau nhớ Mẹ nhớ thương quê nhà..

Đoàn Thuận

 

MƯA RÀO

Mưa rào qua mái tôn nghiêng.
Nghe như điệu nhạc “độc huyền cầm” xưa.

Rì rào lộp độp tiếng mưa.
Lăn tăn tí tách lưa thưa là đà.
Ù ù gió hú ngân nga.
Chạm lên phím gạch âm ba dội buồn.

Bổng trầm gõ nhịp nước tuôn.
Trường canh lặng lắng hồi chuông đêm tàn.
Độc huyền ngủ lạnh nhà hoang.
Mong mùa nhỏ nhẹ cung đàn gió mưa.

Sấm rền vọng lại âm thừa.
Vời xa bóng khói đong đưa không lời.
Đầm hồ nắng rọi lên hơi.
Từng làn mây nước chơi vơi ngang trời.

Thiên thu mưa tạnh lại rơi.
Như bao số phận đổi dời bể dâu.
Mây Hàng lờ lửng về đâu.
Lại buông thả giọt Mưa Ngâu xuống đời.

Đoàn Thuận

 

LỜI MẸ RU

Con thơ ú ớ trong nôi.
Ví dầu tiếng khóc chào đời đong đưa.
Nhưng đâu hẳn một âm thừa.
Vang trong lòng mẹ dù chưa thành lời.

Ví dầu mẹ hát à ơi.
Ru con với ước mơ đời bình yên.
Mong sao chẳng phải buồn phiền.
Khi con khôn lớn nơi miền quê cha.

Ví dầu liễu rũ la đà.
Êm đềm bến mộng bờ hoa câu thề.
Cha rồi khuất nẻo sơn khê.
Đường trần như thể từ bề thê lương.

Ví dầu mai mốt đoạn trường.
Con còn có mẹ yêu thương mặn nồng.
Ngoài hiên rêu biếc tĩnh không.
Con ơi, hãy lắng tiếng lòng mẹ ru.

Đoàn Thuận

 

LỜI ÔNG LÁI ĐÒ.

Xa quê, sang một chuyến đò.
Vỗ vai, ông lái dặn dò đôi câu.
”Đường đời mưa nắng dãi dầu”.
”Trước bao nghiệt ngã, ngẩng đầu mà đi”.

Lời ông tựa một đạo nghì.
Tôi luôn ghi nhớ thầm thì trong tim.
Giã từ bến nước đồi sim.
Dại khờ phận mỏng nổi chìm một tôi.

May nhờ đèn sách một thời.
Giúp nhau thấu hiểu lẽ đời thực hư.
Bao người lương thiện nhân từ.
Dìu tôi vượt ngã riêng tư mê mờ.

Trầm luân duyên kiếp tóc tơ
Đẩy đưa vạn hữu đến bờ điêu linh.
Đêm yên tự ngẫm lại mình.
Lời xưa ông lái chân tình nhủ khuyên.

Giữa đời cát bụi đảo điên.
Trí tâm an tịnh muộn phiền sẽ qua.

Đoàn Thuận.

 

NGỌN ĐÈN DẦU.

Thắp lên một ngọn đèn dầu.
Trong đêm tăm tối, dưới bầu trời sương.
Đồng quê xa cách phố phường.
Thôn nghèo không điện lối đường âm u.

Bao lần sao rụng trăng lu.
Ruộng vườn cây cỏ gió ru u buồn.
Bao mùa giông tố mưa tuông.
Bờ sông vắng lặng, bến truông mịt mờ.

Ánh đèn xóm chợ lắt lơ.
Bóng con đom đóm phất phơ ngoài trời.
Nhòa vào sương khói chơi vơi.
Giấc mơ bếp lửa thoảng hơi ấm lòng.

Đèn dầu thắp sáng đêm đông.
Soi lên trang giấy trắng không một lời.
Người đi biền biệt xa khơi.
Nghiên khô gác bút, bụi rơi âm thầm.

La Dạ 1968
CÁT SỸ
Đoàn Thuận

 

CHIA LY KHÔNG LỜI

Xa nhau không nói một lời.
Dù qua giấy mực hay nơi hẹn chờ.
Làm thinh như thể trong mơ.
Cúi đầu môi mím lặng lờ ra đi.

Đâu hay phút cuối chia ly.
Giật mình, tôi tự thầm thì tiễn tôi.
Quay về góc khuất đơn côi.
U buồn quạnh quẽ bồi hồi nhớ mong.

Nỗi niềm xa xót trong lòng.
Thề nguyền hư vắng, mơ mòng tịnh không.
Tình xưa tựa áng mây hồng.
Thả buông giọt nước thay dòng lệ rơi.

Người xa, xa lạ xa vời.
Vẫn âm thầm mãi không lời thở than.
Ngày đi chỉ thoáng bàng hoàng.
Bỏ tôi lầm lũi dặm ngàn gió sương.

Không lời nuối tiếc vấn vương.
Người quên, quên mất bạn đường ngày xanh.

Đoàn Thuận

CHỈ MỘT ĐOẠN ĐƯỜNG.

Đôi khi chung một dặm trường.
Đi qua sông núi phố phường đó đây.

Trước bao sóng gió nước mây.
Nương nhau đối diện tháng ngày phiêu linh.
Buồn vui chia sẻ tâm tình.
Khi hoàng hôn xuống, lúc bình minh lên.

Thế rồi xa vắng buồn tênh.
Mỗi người mỗi ngả lênh đênh bên trời.
Một trang giấy trắng không lời.
Đâu ghi kịp nỗi bồi hồi vấn vương.

Bên nhau chỉ một đoạn đường.
Theo từng bước mỏi đoạn trường phân ly.
Phút giây kẻ ở người đi.
Bỏ quên ước hẹn “cùng vì tương lai”.

Đồng hành sát cánh kề vai.
Nhưng không đồng thuận đường dài lứa đôi.
Đồng song học hỏi trau dồi.
Nhưng không đồng điệu theo hồi ức xưa.

Dưới trời dông tố nắng mưa.
Đường đời xuôi ngược sớm trưa đổi chiều.
Lẽ nào người mãi phiêu diêu.
Trăm năm một khắc quạnh hiu cuối cùng.

Đoàn Thuận

 

NHẬT KÝ KHÔNG NGÀY..

Một trang nhật ký ghi nhanh.
Khi thời gian chết lạnh tanh bên đời.

Bỗng nhiên một chiếc lá rơi.
Nơi bàn viết cũ, dưới trời thu phân.
Lá xanh non nớt lần quần.
Rụng trên trang giấy trắng ngần vô tư.

Giấy thầm tự hỏi thực hư.
Vì đâu lá phải giã từ ngọn cây.
Dù chưa héo úa khô gầy.
Dù mùa thu gió heo mây phiêu bồng.

Bút ghi cạnh lá đôi dòng.
Theo lời nhật ký nhưng không tháng ngày.
Chỉ lưu dấu lại cõi này.
Dáng buồn tĩnh tại hình hài lá thu.

Một mai mưa móc âm u.
Màu phai giấy rách chữ lu mờ dần.
Còn chăng cuống lá bâng khuâng.
Rã rời dưới bụi phân thân theo mùa.

Không ngày, nhật ký te tua.

Đoàn Thuận

 

DÒNG THƯ XƯA.

Lá thư từ tạ ngày nào.
Hành trang nghiên bút qua bao dặm đường.
Qua bao ngày tháng gió sương.
Vẫn như thủ thỉ vấn vương tâm tình.

Từng con chữ nhỏ lặng thinh.
Thời còn áo trắng thư sinh học đường.
”…mãi nhung nhớ, mãi tiếc thương”
”dù đời trắc trở đoạn trường bao nhiêu…”

Người xa trường cũ phiêu diêu.
Dòng thư mực tím ít nhiều nhạt phai.
Dáng hình ai bóng u hoài.
Ngây thơ hương tóc áo dài, về đâu ?

Đèn đêm soi tỏ đôi câu.
Nhìn ra giọt mực đọng sầu ly tan.
Màu loang nét chữ mơ màng.
Nỗi buồn chạm nhẹ thoáng hoàng hoa xưa.

Đoàn Thuận

 

TRANG VỞ MO CAU.

Chăn trâu một thuở nhà quê.
Ăn nhờ học lỏm la lê cơ hàn.
Viết, cây chuốt nhọn, que than.
Giấy, mo ép phẳng từ nang cau rừng.

I tờ lớp lá triền bưng.
Thả trâu học ké lừng khừng nhớ quên.
Tờ mo, trang vở không tên.
Từng lằn sọc trắng hằn lên dòng hàng.

Đầu que khắc chữ nằm ngang.
Than đen ghi đậm lên nang mo dày.
Từng con chữ ốm chữ gầy.
Lưu tình sông núi cỏ cây ruộng vườn.

Trang mo cau thấm gió sương.
Thấm dòng nước mắt buồn thương dại khờ.
Lời văn ý chữ ngây thơ.
Chìm vào khoảng lặng giấc mơ quê mùa.

Tân Lý,1972
CÁT SỸ

 

TRANG LƯU BÚT.

Một trang “lưu bút ngày xanh”
của thời trung học nơi thành phố xưa.
Mực nhòe màu nước hạt mưa.
Đâu hay giọt lệ tiễn đưa ngày nào.

Bao mùa nghiên bút bên nhau.
Tiếng ve cánh phượng bay vào mông mênh.
Xa trường lưu lạc lênh đênh.
Từng dòng chữ cũ gợi lên nỗi buồn.

Gợi âm tiếng mõ hồi chuông.
Lời kinh tụng niệm về nguồn an nhiên.
Thầm mong xứ sở bình yên.
Ngây thơ trang viết thấm duyên hẹn thề.

Người đi mù mịt sơn khê.
Người về gió bụi tư bề quạnh hiu.
Ngày xanh lưu bút đôi điều.
Ngày tàn con chữ thiu thiu ngủ thầm.

Đoàn Thuận

 

CON CHỮ VỠ LÒNG

Một trang vở thuở học trò.
Ê a tập đọc, ơ o học vần.

Từng ô giấy trắng vuông cân.
Từng con chữ cái bò dần khắp trang.
Âm vần không dấu thanh ngang.
Sắc nghiêng Ngã Nặng Hỏi han dấu Huyền.

Vỡ lòng câu chữ đầu tiên.
Đôi điều “phết phẩy” vào miền âm u.
”Mờ u mu dấu huyền mù”.
Nhắc thầm mù chữ dốt ngu dại khờ.

Chấm than chấm cuối câu thơ.
Như lời than thở i tờ chưa thông.
Để rồi dấu hỏi phải không.
”Tờ i ti sắc… tí” trong mịt mùng.

Vết sâu dấu nặng vô cùng.
Sắc thanh ngữ nghĩa chập chùng tĩnh không.
Đâu hay con chữ đầu lòng.
Nằm trong tâm thức bên dòng thời gian.

Đoàn Thuận

 

NGÒI BÚT LÁ TRE.

Cũ mèm ngòi bút lá tre.
Nằm im dưới bụi, bên khe cổng chùa.

Bao mùa sương gió nắng mưa.
Thân ten rỉ sét, đầu tưa tét cùn.
Cán cây xa cách mịt mùng.
Không còn giấy mực ở chung một thời.

Mực bơm, bút máy lên ngôi.
Viết tay nguyên tử thay đời bút bi.
Bút lông mực xạ bút chì.
Giấy hoa giấy dó đến kỳ làm thinh.

Nhường cho bàn phím màn hình.
Nhẹ tay gõ chữ, máy in ra bài.
Qua thời khăn đóng áo dài.
Thầy đồ lều chòng miệt mài bút nghiên.

Cọ tre chấm mực rẻ tiền.
Đã như yên nghỉ nơi miền lãng quên.

Đoàn Thuận

 

TRANG THƯ BỤI.

Thời gian phủ bụi trang thư.
Dăm hàng chữ viết mực như mù màu.

Tình thư ngỏ ý ngày nao.
Chỉ còn khoảng lặng đằng sau ngôn từ.
Nhạt nhòa đâu rõ thực hư.
Lâu ngày giấy mực nát nhừ câu văn.

Người đi kẻ ở đôi đằng.
Ghi dòng lưu bút ăn năn tạ từ.
Con tem bưu điện du cư.
Phong bì dấu kín bức thư cuối cùng.

Bên trong con chữ mông lung.
Kê đầu lên giấy lạnh lùng ngủ quên.
Dòng đường dây thép lênh đênh.
Thư trao, người nhận buồn tênh âm thầm.

Bay vào góc khuất bao năm.
Một trang thư lạc, lặng câm, rã rời.
Niềm xưa chữ cũ đôi lời.
Nằm im dưới lớp bụi thời gian trôi.

CÁT SỸ

MAI BÔNG SAI.

Trong vườn một chậu bông-sai.
Dáng hình thu nhỏ cội mai rừng già.
Tuy mùa thiên cổ đã qua.
Hồn nhiên vẫn tự nở hoa nhung vàng.

Hạ tàn thu tận đông sang.
Bông sai lá rụng mơ màng dáng xuân.
Đâm chồi nứt mộng buâng khuâng.
Nõn nà nụ búp thơm dần môi hoa.

Dịu dàng nhẹ thoáng hương pha.
Lan từ nhụy phấn vương xa cõi ngoài.
Nhòa vào phong vị trần ai.
Khiết thanh như thể nhạt phai giữa đời.

Mai rừng trụ lại dưới trời.
Trong khuôn chậu nhỏ một thời rêu phong.
Khi rừng hoang hóa mênh mông.
Thiên nhiên biến đổi, cộng đồng nhiễu nhương.

Đoàn Thuận

 

TIẾNG ẾCH ĐÊM MƯA

Khi rừng đêm dứt tiếng mưa.
Đôi con ếch vắng vội lùa lạnh sang.

Âm hồn khuya vỡ trên ngàn.
Chạm lên vách đá rêu vàng bụi nâu.
Chạm vào lòng suối hoang sâu.
Vào viên cuội nát úa màu thời gian.

Òn ênh nhịp gõ địa đàng.
Vang lên tận áng mây Hàng trời xa.
Rơi rơi từng giọt âm ba.
Trên hàng liễu rũ bến phà đìu hiu.

Gió đưa tiếng nhái liu riu.
Ru bờ cỏ dại buồn thiu đêm dài.
Hiên ngoài nước chảy dần phai.
Vẫn nghe tiếng ếch u hoài vẳng xa.

CÁT SỸ

 

TIẾNG MƯA RƠI

Âm thanh tí tách mưa rơi.
Chạm lên phiến đá, lên đời rêu hoang.
Thinh không thạch thảo địa đàng.
Lặng câm núi lạnh, lụi tàn rừng cây.

Chuyển mùa nắng quái mây bay.
Khốc khô suối cạn, lắt lay bụi đường.
Môi trường đất nước nhiễu nhương.
Lội lầy bến đỗ, dầm sương chợ đời.

Rừng xa núi thẳm biển khơi.
Đồng không mông quạnh chơi vơi bóng người.
Xuân thì đâu mãi xinh tươi.
Niềm đau buồn lệch môi cười, ướt mi.

Đường trần kẻ ở người đi.
Sum vầy một lúc, biệt ly muôn đời.
Âm thanh tiếng nước mưa rơi.
Nghe như giọt lệ bên trời tiễn đưa.

Đoàn Thuận

 

TIẾNG RU ĐÊM

Câu hò tiếng nhạc ru đêm.
Hòa theo nhịp gõ bên thềm trăng non.

Đàn bầu khoan nhặt nỉ non.
Như buông giọt lệ mỏi mòn nhớ mong.
Khúc nôi lạc điệu thinh không.
Chìm vào khoảng lặng cõi lòng bi ai.

Ru hời hồn mộng u hoài.
Trầm buồn tựa tiếng thở dài đêm thâu.
Lời ru trôi nổi về đâu.
Mây bay gió cuốn bao câu tạ từ.

Đường trần xuôi ngược du cư.
Mơ xưa ước cũ trầm tư mịt mù.
Tình sầu sương phả vi vu..
Lời nguyền còn lại tiếng ru âm buồn.

Hà Tiên, 1970
CÁT SỸ

 

LỜI RAO HÀNG DẠO

Lời rao bán dạo hàng rong.
Nghe như giọng hát bên dòng đời xưa.

Lời rao trong tiếng gió mưa.
”Đậu xanh đường cát nước dừa…chè đây”
Đôi khi dưới bóng sương bay.
”Mua đi bánh ướt bánh dầy…người ơi.”

Đong đưa từng giọt âm rời.
Chân tình dân dã, điệu đời lam thôn.
Thoát đi từ đáy tâm hồn.
Thầm đưa mơ ước vào ngôn ngữ buồn.

Hàng rong không nặng bán buôn.
Giúp ai lở độ có nguồn dưỡng nuôi.
Lời rao vương vấn ngậm ngùi.
Theo người phận mỏng ngược xuôi dường trần.

Hàng rao với giá bình dân.
Người mua kẻ bán cùng bần hàn thôi.
Sẻ chia kiếp sống luân hồi.

Đoàn Thuận

 

THẦY CÔ XƯA XA.

Giã từ lớp cũ trường xưa.
Thầy cô phiêu bạt nắng mưa bên trời.
Bút nghiên bụi phấn không lời.
Nhìn bao bạn trẻ xa rời cố hương.

Lương sư dưới bóng bụi đường.
Lời nguyền hưng quốc đoạn trường bể dâu.
Hoang tàn bao lối bích câu.
Thư sinh áo vải cúi đầu biệt ly.

Tình xưa nghĩa cũ thầm thì.
Nhân văn “nhân bản” đạo nghì phôi pha.
Cội nguồn “dân tộc” nhạt nhòa.
Tầm nhìn “khai phóng” sương sa che mờ.

Lương dân khốn khó bơ vơ.
Lang thang đau xót về bờ bến xa.
Đền đài đất tổ quê cha.
Chìm trong bể khổ ta bà tang thương.

Thầy cô lưu lạc dặm đường.
Nhớ thương Đất Mẹ mái trường xưa xa.

Nancy,1976
CÁT SỸ

 

LÁI ĐÒ GIÀ.

Con đò bến cũ chiều mưa.
Âm thầm gác mái chờ đưa khách về.
Bên hàng liễu rủ lê thê.
Trời cao đổ nước bốn bề âm u.

Sông sâu bóng thẳm mịt mù.
Bờ lau gió thổi vi vu âm buồn.
Ngờ như chim khách cuối truông.
Giật mình hót nhẹ lời suông gọi đò.

Đầu trần ông lái co ro.
Tựa lưng thành mạn mong đò sang ngang.
Tay rung khêu bếp tro tàn.
Nhen lên một thoáng khói nhang hương trầm.

Đò neo lại dưới bóng râm.
Dù người khách hẹn bao năm không về.
Lái đò già khụ ngô nghê.
Đò xưa đậu mãi bên lề gió sương.

Bến Cát,2022
Đoàn Thuận

 

CÀ PHÊ, MỘT TÁCH

Cà phê, một tách một tôi.
Bên thềm nhà vắng, ghế ngồi dựa hiên.
Một đời bụi phấn bút nghiên.
Một giây lặng lẽ xua phiền muộn đi.

Cà phê, một ngụm nhâm nhi.
Hương nhu ngào ngạt thầm thì trên môi.
Như thơm một thoáng bồi hồi.
Nụ hôn tình thắm đầu đời đã qua.

Cà phê, một giọt phin pha.
Một giọt đáy tách đậm đà chất quê.
Một mùi vị thuở u mê.
Chìm vào hoa cỏ bốn bề gió sương.

Cà phê đắng, một chút đường.
Một phần dịu ngọt nhún nhường đắng cay.
Buồn đau lánh bước bùn lầy.
Tịnh tâm giữa cuộc tỉnh say ở đời.

Cà phê, một tách đầy vơi.

Đoàn Thuận

 

BÓNG THU

Miền xanh còn một mùa thu.
Nắng hanh lối cát trần phù truông xa.

Người đi quên dấu chân qua.
Để bao chiều lạnh đợi tà dương trôi.
Sông dài soi áng mây trời.
Mang theo bao nỗi bồi hồi cỏ cây.

Vầng trăng con nước vơi đầy.
Đôi bờ vương vấn bóng ngày muộn thu.
Thuyền neo dưới lớp bụi mù.
Từ làn gió núi phiêu du bạt ngàn.

Lá bay rơi lạc gò hoang.
Ngỡ như đấp mộ thu vàng tình tan.
Mùa trôi chuyển đổi địa đàng.
Đông tiêu xuân tận hạ tàn chia ly.

Người đời lạc bước xuân thì.
Quay về cát bụi hoa quì tiễn chân.
Đường xưa lối cũ phân vân..
Sương thu pha bóng bạc dần tóc mây.

Đoàn Thuận

 

ĐÔI DÒNG THẾ SỰ

Ghi về thế sự đôi dòng.
Dám đâu mong muốn bạn lòng cùng xem.

Dù từng thao thức bao đêm.
Nghe sương nhỏ giọt ngoài thềm rêu phong.
Tưởng như ai đó long đong.
Bên trời phiêu lãng buồn lòng lệ rơi.

Ai còn ở trọ góc đời.
Cô đơn trước cảnh ma hời nĩ non.
Kẻ ham vui thú vàng son.
Người lo kiệt sức héo mòn xác thân.

Tôi hanh khô tóc đầu trần.
Mưa rơi ướt đẫm gót chân bùn lầy.
Điếng lòng khi gió thu bay.
Lặng câm nhìn bụi phủ dày trang thơ.

Xa rồi thuở nọ i tờ
Thời này sóng mạng vỗ bờ thinh không.

Đoàn Thuận

 

Kính thưa quí Thân Hữu.

.          Sau một loạt bài Lục Bát, qua email qua messenger,
tôi nhận được nhiều lời chia sẻ đồng cảm, cùng với đôi lời chê
trách phản cảm. Phần phản cảm nghiêng về hai điểm chính:
1. Trên 5.000 người kết bạn (5K) nhưng chỉ vài người bình luận,
nghĩa là “thơ quá tệ”, nói về “chuyện đẩu đâu vô ích”, “nặng về
cái tôi”, “xa rời người bình dân”…
2. “Đồ phản động”, “ ăn cháo đá bát”…

.    Tôi xin phép được bày tỏ một chút:
.    * Tôi không sáng tác, không làm thơ, chỉ ghi lại đôi điều
thấy bằng chính mắt của tôi, nghe bằng chính tai của tôi,
theo cách riêng của tôi.Do đó, có đôi điều thuận với người này
nhưng nghịch với người khác.
.   * Khi rời quê nghèo lên tỉnh học trung học, tôi “thấy” vài chàng
trai có bóng dáng quyền thế sang trọng từ mái tóc đến gót giầy;
tôi “nghe” họ cười nhạo tôi “đồ mọi nhà quê” “thằng thẹo cù lần”
và tôi “ghi lại”trong lưu bút “Lô chê ta cù lần”,“Hoài gọi ta thằng
mọi”,”ta nghĩ ngợi bâng khuâng”. Đó là câu chữ đầu tiên của
riêng tôi, Lô và Hoài không biết. Nếu biết, có lẽ, họ sẽ đánh
cho “đồ mọi” thêm nhiều vết “thẹo cù lần”. Từ đó, tôi lui vào
góc khuất, thầm nhìn ra sự thật ở đời, thầm ghi lại đôi điều.
.       * Đôi khi tôi mượn “cỏ cây hoa lá, gió sương cát bụi” để
lưu lại sự chuyển dịch thăng trầm của vạn hữu trước qui luật

luân hồi nhân quả. Chẳng hạn, ”Đời Sậy ” trước những trận
”gió Nồm,gió Bấc,gió Chướng” khác chi “Đời người nghèo khổ”
trước bao cơn biến động của thế sự. . . Chẳng hạn, ”mùa”
trong bài ”Chuyển mùa” không thuần là “mùa tự nhiên” mà còn
là “mùa đời”. Khi “Sang mùa, ngày tháng năm đi”, như Hạ mưa,
Thu vàng, Đông lạnh, Xuân sang mai nở…. Vạn hữu nương

theo nhịp mùa để biến chuyển trong cõi thăng trầm sinh diệt. . .
Khi “Thay mùa, người chuyển xa gần”.“Mùa” ở đây là “mùa đời”,
là cơ chế xã hội. Khi “thay mùa”, hay khi “đời đổi thay”, có
người lưu vong tha phương, có người bám chặt lấy quê hương

như “thuyền tình neo lại bến cũ” dù cho “nước lên nước xuống”,
như “thân phận người dân hiền” luôn chìm nổi theo “Vận Nước”.  
Dù “sang mùa” “thay mùa” hay ”chuyển mùa”, “Dân Đen Con Đỏ
vẫn long đong phận nghèo”. . .
.        Có thể do tôi “thấy chưa đúng”,”nghe chưa rõ” nên lời ghi
“đẩu đâu” “quá tệ”  …Do vậy chỉ có 11 người thích
bài “Chuyển mùa”.
         Rất mong quí vị thông cảm cho “thằng thẹo cù lần” này
vì nay tôi đã ngoài tuổi 80.

Gò Vắp, tháng 8 năm 2022
Đoàn Thuận.

 

LÃO KHÔNG TÊN

Ngoài hè, ai đó thở dài.
Buồn rầu tóc phả bờ vai gầy gò.
Lòm khòm dáng lạnh co ro.
Thều thào chép miệng, giọng ho khàn khàn.

Ngày tàn chiều xuống đêm sang.
Dò tìm vách cũ hoang tàn dựa lưng.
Nằm ngồi lớ ngớ lừng khừng.
Lơ mơ ngẩng mặt nửa chừng ngó mong.

Nhớ thương nước mắt lưng tròng.
Thấy đâu sương khói bềnh bồng đó đây.
Gậy lê quờ quạng qua ngày.
Lang thang xóm vắng, loay hoay phố nghèo.

Cô đơn phiền muộn ăn theo.
Không nhà người lạ, đường heo hút dài.
Lấn về cát bụi một mai.
Buông tay yên nghỉ bên ngoài thời gian.

Gò Vắp, 2022
Đoàn Thuận

 

GIỮA THU KHÔNG

Xin gom lại bóng trời chiều.
Cho tàn phai nỗi đìu hiu quanh nhà.

Tóc mùa chợt đọng hương xa.
Tưởng người cõi mộng cõi ta một bờ.
Xin riêng giữ phút dại khờ.
Cho quên đi nỗi mong chờ bao đêm.

Ngửa tay hứng giọt trăng mềm.
Nghe nơi tiềm thức thoáng niềm đục trong.
Ta ngồi giữa một thu không.
Bụi ưu tư rót xuống mông mênh trời.

Nụ hoa tàn nở không lời.
Hương bay thoang thoảng bời bời chân mây.
Tình xanh lưu bóng cỏ cây.
Sắc màu lá thắm lắt lay thu vàng.

Người xa cách trở quan san.
Tờ thư cát bụi phủ tràn lời xưa.
Buồn vương đôi giọt âm thừa.
Rơi trong ký ức cuối mùa biệt ly.

Đoàn Thuận

 

ĐÔI KHI

Đôi khi đá cũng ưu phiền.
Sông xa nguồn nhớ con thuyền về xưa.
Đôi khi giữa nắng chợt mưa
Một đời phiêu lãng lại chưa quên người.

Đôi khi nghe mặn môi cười.
Trong muôn lá rụng có lời hạnh hoa.
Đôi khi gần lại rất xa.
Ẩn trong hạt nước bao la cõi đời.

Đôi khi vui lại bồi hồi.
Thanh âm tiếng hát có đôi giọt sầu.
Giữa mùa đông lại mưa ngâu,
Vàng khô lá rụng bên cầu sông Ngân.

Đôi khi quên mất số phần.
Đùa cùng cát bụi, hung thấn ghé thăm.
Đôi khi giữa cõi thăng trầm.
Thoảng hương thanh tịnh vương thầm trong ta.

Đoàn Thuận

 

CHUYỂN MÙA

Mùa sang, ngày tháng năm đi.
Cây thêm lộc mới xanh rì núi xưa.
Mây chiều hạ trắng bay mưa
Hiu hiu dưới lũng gió đưa thu về.
Bao mùa gõ buớc bến mê.
Bao mùa đông tận bốn bề non yên.
Mai vàng chợt nở thản nhiên.
Bầy chim én biển về nghiêng cánh gần.

Thay mùa, người chuyển xa gần.
Dưới trời cát bụi, đường trần gió sương.
Đôi khi lỡ bước tha phương.
Lưu vong đất lạ, đau thương trong hồn.
Thuyền tình đậu lại bến thôn.
Mưa hoa làm lệch môi hôn lạnh lùng.
Sang ngang khói sóng bập bùng.
Nỗi niềm mây nước chập chùng nhớ quên.

Chuyển mùa, người cũng lênh đênh.
Thu buồn đông lạnh, hạ rền bão dông.
Xuân tàn hương nhạt bềnh bồng.
Dân đen con đỏ long đong phận nghèo.

Đoàn Thuận

 

NHẠC CHIỀU

Như rơi trong một thoáng hương.
Trong hoa tàn, một thoáng buồn chiều phai.
Nghe trong bóng liễu dặm dài.
Giọt âm thanh đọng quan hoài cung xưa.

Ta ngồi tựa gối hiên mưa.
Nghĩ trong thinh lặng ngày chưa qua đời.
Nghiêng hồn lắng giọt chiều rơi.
Khúc ly biệt ấy không lời còn đây.

Khúc nôi vào áng mây bay.
Cho sương mờ ảo chiều lay lắt chiều.
Cung đường lẻ mọn đìu hiu.
Thoáng như xa hút tiếng tiêu mơ màng.

Hoa quì sen ngó ngày tàn.
Đong đưa nhụy phấn dịu dàng êm ru.
Điệu đàn câu hát vàng thu.
Chìm trong ký ức mịt mù nhớ quên.

Đoàn Thuận

 

CHIỀU TRÊN ĐỒI

Ta về gom nhớ bao đông
Ngựa buông cương mỏi hồn trong bóng chiều.
Lũng đầy mây khói tịch liêu.
Đời phiêu lãng đã hắt hiu tình buồn.

Mấy mùa thu, mấy dư hương.
Đêm hôn mê cũng lạnh phương trời người.
Lửa chiều, điếu thuốc trên môi.
Ta nghêu ngao hát giữa đồi mây bay.

Lời nào ru nhẹ cỏ cây.
Tóc tơ hương muộn lắt lay trong hồn.
Nụ hoa hàm tiếu môi hôn.
Buông trôi nhụy phấn qua cồn đảo xa.

Nay nơi đất tổ quê nhà.
Thầy cô bạn hữu đã xa lắt rồi.
Một mình ngồi dựa lưng đồi.
Ta, một du tử, lại hồi hương đây.

Đoàn Thuận

 

CHIỀU MUỘN

Ta ngồi đốt điếu thuốc Mai.
Ngoài kia chiều muộn đã phai nắng rồi.

Bão xa thổi lạnh qua đồi.
Những con chim nhỏ đã thôi gọi bầy.
Mênh mang một ánh lửa chài
Ru con sông ngủ giấc dài về khơi.

Ta còn em giữa cuộc đời.
Em còn ta nợ một lời ước xưa.
Đi về trong cõi nắng mưa.
Che nhau dưới bóng bụi thừa mênh mông.
Sẻ chia giây phút buồn lòng.
Buông tha sân hận bềnh bồng theo mây.

Chiều quê ta lại về đây.
Âm thầm tưởng nhớ tháng ngày trẻ con.
Dại khờ mơ mộng vuông tròn.
Bên bờ tăm tối mỏi mòn thâm sâu.
Bao lần lặng lẽ u sầu
Sương như pha bạc mái đầu thanh xuân.

Tự ta nghĩ ngợi bâng khuâng.
Ta còn mắc nợ bội phần đời ta.

Đoàn Thuận

CHIỀU YÊN

Trời chiều thắp lửa trên non.
Người đi khuất nẻo trăng còn xa mơ.
Ta qua cồn cát đợi chờ.
Khúc Nghê Thường lắng xuống bờ thinh không.

Phút giây nào giữa mênh mông.
Em và ta, một tấc lòng nhân duyên.
Đưa nhau về bến hồn nhiên.
Đóa hoa núi cũ tỏa triền miên hương.

Dìu nhau qua lớp bụi đường.
Qua màn mây khói gió sương lạnh lùng.
Chung tay từng bước thung dung.
Đi về đất trọ vui cùng cỏ cây.

Tịnh yên bến nọ bờ này.
Nương theo phận mòng qua ngày lãng du.

CHIỀU PHAI

Chiều phai nắng, lạnh dòng sông
Con thuyền gác mái bềnh bồng nhẹ trôi.
Đàn chim về tổ qua đồi.
Sao mờ tịnh lắng khúc nôi niệm trầm.

Đoàn Thuận

 

VỀ LẠi XÓM CŨ

Về đây trong lũng mây chiều.
Mưa rơi thôn lẻ ít nhiều bâng khuâng.
Suối trôi trong dáng ngại ngần.
Người đi đề nhớ đôi lần trong mơ.

Bãi hoang với cát lưng bờ.
Dấu chân chim đã mịt mờ lối xưa.
Một đời ta những nắng mưa.
Lời ca dao cũ đong đưa phố sầu.

Ta về ngã nón qua cầu.
Nhớ trang thư cũ những câu tạ từ.
Có gì đâu một mùa thu.
Ngày thơ ấu đó cũng mù xa thôi.

Giờ ta xóm cũ bồi hồi.
Nghe hoàng hôn rụng cuối trời buồn tênh.

Ở QUÊ

Nơi nào còn một đào tiên?
Một Đông Phương Sóc, một miền lãng du?
Ta về làm một người ngu.
Hát ngao dưới bóng xuân thu quê nhà.

Đoàn Thuận

TÌNH QUÊ

Trăng hồn nhiên rụng sau non.
Ta sinh ra để làm con đất này.

Biển mùa đổ nắng đầy tay.
Ta rong chơi những tháng ngày bé thơ.
Đồng chiều rạ phủ đầy bờ.
Nghêu ngao hát với bài thơ đất trời.

Ru buồn tiếng Mẹ à ơi.
Ta thiêm thiếp ngủ trong lời ca dao.
Giếng thơi ngụm nước ngọt ngào.
Tình quê mẹ đã thấm vào thịt xương.

Ta về, tóc rối viễn phương.
Nôi xưa ru mộng bình thường, vậy thôi.

ƯỚC HẸN

Người đi ước hẹn một chiều.
Mùa thu biếc phủ lên điều tưởng quên.
Ở đâu neo bóng con thuyền.
Ta như trăng vỡ một miền cỏ lau.

Người đi ước hẹn mùa sau.
Ta chiều quê cũ nhớ màu mắt xưa.

Đoàn Thuận

 

Ở QUÊ NHÀ

Biển ru dương liễu đôi bờ.
Sông ru lau lách, trăng mơ màng thuyền.
Đời ru người mộng bình yên.
Ta ru ta, những đêm huyền thoại xưa.

BÊN BẾP LỬA CHIỀU

Bâp bùng ánh lửa bên non.
Mái chiều khuất cuối dặm mòn quê xa.
Sau nương rơi giọt trăng tà.
Ngỡ như bóng mẹ ta nhòa trong sương.

Bếp than hồng ấm một phương.
Hương cau, hương dã quì, vương đầy hồn.
Hoa nào nhớ ngát môi hôn.
Sóng ru tiếng biển nhớ cồn đảo xưa.

CÕI YÊN HÀN

Xa đâu vương sợi tơ trời
Âm xưa lắng một dòng trôi vào chiều.

Thềm ngoài mưa đọng xanh rêu.
Em co ro bóng ngồi khêu bếp tàn
Nhen lên trong cõi yên hàn
Thoảng hương tóc cũ bàng hoàng trong nhau.

Đoàn Thuận

 

THU VỀ NHỚ MẸ

Cây thu trả lại thu vàng.
Mẹ vào cõi hạc phía ngàn biếc xa.
Con theo bóng những mùa hoa.
Hát rong nỗi nhớ buồn qua đôi miền.

NHỚ QUÊ XA

Sương mù phủ đỉnh non cao.
Rừng thông xanh đã xanh bao mùa rồi.
Đồng xa nhớ hạt mưa rơi.
Con thuyền yên nhớ biển khơi trăng đầy.

Dòng sông trôi nhớ bóng cây.
Xa xôi nhớ dáng Mẹ ngày tha phương.
Một mình nơi phố mù sương.
Nghe thông reo nhớ liễu dương quê nhà.

NHỚ HUẾ

Ta về núi nhớ phố nâu.
Mái đình xưa, bến Văn Lâu xa mờ.
Dưới hiên mai nhớ câu thơ.
Ru đêm như tiếng vỗ bờ Hương Giang.

ĐOÀN THUẬN

 

LỬA BÊN RỪNG

Ở đâu một cõi vô hình.
Ở đâu một cõi lặng thinh chân ngày.
Mẹ về có nhẹ cánh mây.
Có quên được những tháng ngày gió mưa.

Quê này tiếng sóng đong đưa.
Nghe như điều hát ru xưa bao lần.
Để khi chiều xuống bâng khuâng.
Lời ru trong nỗi nhớ gần nhớ xa.

Cõi đời này Mẹ đã qua.
Tóc tơ trắng cát bụi nhòa sau lưng.
Con đêm nhóm lửa bên rừng.
Còn nghe lạnh lẽo lưng chừng núi non.

LỬA ĐẦU NON

Người đi tìm cõi vô cùng
Mơ thiên thai thuở mông lung mất còn.
Mộng hoàng hoa đỉnh chon von.
Ta về nhóm lửa đầu non nhớ người.

Nụ đời đâu mãi xanh tươi.
Mùa trôi bụi lấp môi cười một mai.

Đoàn Thuận

 

ĐỐM LỬA

Hạ sang rớt giọt mưa nguồn..
Nhớ câu lục bát ru buồn nhân gian.
Mờ xa đốm lửa trên ngàn..
Giọt sương cõi tục đã tràn mắt đêm.

MÂY HÀNG

Mây Hàng lơ lửng về đâu..
Thuyền nan neo bến giang đầu đêm khơi..
Tiếng tiêu buồn vọng chơi vơi..
Xa quê du tử cuối đời tha phương.

.
NGOÀI ĐÀO NGUYÊN

Bụi đường theo gió mù bay.
Rơi trên tóc rối phủ đầy bờ vai.
Lang thang du tử dặm dài..
Theo chân Lưu Nguyễn cõi ngoài đào nguyên.

TỰ HIỂU

Đôi lần ta nhận ra ta..
Buồn đau thuở nọ đã xa lắc rồi..
Còn đây niềm mọn bồi hồi..
Thầm thương nhớ Mẹ một thời thôi nôi..

CÁT SỸ
Đoàn Thuân

 

TỰ TA

Đất trời tự nắng tự mưa.
Một ngày bình thản tiễn trưa sang chiều.
Tự ta chuốc lấy bao điều.

THẦM NGHĨ

Đi về trong cõi tháng năm.
Lặng theo bóng mẹ vào thăm thẳm đời.
Giữa mênh mang biển và trời
Ta nghe giọt hát của lời cỏ cây.

Vội cầm thân phận trên tay
Lửa đêm mưa sưởi ấm ngày bé con.
Yêu người giữa mất và còn
Giữa thiêm thiếp nhớ và mòn mỏi quên.

Bỏ chiều về ngóng mai lên
Mấy bông cúc nở vàng bên phố nhà.
Dòng sông nào chảy về xa
Trong thăm thẳm ấy ngẫm ra đời mình.

Đoàn Thuận

 

KHOẢNG ĐỜI

Đường đời cao thấp chênh vênh.
Cỏ cây rừng núi thác ghềnh gió sương.
Người đời luồn lách qua truông.
Thăng trầm đắp đổi vui buồn trăm năm.

GIỌT NƯỚC

Giọt mùa rót lạnh mái xưa.
Hạt chưa hủy thể, hạt chưa sang mầm.
Sắc màu từ cõi lặng câm.
Hóa thân trong giọt nước trầm mặc kia.

CÒN MẤT

Mùa màng nương rẫy ruộng vườn.
Theo thời mưa nắng gió sương mất còn.
Nắng hanh hạn hán héo hon.
Mưa dầm bão lũ xói mòn giang san.

NHƯ BỤI

Buông theo cánh gió phiêu diêu.
Ru vào quên lãng bao điều tiếc thương.
Tịnh yên qua những đêm trường.
Ngỡ ta như bụi gió sương nhuận trầm

Đoàn Thuận

 

VỀ

Trót đi có lúc phải về.
Vườn xưa khép cửa bạn bè với hoa.
Đất trời một cõi riêng ta.

DƯỚI MÁI RÊU

Ta về lợp lại mái rêu.
Nghe hương đất cũ ngoài lều gác cây..
Bụi tro lạnh phủ bao ngày.

Không còn làm thợ làm thầy.
Ta xin làm bộ lấy ngày làm đêm.
Làm thinh cho lặng lẽ thêm.

TRÚ NGỤ

Ta nương náu bóng mùa sau
cùng hương hoa cỏ, từ màu khói mây,
với trang lưu bút bụi dầy.

MỘT HÀN SỸ

Có hàn sỹ nhặt chiều tà,
ẩn trong xóm vắng, vườn hoa cúc vàng.
Sau lưng, bỏ dại bờ hoang.

Trường xưa xóm học xa ngàn,
xuân thu mấy độ lỡ làng giấc mơ.
Mưa trời ủ dột lời thơ.

CÁT SỸ
[Đoàn Thuận]

 

Thuận già rất cám ơn quí Thân Hữu đã chúc mừng sinh nhật.
Tôi xin phép đăng lại bài thơ về tuổi già.

TỰ MỪNG TUỔI

Ta tự mừng ta tuổi tám mươi.
Đất trời thương tặng những buồn vui.
Tưởng đâu đã khuất vào thiên cổ,
Nhìn lại còn nguyên giữa hiện thời.
Tài nọ danh kia còn huyễn hoặc,
Thân này kiếp trước tự luân hồi,
Vòng quay con giáp như viên cuội,
Thả xuống thinh không một tiếng rơi.

Bến Cát, 2021

NHƯ BÓNG MÂY

Mới đó mà ta tám mốt đây.
Đời người như thể bóng mây bay.
Lưng còng cát bụi hai vai mỏi.
Tóc muối phong sương một mái đầy.
Thư pháp, tay rung nhoè nét bút.
Câu thơ, trí nhọc cạn lời hay.
Tạ ơn trời đất cho thêm tuổi.
Để được rong chơi giữa cõi này.

Hạnh Thông Tây, 2022
Đoàn Thuận

GIỌT ĐÀN BẦU

Cung trầm từng khoản nhạc êm.
Bay qua đồng lúa ru đêm xóm làng.
Lam thôn điệu cổ dân gian.
Câu hò lục bát, giọt đàn bầu xưa.

ÂM THỪA

Hạt buồn nhuận thấm hồn đời.
Âm thừa giọt lệ không lời chia ly.
Ta theo cát bụi ra đi.
Người về nuối mộng xuân thì một mai.

TIẾNG CHIM

Có con chim lẫn phố mây.
Để rơi tiếng hót xuống đầy hoàng hôn.
Như rơi yên tĩnh vào hồn.
Như hương xưa thấm vào ngôn ngữ chiều.

SÁO DIỀU

Nhớ hoài một tiếng sáo diều.
Hiu hiu lời Mẹ ru chiều buồn trôi.
Xa rồi một thuở thôi nôi.
Tiếng tiêu trúc vẫn bồi hồi trong ta.

Đoàn Thuận

 

TRÊN ĐỒI DƯƠNG

Ta từ trong cõi hồn nhiên.
Về nương thân ở một biên cương này.
Suối còn mơ dáng mây bay.
Người ao ước sống những ngày bình yên.

Gió lan man thổi một miền.
Biển hư ảo ánh lửa thuyền xa khơi.
Mưa ngâu hay sương khuya rơi.
Ngoài kia ướt lạnh một đồi dương đêm.

Ngảnh Tam Tân, 1970

BÊN SUỐI VẮNG

Người đi đãi cát tìm vàng
Ta còn mê mải về ngàn rong chơi
Qua con suối vắng tìm lời
Gieo câu lục bát vào nơi lặng thầm

Chợt nghe bấc lạnh căm căm
Giật mình tóc đã hoa râm lâu rồi

Hà Tiêni, 1972
CÁT SỸ

 

ĐÃ XA

Người như đùa với trăm năm.
Như không biết nỗi đau thầm trong ta.
Mộng ngày trước đã rất xa..
Con đò bến cũ ta qua một mình.

ĐIỀU CÒN LẠI

Có khi lỡ một chuyến về..
Xa người mới biết mình mê muội nhiều..
Tình xưa còn lại bao nhiêu..
Đôi dòng thư cũ, một chiều biển xa.

TƠ VÀNG

Khi người bẻ nửa vần thơ.
Ta về ném hết vào bờ thời gian.
Bao đêm thức dưới trăng làng.
Thương con tằm nhả tơ vàng bến ngâu..

NHƯ SƯƠNG

Phụ ta sao người lại buồn.
Ảo mờ phố huyện, lạnh nguồn mây giăng.
Người ơi, xin chớ băn khoăn.
Chút tơ vương cũ cầm bằng như sương.

CÁT SỸ

 

NHỚ MỘT CON ĐÒ

Đâu rồi một chuyến đò ngang.
Để người phố chợ qua làng thăm nhau.
Tiếng chuông rơi phía đồng sâu.
Mơ hồ như giọt đàn bầu ai xưa.

Quán lều bến vắng khuya mưa.
Ngỡ ngàng ta tưởng như chưa hề về.
Hay đò lạc bến sông mê.
Để dòng lũ cuốn trôi về biển khơi.

Đò ơi !
Tiếng vọng không lời.

TẢN MẠN SÔNG

Mưa chiều xưa, mưa chiều nay,
Cũng là một giọt nước đầy trăm năm.
Rơi từ thuở hạt chưa mầm,
Vẫn rơi mãi đến chỗ nằm lặng thinh.

Con sông quên mất tuổi mình.
Áng mây phổ cổ quên nghìn năm bay.
Ta trong một nỗi nhớ đầy,
Bóng hoa phượng vĩ một ngày hạ phai.

Cây dương ru bóng đêm dài.
Ta nghiêng giấc nghĩ mưa ngoài sông trôi.

ĐOÀN THUẬN

 

MƯA PHÙN

Mưa phùn phơ phất ngang hoa.
Làn hương dịu lắng vào xa núi rừng.
Hơi xuân buông thả dửng dưng.
Cùng mây sương khói ngập ngừng dưới thung.

CHIỀU THU PHAI

Làn mưa lành lạnh trong chiều.
Rơi rơi dìu dịu đìu hiu hiên ngoài.
Vương buồn một thoáng thu phai.
Thầm nghe như giọt lệ dài mùa xưa.

GIỌT MƯA

Ngửa tay hứng giọt mưa đầy
tưởng như lời của một ngày thung xa.
tưởng hương của một loài hoa,
vương vương một thoáng chiều tà trong cây.

MÂY TRÔI

Mây trôi qua núi ngang trời.
Hương thời thơ ấu nay dời về đâu.
Ta đôi lần đứng bên cầu.
Nghĩ quanh con sóng bạc đầu vì ai ?

CÁT SỸ
Đoàn Thuận

 

THÂN LÁ VÀNG

Lá vàng tựa một cánh chim
nhẹ bay xuống đậu im lìm ngoài hiên.
Ngày nao xa lắc một miền.
Nay bên thềm gạch tịnh yên phố chiều.

Xóm nghèo hẽm vắng đìu hiu.
Một mình chiếc lá ít nhiều đơn côi.
Vàng hoe dáng vẻ bồi hồi.
Nhớ về nhành cội bên đồi xanh non.

Úa màu mặt lá héo hon.
Cuốn cong cọng nhỏ mõi mòn ngóng trông.
Bao mùa theo gió bềnh bồng.
Hương xưa với lá thong dong lưng trời.

Đôi khi một giọt sương phơi,
nằm trên lưng lá cùng rơi xuống đời.
Nắng thơm sương mọng thoảng hơi.
Bỏ quên thân lá rụng rời phiêu diêu.

Tình cờ lá xuống phố chiều.
Nằm bên rêu biếc buồn hiu bên thềm.

CÁT SỸ
Đoàn Thuận

 

MẶT HỒ

Đồi xa cây xác xơ thu.
Mặt gương hồ lắng cỏi u minh này.
Điệu buồn rót mỏi trên tay.
Mưa rơi xóm hạ vắn dài mái rêu.

HƯƠNG TRÀM

Cây vông thắp lửa cuối chiều.
Ta qua phà Bắc nhớ nhiều kênh Nam.
Ai ngồi giặt áo bên vàm.
Tóc mây thả hết hương tràm vào ta.

LÁ MƯA ƯỚT

Mưa rào ướt lá vàng khô.
Đầm đìa lướt thướt như mờ lệ rơi.
Đã xa nhành cội đọt chồi.
Nay tràn lũ quét lá rời đất xưa.

BÊN SÔNG DINH

Lau thưa nghiêng trắng sông dài.
Con thuyền gác mái bên ngoài hoàng hôn.
Dòng trôi chia nửa dáng cồn
Hoa bằng lăng rụng tím hồn mênh mông.

CÁT SỸ
Đoàn Thuận

 

CÓ LÚC

Cõi hồn có lúc chơi vơi.
Tưởng trong nắng cháy mưa rơi giọt buồn.

Tưởng đâu xa lạ con đường.
Về qua heo hút một phường phố quen.
Tưởng trong lửa sớm mới nhen.
Hơi mây đá núi lạnh len vào chiều.

Cõi người có lúc quạnh hiu.
Cỏ cây trót đã it nhiều tàn phai.
Nhịp mùa vỗ giấc mơ dài.
Trong muôn thao thức có hoài niệm riêng.

Trăng tà xô bóng cây nghiêng
Bờ khuya mấy độ khuất thuyền trăm năm.
Giữa đời có lúc xa xăm.
Đâu người vườn cũ lặng thầm bên hoa.

CÁT SỸ
Đoàn Thuận

 

HẠ XƯA

Bao mùa hạ đã đi qua.
Cũng qua đi những tuổi hoa mộng rồi.
Ta gom góp nhớ một thời.
Để hoa phượng thản nhiên rơi đường chiều.

PHƯỢNG CŨ

Khi về nhặt cánh phượng buồn.
Nghe mưa tạt ướt nẻo đường về xa.
Tàn lâu rồi những mùa hoa.
Của em áo trắng, của ta dại khờ.

SƯƠNG MÙ

Sương mù theo gió chơi vơi.
Vấn vương liễu rũ thầm rơi hạt buồn.
Giã từ hơi nước mây nguồn.
Giá băng đọng giọt lệ buông xuống đời.

ĐÂU RIÊNG AI

Nắng nghiêng chiều xuống non ngàn.
Cõi đời đâu chỉ bàng hoàng riêng ta.
Nơi nào lối mộng không hoa.
Còn ai về nhặt bóng tà dương xưa.

Đoàn Thuận

 

LƯU BÚT XƯA

Đôi trang lưu bút ngày xưa
nhạt nhòa theo bóng nắng mưa bao mùa.
Lời ghi dưới cánh hoa mua
gợi nhiều kỷ niệm, thẹn thùa riêng tôi.

Bơ vơ khờ dại bồi hồi,
vai đầy cát bụi khi rời cố hương.
Gió đưa phấn trắng sân trường,
pha vào mái tóc màu sương, bạc dần.

Trước dòng chữ viết phân vân,
mắt mờ trán mỏi, lòng bâng khuâng buồn.
Muộn phiền như thể bỏ buông,
nhưng thân chưa thoát khỏi nguồn bể dâu.

Thư xưa tuy đã phai màu,
vẫn thầm nhớ mãi lời cầu bình an.

An Nhơn, 2014
ĐOÀN THUẬN

 

CHIA TAY

Chia tay người ở ga đêm.
Sương khuya mờ bóng cây thềm gạch rêu.
Về mai chân dẫm lên chiều.
Lá bàng mấy phố rụng nhiều lối quen.

ĐỤT MƯA

Đụt mưa chiều dưới hàng cây.
Làm ta chợt nhớ một ngày xa em.
Xin trời đừng đổ mưa thêm.
Giọt xưa đã thấm ướt mèm trong nhau.

GIỮA CỎ CÂY

Người còn điều nhớ để quên.
Ta khờ khạo giữa buồn tênh tháng ngày.
Lời chiều hát với cỏ cây.
Biển chao sóng bạc, non đầy hoa phai.

PHIÊU DIÊU

Mây bay mưa rụng xuống chiều.
Đôi nhành huệ trắng tiêu điều lá hoa.
Mong manh hương phấn nhạt nhòa.
Lẩn vào sương gió la đà phiêu diêu.

ĐOÀN THUẬN

 

LỤC BÌNH TRÔI

Lục bình từng đám lênh đênh.
Nõn xanh bông tím bồng bềnh êm trôi.
Lá già vàng úa bồi hồi.
Che ngang góc rễ thôi nôi một thời.

Sông dài con nước đầy vơi
Rong rêu chìm nổi tả tơi theo dòng
Lục bình đâu mãi thong dong.
Hoa tươi lá búp long đong nở tàn.

Đôi khi ghé tạm bờ hoang.
Cùng bàng lác ngủ mơ màng dưới trăng.
Nước trôi bến đậu đôi đằng.
Phao bèo thuyền lá nhọc nhằn bên nhau.

Gió ru cây cỏ thì thào.
Vi vu như thể lời chào biệt ly.
Tiễn đưa sen ngó hoa quì.
Sông xuôi dòng đến biên thùy nào xa.

Chỉ còn tim tím sắc hoa.
Trên màn màu lục nhạt nhòa phong sương.

CÁT SỸ
Đoàn Thuận

VỀ MỘT DÒNG SÔNG

Xin người chậm phút qua sông.
Thuyền xưa đã mục ta không đưa người.
Bến bờ hãy chậm chiều rơi.
Để ngày tháng cũ chậm trôi theo dòng.

MỘT BẾN SÔNG

Cuối ngày nhớ một bến sông.
Đôi bờ xa thẳm vẫn mong thuyền về.
Biển mù rớt bão lê thê
Ở đâu con sóng vỗ mê man chiều

BẾN CŨ

Biệt ly bến cũ bờ xưa.
Thuyền lưu giọt lệ chiều mưa thôn nghèo.
Cánh bèo mang lá vàng theo.
Sông mùa nước nổi, trời heo hút buồn

TỊCH LIÊU

Ta ra kênh ngắm mây trời.
Hoa lục bình tím như trôi chậm chiều.
Trong vô cùng cõi tịch liêu.
Nghe tan vỡ mộng mùa phiêu du rồi.

ĐOÀN THUẬN

 

VỆT BỤI ĐẤU ĐỜI

Vào đời vấp ngã té lăn.
Đầu u mặt rách, trán hằn vết đau.

Ra đi từ số phận nào ?
Luân hồi nhân quả kiếp sau đời này.
Thân gầy đội bóng nước mây.
Đôi vai cát bụi, bùn lầy gót chân.

Ta tìm đất trọ xa gần.
Đồng hoang phố thị lần quần ngược xuôi.
Mím môi cười nụ ngậm ngùi.
Nghe chim khách hót, buồn vui một mình.

Ai người tâm sự tâm tình ?
Chợ phiên huyên náo, sân đình trống chiêng.
Nơi nao là động đào nguyên ?
Hoa xinh suối mộng non tiên dưới trời…

Vết thương vấp té đầu đời
đã như vệt bụi một thời rong chơi.

Thảo Điền, 2014
ĐOÀN THUẬN

 

NẮNG MƯA

Nắng mưa ấp ủ mộng đời.
Sông xanh nước ngọt mưa rơi trên nguồn.
Nương mùa vạn hữu âm dương.
Ngày lên nắng ấm phai sương đêm trường.

THẦM MƠ

Thầm mơ một cõi xa xăm.
Hoang vu tĩnh mạc lặng câm thác ghềnh.
Hương mùa dịu lắng không tên.
Buông theo mây trắng lênh đênh cuối trời.

PHẬN NGƯỜI

Áo cơm neo chặt phận người.
Nụ đời nát giữa môi cười bể dâu.
Ta đi, sương gió mái đầu.
Ta về, tro bụi nhuốm màu thời gian.

QUẠNH HIU

Hơi mây hư ảo hiên trời
Chợt buông theo tiếng hoa rơi xuống chiều.
Âm thừa chạm đáy cô liêu.
Tưởng đâu hạt lệ khô nhiều tháng năm.

ĐOÀN THUẬN

BỤI BẬM RÊU KHÔ

Mái rêu ngói cổ mưa dầm.
Thanh âm nhã nhạc điệu trầm cung mây.
Lăng tăng trên lớp đất dầy.
Dăm ba hạt bụi nước xoay đục ngầu.

Giã từ kẽ nứt khe sâu
Bụi lầm trôi dạt về đâu mơ hồ.
Giã từ cụm nhỏ rêu khô,
Nơi từng bụi bậm sống nhờ bao thu.

Mưa xa sấm vọng âm u.
Rêu hoang thức giấc giữa mù mịt khuya.
Đâu hay rêu bụi chia lìa.
Lệ trời ướt lạnh đầm đìa tuôn rơi.

Bụi mờ về chốn xa khơi.
Rêu non ở lại bên đời gió sương.

CÁT SỸ
Đoàn Thuận

 

BÓNG MÂY

Người đi ngày một ngày hai.
Ta chon von đỉnh dốc dài vắng xa.
Lũng rừng sương phả chiều qua.
Nghe heo hút bóng mây và cô liêu.

MƯA XA

Ai ngồi hát cuối phố mưa
Nghe xa như điệu ru xưa không lời
Điều gì lẫn quất trong đời
Thầm thì như hạt bụi thời bỏ quên.

BẾN SÔNG MƯA

Đưa người qua bến sông mưa.
Hoa lục bình tím như chưa kịp tàn.
Chiều đầy sóng nước mênh mang.
Chợt đôi bờ rộng một tràng giang xa.

DƯỚI MƯA

Có người lầm lủi trong mưa
Nhặt dăm cánh phượng rơi thưa phương này.
Hương mùa theo chiếc lá bay
Phương kia cuối nhặt dấu giày rêu phong

CÁT SỸ
Đoàn Thuận

 

HẠT BỤI KHE TƯỜNG.

Âm thầm hạt bụi không tên.
Kẹt khe tường nứt dậu phên tiêu điều.
Số phần bụi bậm hẩm hiu.
Gió đưa gió đẩy bao chiều lang thang.

Điêu tàn đền cổ chùa hoang.
Vô tư để ngọn gió ngàn thổi qua.
Bụi nương theo tựa tường nhà.
Vách rêu mái cỏ hiên hoa khe hờ.

Trăng pha nhạt bóng sương mơ.
Hương trời thơm thoảng lặng lờ thinh không.
Trên cao mây trắng bềnh bồng.
Dưới thềm đá cuội bám rong qua ngày.

Mùa trôi vạn hữu vần xoay.
Trầm luân cát đất bùn lầy du miên.
Khe tường như một cửa thiền.
Bụi về cõi bụi nằm yên dưới trời.

Giã từ một thuở chơi vơi
Phong sương xua dạt bụi đời phiêu diêu.
Nay bên kẽ nứt quạnh hiu.
Dường như phận bụi ít nhiều an nhiên.

CÁT SỸ
Đoàn Thuận

BÊN KIA ĐỜI

Bên kia trời đất ban sơ.
Lá dâu chưa biếc, sợi tơ chưa vàng.
Hoa hồn nhiên trước chiều hoang,
Nụ hôn dấu kín mênh mang niềm sầu.

CÕI BỤI

Giọt mồ hôi thấm cõi người.
Thấy trong khô khát nụ cười hồn nhiên.
Đâu cát bụi, đâu nhân duyên,
Đâu đào nguyên cũ cho thuyền về xưa.


ĐƯỜNG ĐỜI

Đường đời đôi ngã ngược xuôi.
Vui tươi hạnh ngộ, ngậm ngùi phân ly.
Mênh mông hữu hạn biên thùy.
Người đời trọ giữa chu kỳ tử sinh.

VIÊN CUỘI

Ta theo hạt bụi vào đời,
Đã thành viên cuội một thời trẻ thơ.
Giật mình giữa những đêm mơ.
Sóng yên nhiên vỗ suốt bờ dâu xanh.

CÁT SỸ
Đoàn Thuận

 

MÁI TÓC THỜI GIAN

Thời gian gõ nhịp séc-na.
Tóc xanh theo đó sương pha mái đầu.

Người đời đứng trước bể dâu,
bên làn cát bụi, dưới màu khói mây.
Mây mưa, đất biến bùn lầy.
Cát chuồi xuống lũng, bụi bay đường dài.

Sao Hôm mong ngóng Sao Mai.
Sao khuya nhấp nháy đêm dài sao rơi.
Sao nào vận mệnh đời tôi.
Mây Hàng lờ lững lưng trời phiêu du.

Quê xưa thăm thẳm dặm mù.
Mẹ nghèo khốn khổ bao thu lệ sầu.
Mắt mờ thao thức đêm thâu.
Mong con đến buổi bạc đầu chưa nguôi.

Còn tôi lưu lạc ngược xuôi.
Thân nơi cõi tạm ngậm ngùi nhớ thương.
Âm thầm mong ước hồi hương.
Dù cho mái tóc bạc đường thời gian.

Hà Tiên, 1979
CÁT SỸ

 

XUÂN HƯU TRÍ

Đinh Hợi mừng xuân chỉ bấy nhiêu.
Lương hưu gói ghém thà hồ tiêu.
Trà sen khách vắng không lo thiếu,
Bánh tét nhà đông chẳng sợ thiu.
Trúc biếc năm qua luôn tiết thẳng,
Mai vàng tháng nhuận vẫn hoa nhiều.
Đời ta hữu hạn trong vô hạn,
Biết đủ dường như đủ mọi điều

XUÂN THA PHƯƠNG

Những đàn chim én đã bay xa.
Vài hạt mai non chuyển sắc ngà.

Sân gạch khách về chân lạ lẫm.
Thềm hoang nhà vắng dấu hài hoa.
Mùa đi luân lạc đâu người cũ.
Xuân đến tha phương nhớ mẹ già.
Cảnh giới vô thường luôn biến dịch.
Chân trời lặng lẽ một mình ta.

CÁT SỸ
Đoàn Thuận

 

TỰ TÌNH

Bên nhau đôi lúc cách xa.
Đường đời trầm mặc tôi qua một mình.
Nỗi niềm trong cõi lặng thinh
Buồn vui tôi tự tâm tình cùng tôi.

Nhớ nhung lòng tự bồi hồi.
Như khô giọt lệ trong đôi mắt buồn.
Thì thầm tự nhủ bỏ buông.
Nỗi đau riêng biệt từ nguồn tang thương.

Nơi nao không bóng gió sương.
Thân nào thoát khỏi đoạn trường bể dâu.
Ra đi cát bụi đầy đầu.
Không cùng tậm niệm biết đâu cõi về.

CÁT SỸ
Đoàn Thuận

 

SẮC HÌNH

Năm tháng ra đi chẳng trở về.
Thuyền trôi lữ khách mãi say mê.
Xuân tàn hoa hạ buồn hiu hắt.
Thu khuất bờ đông lạnh sắt se.
Cuộc sống như mây vào cõi mộng.
Tình yêu tựa nước vỗ chân đê.
Có không còn mất trong hình sắc.
Một tiếng cười hay nỗi tái tê.

CÕI MÔNG LUNG

Thức giấc nhìn ra đêm tĩnh lặng,
Trăng tàn phả tối xuống hoang vu.
Rừng cây gió hú âm mê hoặc,
Núi đá mây che bóng ảo hư.
Phận nọ thân này thời giả tạm,
Duyên xưa kiếp cũ thuở chân như.
Mông lung hoá hiện đời hay mộng.
Ngẫm ngợi niềm riêng giữa mịt mù

CÁT SỸ
Đoàn Thuận

 

ĐỘC HÀNH

Người đông, tôi vẫn một mình.
Ồn ào, tôi vẫn lặng thinh cuối trời.
Bút nghiên đèn sách một thời.
Phấn bay trắng tóc, bụi đời đầy vai.

Sớm khuya tiếng trẻ học bài.
Sân trường tiếng trống vang dài làng xa.
Không gian đọng giọt âm ba.
Nghờ như giọt mực rơi nhòa trang văn.

Độc hành lầm lủi dưới trăng.
Tôi tìm đất trọ giữa băng giá mùa.
Vị đời mặn ngọt cay chua.
Cô đơn phận mỏng thẹn thùa một tôi.

CÁT SỸ
Đoàn Thuận

 

NGHỈ HƯU

Như hoa nở lụn chuyện ngày thường,
Kẻ sỹ về hưu ẩn một phương.
Ngõ trước đôi khi rêu dại phủ,
Vườn sau lắm lúc cỏ hoang vương.
Mai gầy ủ lộc chờ mưa nắng,
Trúc thẳng lên măng đón gió sương.
Phố cũ đường xưa đầy cát bụi.
May còn mái ấm giữa quê hương.

CHUYẾN ĐÒ MUỘN

Thuyền nan đỗ muộn chuyến đò quê,
Khách lạ dò tìm đất trọ thuê.
Ngõ cụt vườn hoang đêm vội xuống,
Đường mòn cỏ lấp dấu chân về.
Lò mò lạc mãi bờ tăm tối,
Lẩn thẩn lầm hoài bến mộng mê.
Với túi hành trang đầy cát bụi,
Ngồi buồn dưới liễu rũ lê thê.

ĐOÀN THUẬN

 

MỘT DU TỬ

Bao mùa ở trọ đó đây.
Phò Trì Sao Cháy những ngày bé thơ.
Nghe chim xanh hót trăng mờ.
Nhìn đồi hoa dại, thầm mơ trái rừng.

Giã tử Động Chú miền bưng.
Leo quanh Núi Nhọn, vượt từng Suối Sâu.
Tìm vào Bến Lội Bình Châu.
Trường làng tiểu học tập câu vỡ lòng.

Đi lên Bà Rịa phố đông.
Bơ vơ khờ dại giữa dòng gió sương.
Thầy cô bạn học sân trường
giúp tôi tiếp cận văn chương tú tài.

Sài Gòn tiếp bước tương lai.
Văn Khoa Sư Phạm luyện tài dưỡng tâm.
Dạy tư kèm trẻ nhiều năm.
Tập tành nghiên bút phương châm Thầy Đồ.

Ra trường về xứ Đông Hồ,
Mê âm vọng cổ bên bờ Thuận Yên.
Nơi trường Trung học Hà Tiên,
đọc Chiêu Anh Các, ngẫm huyền thoại xưa.

Ba năm dưới bóng nắng mưa,
Được thay nhiệm sở dù chưa đến kỳ.
Hồi hương đất mẹ La Gi.
Sau lưng bỏ lại thời ly biệt buồn.

Lang thang bên suối cội nguồn.
Cùng hương đồng nội, với luồng gió thu.
Xa rồi xứ lạ phiêu du.
Nhớ câu lục bát Mẹ ru thuở nào.

La Gi, 1972
CÁT SỸ

 

NHÀ XƯA

Nhà tôi ở cuối nẻo thôn dâu.
Lối ngõ quanh co khuất phố lầu.
Bụi bám tường vôi mùa bấc lộng.
Rêu phong mái ngói bóng mưa ngâu.
Vài pho tượng đứng buồn năm tháng.
Mấy bức tranh treo bạc sắc màu.
Tịnh xá am mây đều chẳng phải.
Hồn xưa nếp cũ nghĩa tình sâu.

CỘI  MAI

Đông sang trẩy lá cội mai già.
Chuyển nhựa trăm năm dưỡng sắc hoa.
Hạt mọng rơi thầm trên đất cũ.
Hương nhu bay khuất phía trời xa.
Mưa ươm nụ mới màu biêng biếc,
Nắng nhú chồi non dáng thướt tha.
Én gọi mùa về xuân trở lại,
Riêng ta tuổi dại mãi trôi qua.

ĐOÀN THUẬN

 

TẬP LÀM THƠ

Làm thơ Đường Luật thật công phu,
Hạn vận niêm thanh đối ngẫu từ.
Bố cục theo khai thừa chuyển hợp,
Nội dung hướng thiện mỹ chân như.
Trắc bằng cưỡng lạc đừng sai luật,
Bất luận phân minh tránh ảo hư.
Tứ tuyệt bốn câu cô đọng ý.
Năm vần bát cú tám dòng thư.

TRANG  TỰ SỰ

Từ giã “mái xưa” buổi thiếu thời.
”Dưới hoa” mấy nẻo “đất và người”.
Sau “mùa bấc biển”, “dấu xưa” khuất,
Trước “lửa đầu non”, “sắc phượng” rơi.
”Khoảng lặng của hoa”, “mùa thạch thảo”.
”Lời chiều” dưới “tượng”, “tạ ơn đời”.
”Rong chơi cát bụi” cùng “đời sậy.”
Mộng “lửa đêm mưa” ở cuối trời.

ĐOÀN THUẬN

 

THỬ TẠC TƯỢNG

Nhặt đá vùi quên ở vệ đường.
Tôi về gột rửa dấu phong sương.
Tìm trong vết nứt màu hoang phế.
Thấy giữa vân hoa sắc đoạn trường.
Tạc nỗi buồn xưa lên thạch thảo.
Ghi niềm vui cũ xuống sa cương.
Mai sau núi lở sông hồ cạn.
Tượng vẫn bên đời vọng cố hương.

TƯỢNG BÁN THÂN

Tạc mặt con người chẳng giống ai.
Đâu thành thần tượng hay anh tài.
Hằn sâu nếp trán chiều suy tưởng.
Nứt lệch làn môi điệu cảm hoài.
Hảo hán giang hồ râu cắt ngắn.
Giai nhân thục nữ tóc buông dài.
Tìm chi giữa cõi hồn nhiên trước.
Diện mục đời ta lúc đậu thai

ĐOÀN THUẬN

 

TỰ THUẬT

Trọn một đời tôi dưới mái trường,
Bao mùa phượng thắm để tơ vương.
Thư sinh áo vải buồn xa Mẹ,
Giáo chức trường làng sống với lương.
Sách cổ dăm pho nghiền ngẫm ý,
Lan rừng mấy chậu tự nhiên hương.
Nhà xưa xóm cũ về nương náu.
Một tấc lòng quê trước gió sương.

TỰ CẢM

Cây cỏ theo mùa tự nở tàn,
Hương trời mấy cõi vẫn mênh mang.
Người đi núp bóng nơi quyền thế,
Kẻ đến tìm vui chốn mộng vàng.
Chân tín giữa đời nuôi trí sáng,
Nghĩa nhân muôn thuở dưỡng tâm nhàn.
Dù cho trái đất đầy dông bão,
Gia đạo ngàn xưa chẳng xoá tan.

Đoàn Thuận

 

TỰ TRÀO

1.
Lỡ thầy lỡ thợ hay lần khân.
Lúc tỉnh khi say đâu một lần.
Dạy học quanh mùa không đủ chữ.
Phụ hồ lắm lúc chẳng nên thân.
Buồn tình tạc tượng chơi, vài bức.
Hứng chí làm thơ thử, mấy vần.
Ít bạn, nhiều hoa, giàu gió cát.
Đi về quanh quẩn một vuông sân.

2.
Khổ cực chân quê xấu lạ thường
Nửa đời bầm dập sống tha phương
Chăn trâu ở mướn thời thơ ấu,
Dạy học làm bia buổi thị trường.
Chẳng biết cúi luồn, nhiều kẻ ghét,
Không quen nịnh bợ, ít người thương,
May sao cũng có căn nhà nhỏ.
Tạm trú qua ngày nhớ cố hương.

ĐOÀN THUẬN

 

NHƯ BÓNG MÂY

Mới đó mà ta tám mốt đây.
Đời người như thể bóng mây bay.
Lưng còng cát bụi hai vai mỏi.
Tóc muối phong sương một mái đầy.
Thư pháp, tay rung nhoè nét bút.
Câu thơ, trí nhọc cạn lời hay.
Tạ ơn trời đất cho thêm tuổi.
Để được rong chơi giữa cõi này.

GIẤC MƠ MAI

Đất trọ ngày trôi năm tháng tận.
Ta về quạnh quẽ ngóng trời xa.
Đường đời vội vã người xuôi ngược.
Phố chợ ồn ào khách lại qua.
Trẻ dại loanh quanh nơi lớp học.
Thân tàn lụ khụ chốn ta bà.
Mơ mai trở lại miền thanh tịnh.
Trú ngụ bình yên dưới bóng hoa.

Hạnh Thông Tây,2022
Đoàn Thuận

 

MỘT THOÁNG

Rồi phai thôi những ngày xuân.
Trăm năm còn đọng nơi sân nắng chiều.
Trên non lau lách đìu hiu.
Dưới mây đầu phố cây xiêu bóng tà.

Đường về thôn chợt rơi hoa.
Lửa hương như đã phôi pha lâu rồi.
Ta lên dốc núi quen ngồi.
Bời bời nghe cát bụi dời về xa.

THINH LẶNG

Biết trăng rồi có lúc già.
Ngày trôi còn lại bóng tà dương thôi.
Biết người có lúc xa xôi.
Bổng dưng có lúc ta ngồi lặng thinh.

THỜI GIAN 2

Không người, năm tháng vẫn trôi.
Không thời gian, không ai ngồi chờ ai.
Không sao Hôm, chẳng sao Mai.
Không ta, đâu biết đêm dài hay không?

CAT SỸ
Đoàn Thuận

 

NHỊP THỜI GIAN

Đồng hồ tíc-tắc trên tường.
Thời gian theo nhịp vô thường êm trôi.
Tháng ngày xé lịch mùa đời.
Nhân thân khoảnh khắc rã rời thiên thu.

Vào đời dò dẫm lộ mù.
Bờ mê bến mộng âm u bóng người.
Đồng thuyền xuôi mái vui cười.
Bên nhau xuân thắm hoa tươi hương nồng.

Ngày lên nắng ấm mênh mông.
Đêm về như lớp sương trong mịt mùng.
Dù lòng mơ ước thủy chung.
Đồng sàng dị mộng lạnh lùng chia phôi.

Cùng chung vạn hữu luân hồi.
Loài người nương tựa dòng đời trăm năm.
Nhịp chân ánh mắt xa xăm.
Trở về cát bụi âm thầm bỏ buông.

CÁT SỸ
Đoàn Thuận

 

THỜI GIAN

Một đời như thoáng mây bay.
Sóng bạc đầu vỗ tháng ngày mặn môi.
Nắng mưa làm mỏi bước đời.
Tưởng đâu hụt hẩng giữa thời gian trôi.

DÒNG THỜI GIAN

Một ngày tằm đã nên tơ.
Thiên thu một phút tình cờ nên ta.
Một lời hương chợt thành hoa
Nghe trong tiếng lụa xé nhòa sương tan.

Ta đi suốt những chiều tàn.
Tìm em dưới bóng hoa vàng hồn nhiên.
Trái vông khô rụng một miền.
Bổng dưng cháy lửa cuối triền sông xa.

Có hoa như đã có ta
Không em một cõi ta bà vắng không.
Dặm về cố quận mênh mông.
Hoa kia bướm nọ bên dòng thời gian.

CÁT SỸ
Đoàn Thuận

 

MÀU THỜI GIAN

Tháng ngày tư nó không buồn
Trăng không hoài niệm, mưa nguồn không đau.
Người về, vui nhịp chân mau
Người đi, bỏ phố tím màu hoàng hôn.

Đêm ngừng trước những môi hôn
Dăm ba lá rụng vào hồn mùa thu.
Hồng hoa tàn trắng sương mù
Một dòng trôi mãi hoang vu bến bờ.

Thoáng mùa chạm nhẹ lên thơ
Trăng khuya ngủ lạnh, đêm mờ khóm lau.
Lối vườn rơi mỏng hương cau
Giấy thơm lừng giọt mực màu thời gian.

BỤI THỜI GIAN

Bụi thời gian lấp nụ cười.
Trăm năm đâu biết phận người một đêm.
Rừng xa lá có xanh thêm.
Tóc ta sao cứ từng đêm trắng nhiều.

CÁT SỸ
Đoàn Thuận

 

TÌM VỀ ĐẤT TRỌ

Nương theo từng nhịp thời gian.
Lần tìm đất trọ dưới làn khói sương.
Ngược xuôi qua mấy dặm đường.
Bờ mê bến lú đoạn trường bể dâu.

Lá thuyền neo bến giang đầu.
Sông Ngân, Ô Thước bắt cầu sang ngang.
Hương trời vương áng mây Hàng.
Uyên ương xây tổ mộng vàng tơ duyên.

Giã từ tiên nữ đào nguyên.
Bồi hồi Lưu Nguyễn về miền đất xưa.
Đường trần cát bụi nắng mưa.
Đồng quê bến đổ bao mùa vần xoay.

Chim rừng vỗ cánh hương bay.
Người đời một thoáng tóc mây bạc đầu.

CÁT SỸ
Đoàn Thuận

 

MỘT NGÀY QUA.

Hừng đông trời tỏa ánh hồng.
Trưa đưa ngày vượt bầu không qua chiều.
Đôi bờ cỏ dưới nắng thiêu.
Hoa sầu lá muộn cây xiêu bóng tà.

TRƯA HÈ

Cỏ ôm giấc ngủ chân ao.
Khóm lau nghiêng nắng nhẹ màu khói lay.
Khô khua gió chạm vào cây
Sắc rong dưới bóng hồ đầy hương sen.

CHIỀU THU PHAI

Làn mưa lành lạnh trong chiều.
Rơi rơi dìu dịu đìu hiu hiên ngoài.
Vương buồn một thoáng thu phai.
Thầm nghe như giọt lệ dài mùa xưa.

ĐÊM ĐÔNG

Đêm đông lạnh giá mù sương.
Từ xa vang vọng tiếng chuông nhà thờ.
Sông dài vắng lặng đôi bờ.
Đôi nhành nguyệt quế cạnh tơ liễu buồn.

ĐOÀN THUẬN

GHI CHÉP CUỐI NGÀY.

1.
Tia nắng cuối cùng xuống phố
trời chưa sang thu đâu heo may
dăm chiếc lá khô rơi
chiều thinh vắng
lạnh hiên ngoài.

2.
Một đoá mai nở giữa năm bâng quơ
chẳng kịp theo xuân về
mưa rào qua mái phố
nhạt nhoà hàng me.

3.
Hẻm cụt mất điện quánh đặc bóng đêm
qua khung cửa hẹp
nơi đỉnh cột đèn chết
đám mây sau mưa như còn trôi
trên cao một giọt sáng rơi.

4.
Lá thư từ xa xôi
con tem miền tuyết lạnh
nằm yên nghe chiều trôi.

5.
Ngày ra đi
xe tốc độ vút qua bụi mù
bỏ lại mảng tường loang lổ phố thị
ta vẫn chờ mãi ta nơi đất trọ heo hút nẻo về

Dường như ai đó nhắc ta đừng hẹn chờ vô lối
rồi mai cuối đường thế nào mặt trời cũng lên
dù chiều nay hay ngày sau bất ngờ mất ánh sáng
ta vẫn dặn lòng ta tỉnh thức đừng buồn.

6.
Một khắc trời yên gió
chiếc lá rách ngủ quên nơi bậu cửa cuối chiều
trang thư chưa lên đèn con chữ dốt đặc cô liêu
cánh cửa đóng sập vào tối

7.
Hằn trong vắng lặng một giọt sonate
chạm lòng đêm hiền từ
ta dò tìm khuôn mặt xưa theo dòng chữ
hạt lệ nào khô rơi xuống hoang vu.

ĐOÀN THUẬN

 

BẾN CŨ VẮNG NGƯỜI

Ngày qua xóm mạc làng quê.
Ruộng đồng bến đỗ bờ đê bãi lầy.

Vẳng xa tu hú gọi bầy.
Đàn cò vổ cánh nhẹ bay ngang trời.
Lời ca vọng cổ  chơi vơi.
Lam thôn câu hát ru đời yên nhiên..

Sông sâu chia cách đôi miền.
Mênh mông lũ ngập đò thuyền ngại qua.
Bên kia sương khói mù pha.
Bên này nước nổi phù sa lắng trầm.

Xuồng con neo dưới bóng râm
Mong chờ người cũ xa xăm không về.
Bèo trôi liễu rũ lê thê.
Cỏ hoang hoa dại tư bề rã riêng

CÁT SỸ
Đoàn Thuân

 

TIA NẮNG

Mặt trời từ đỉnh cây cao.
Thả buông tia sáng xuống ao sen hồng.
Dịu hương trầm tích tĩnh không.
Nắng vàng mây trắng bềnh bồng phiêu du.

BÓNG NẮNG

Bên thềm bóng nắng lặng căm.
Đâu soi thấu nỗi thăng trầm cỏ hoa.
Ngày trôi nắng nhạt chiều tà.
Hương nhu bảng lảng phai nhòa qua đêm.

NẮNG PHAI

Thoáng nhanh ánh nắng qua chiều.
Rừng cây núi đá thủy triều mờ phai.
Lẫn trong cát bụi u hoài.
Phận đời mỏng mảnh cũng mai một dần.

NGÀY TÀN

Ngày tàn nắng đổ bên non.
Chiều trôi bóng ảo ăn mòn lũng hoang.
Chim bay về tổ từng đàn.
Dư âm tiếng hót mơ màng vào đêm.

MIỆT THỨ XƯA

Bơi xuồng ghé miệt thứ xưa.
Khung trời khác trước như chưa lần về.

Khuất sâu xóm đước nhà quê,
chòi tranh vách lá bốn bề cỏ hoang ?
Nay, thêm đôi túp lều sàn,
nương rau luống cải sau hàng dậu tre.

Dòng kênh xô dạt bờ kè,
bồi lên gò đất, xoi khe nước dài.
Đó đây hoa dại lúa rài,
cùng mùa nước nổi phôi phai nở tàn.

Lục bình ngồng tím trôi ngang,
tiễn đưa cò trắng từng đàn về xa.
Trong ao sen ngó chiều tà.
Tịnh yên vườn tược sương pha mù trời.

Xuồng neo bến lạ đêm khơi.
Người xưa đất cũ theo đời đổi thay.

CÁT SỸ
Đoàn Thuận

ÁNH NGÀY

Bình mình đánh thức mặt trời.
Hừng đông soi sáng mộng đời nhân gian.
Đêm mờ đón ánh ngày sang.
Tối tăm u uẩn bất an phai dần.

SƯƠNG MAI

Bấc mang rét lạnh đông về.
Bóng hoàng hoa nắng thu hề đã phai.
Giọt hương ướp trắng sương mai.
Thấm vào hồn đá hình hài cỏ cây.

MỘT TRƯA XƯA

Đôi lần nhớ một trưa xưa.
Lắt lay một chuyến đò đưa về làng.
Phố quen chợt rụng lá vàng.
Một người nghiêng nón bên hàng dương xa.

MỘT CHIỀU MƯA.

Đò ngang bến đổ chiều mưa.
Không lời ly biệt người xua xa mờ.
Ta về nghiêng nón đợi chờ.
Mưa buồn rơi lạnh xuống bờ thùy dương.

CÁT SỸ
Đoàn Thuận

HOA NIÊN

1.
Em như hoa đến bên đời,
Giấu trong áo lụa một thời trăng non,
Lẫn hương ngây dại trong hồn,
Yêu hoa, tôi gửi nụ hôn đầu đời.

Hồn nhiên em đến dạo chơi.
Hồn nhiên hoa nở hoa rơi mấy mùa.
Hồn nhiên hương thấm vào xưa
Hồn nhiên sương gió vui đùa thường khi.

Qua vườn lặng lẽ em đi.
Tóc tơ một thoáng hoa quì bâng khuâng.
Hoang vu lối cũ đôi lần.
Rêu phong cỏ lấp dấu chân bao ngày.

Tình em tựa một bóng mây.
Gió mùa lộng thổi, sầu đầy đôi nơi.
Dặm đời lầm lủi ven trời,
Tôi mong chậm buổi thu phơi lá vàng.

2.
Dấu hài bụi phủ miên man,
Vầng trăng quê cũ khuyết tàn bao đêm,
Nhà xưa bóng đổ ngang thềm.
Mùa đi để rụng lá thêm cõi người.

Tôi về, em đã xa xôi.
Vườn hoang cửa khép không lời biệt nhau.
Mất còn như giấc chiêm bao.


CÁT SỸ

Đoàn Thuận

THƯ PHAI

Trang thư dòng chữ mực màu.
Mùa pha trắng giấy, bụi nhàu vàng phai.
Lời xưa ý cũ ngắn dài.
Vẫn trong tâm thức dù ngày tháng trôi.

 

HƯƠNG XƯA

Một mùa phượng vĩ nào xưa,
mênh mang hương dịu dưới mưa chiều tà.
Ta thầm nhớ mái trường xa,
Thầy Cô bạn học đường hoa hạ tàn.

 

ÂM THỪA

Hạt buồn nhuận thấm hồn đời.
Âm thừa giọt lệ không lời chia ly.
Ta theo cát bụi ra đi.
Người về nuối mộng xuân thì một mai.

NỐT TRẦM

Hương thời gian ủ trong hoa
tiếng chuông chùa vọng chiều qua chân trời,
nốt trầm trong giọt mưa rơi,
tan vào hạt mặn thành lời biển xanh.

 

BƯỚC ĐỜI

Vào đời dò dẫm bước đi.
Người ta theo tiếng thầm thì bến mê.
Gió bay cát bụi tư bề.
Mây Hàng như vuốt tóc thề mưa Ngâu.

Dừng chân trước cảnh bể dâu
Một vùng biển biếc chuyển màu ruộng xanh.
Cây dâu bám rể đầu gành.
Con tầm lựa kén nhả mành tơ duyên.

Sông xuôi nước tách đôi miền.
Bờ quen bến lạ con thuyền sang ngang.
Âu Cơ cấy lúa đồng hoang.
Lạc Long cất lưới cá đàn câu khơi.

Dù cho vật đổi sao dời.
Trong lòng an tịnh, bước đời thong dong.

CÁT SỸ
Đoàn Thuận

ÁNH SAO

Hoàng hôn khép cửa núi đồi.
Sao đêm nhấp nháy ru hời Sông Ngân.
Ngưu Lang Chức Nữ đôi lần.
Ngại cầu Ô Thước mờ dần ánh sao

SAO CHỔI

Trên trời Sao Chổi soi mây.
Dưới đời thác lũ quét cây lá rừng.
Bao hoa cỏ dạt vào bưng.
Rong rêu đá cuội theo từng dòng trôi.

SAO RƠI

Lưng trời ánh giọt sao rơi.
Ngờ như phận bạc vừa rời nhân gian.
Sao thay hạt lệ địa đàng
Chia buồn vạn hữu mây Hàng phiêu linh.

TRĂNG KHUYA

Trăng tàn nghiêng bóng non đêm.
Mông lung tiếng vạc sâu thêm bến bờ.
Một con thuyền ngủ như mơ.
Ai xa vắng có thức chờ đêm phai.

CÁT SỸ
Đoàn Thuận

 

Kính thưa quí Thân Hữu.

Hiện nay, tôi đã ngoài 80 tuổi, sống quanh quẩn trong nhà. 26 tập thơ của tôi không có trong bất kỳ “nhà sách” nào. Tôi tự in bằng vi tính, lưu hành trong thân hữu, vì nó chỉ là những dòng ghi chép “những điều nghe thấy trên đường đời” khi tôi còn “đi  học, đi dạy”. Nếu, quí thân hữu [hay người quen] có dịp ghé qua địa chỉ dưới đây,tôi sẽ gửi tặng vài quyển để giải trí qua ngày.
.
Địa chỉ: Nhà số: 80/12/48A đường Duong Quảng Hàm,
phường 5, quận Gò Vấp, Tp.Hồ Chí Minh.
đtdđ:      0907 497 529.
Email;    doanthuancs@gmail.com.

NGÀY XẾ BÓNG

Ta đôi khi muốn thay chiếc răng mẻ
chợt nghĩ mình còn trụ được bao lâu
đêm thao thức vỗ về lòng an tịnh
mong gió thu thổi bạt vạn cổ sầu.

Chiếc răng giả cho thêm nụ cười đẹp
đâu xua tan hình dạng lệch môi hôn
đâu kéo lại màu xuân mái tóc bạc
cõi sắc không hư ảo cả tâm hồn

Răng lòi xỉ thâm căn trong cốt tuỷ
nụ hoa thơm chuyển dịch tự hạt mầm
hạt bụi nhỏ hoá thân qua bao kiếp
đời buồn vui kỳ hạn khoảng trăm năm.

Răng có thay, phận ta không thay được
trước hiện tồn vạn hữu tựa khói sương
đời trót đã cho ta làm lữ khách
trọ cõi người giây lát lại lên đường.

Răng chưa rụng có khi ta khuất bóng
chưa kịp cười bên hoa một sớm mai.
sao biết được hậu thân ta giả tạm
hay đâu chừng răng duyên giữa môi ai ?

ĐOÀN THUẬN

ĐÊM PHI TRƯỜNG

Người đi về cõi tha phương.
Đêm phi trường lạnh mưa buồn sân ga.
Tình đời sum hợp tan xa.
Cầm bằng như cánh hạc qua chiều vàng.

BÓNG THUYỀN ĐÊM

Tung chài vớt một vầng trăng
Trong vô cùng đã lạnh băng hồn mùa
Môt đêm thu lá khô khua
Và một khuôn mặt tóc lùa che ngang

Đôi lần vó ngựa bàng hoàng
Chuyến xe thổ mộ qua ngang phố dài
Dù ai  lở bước  hôm mai
Trương Chi vẫn thả thuyền ngoài sông đêm

KHUYA LẠNH |

Đêm khuya lạnh buốt non ngàn.
Trăng mờ bếp củi lửa tàn tro phai.
Cung đàn nhịp gõ âm dài.
Thanh trầm khoản lặng u hoài lắng sâu.

CÁT SỸ
Đoàn Thuận

 

TRĂNG LU

Trăng lu mờ ảo lưng trời.
Âm u tịch mịch bóng rơi xuống đời.

Chập chùng bao áng mây trôi
Che ngang ánh nguyệt, pha phôi cung Hằng.
Còn đâu khuôn mặt vầng trăng.
Màn sương loáng bạc phủ băng dáng hình.

Trần gian trầm lắng u minh.
Đường đời tăm tối, lặng thinh bốn bề.
Lần mò từng bước chân quê.
Bao người dò dẫm bến mê bờ đời.

Trăng hoa trăng gió sinh thời.
Ngủ mê, vạn hữu không lời mộng mơ.
Lưu ly trăng tỏ trăng mờ.
Mây đen mây trắng che hờ trăng lu.

Đất trời một thoáng xuân thu.
Trăng sao mây nước vi vu tuần hoàn.

CÁT SỸ
Đoàn Thuận

 

BƯỚC ĐÊM

Xin đêm yên tĩnh thật đầy.
Cho trăng xô những bóng cây ngã dài.
Và ta nghe bước chân ai
Gõ buồn qua ký ức ngày đã yên.

 

ĐÊM THỨC

Đôi lần nhớ lại đời ta.
Những ngày trai trẻ đã xa lắc rồi.
Lời người xưa đọng trên môi.
Hát ru đêm thức giữa trời lặng yên.

ĐÊM LẠNH

Điều gì mất ở xa kia
Để mẩu thuốc tắt đêm chia xa người.
Lạnh đêm sương tỏa nơi nơi.
Thèm một đốm lửa ấm môi cười buồn.

YÊN TĨNH ĐÊM

Trăng thượng tuần rất mênh mông.
Con sông lặng lẽ một dòng về xuôi.
Thuyền ai gác mái đêm khơi.
Tiếng chuông chùa cổ chơi vơi núi rừng.

 

 

HỒNG HOANG

Nụ hồng như chúm môi son.
Hôn lên nhân thế núi non phận người
Búp tròn khép nép mỉm cười.
Lặng thầm mộng tưởng thắm tươi duyên tình.

Hồng hoang trước nhịp tử sinh
Hương mơ hoa mộng yên bình như nhiên.
Muôn mùa mây nước lâm tuyền.
Sương sa mờ bóng đào nguyên bên trời.

Hoa hồng chuyển sắc tùy phôi.
Hoa đời tùy phận luân hồi thông dung.
Hồng vàng, hồng trắng, hồng nhung.
Tùy mùa mưa nắng chập chùng sắc hương.

Đài xanh nở trước gió sương.
Tia gai khía lá cánh hường phấn tơ.
Bảo bùng cây cỏ vật vờ.
Dáng xưa sắc cũ nhạt mờ theo mây.

Nụ hoa hồng giũa tháng ngày.
Hương cùng sương gió mưa bay ngang đời.

CÁT SỸ
Đoàn Thuận

 

KHI CHƯA HOÀNG HÔN

Chưa hoàng hôn đã trăng lên.
Chưa nhớ chi mấy đã quên lãng nhiều.
Chưa hoa, hương đã về chiều.
Chưa xa, đã thấy đìu hiu lối về.

CHIỀU MỜ

Sau mưa liễu rũ lơ thơ.
Chiều phai nắng nhạt sương mơ bốn bề.
Gió lùa ngọn lúa đồng quê.
Con thuyền gác mái bến mê mơ màng.

CHIỀU YÊN

Chiều phai nắng lạnh dòng sông
Con thuyền gác mái bềnh bồng nhẹ trôi.
Đàn chim về tổ qua đồi.
Sao mờ tịnh lắng khúc nôi niệm trầm.

 

LỜI CHIỀU

Lâu rồi sông nước ru mây.
Và Mẹ ru bóng tháng ngày gió sương.
Ta ru hoa cỏ về nguồn.
Ai ru chiều một khúc buồn vào thơ.

Kính thưa quí Thân Hữu.

       Vừa rồi nhiều Thân Hữu, qua email, hỏi tôi “có vào Hội đoàn văn học nghệ thuật nào không.“.                                                .
      Tôi xin phép được trả lời chung ở đây. Hiện nay, tôi có 27 tập thơ nhưng không ở trong “Hội đoàn văn học nghệ thuật” nào.                     .

Lý do:                                                      .
* Trước 1975, tôi có 5 tập Tạp Bút dày trên 10.000 trang viết tay ghi chép
về những “điều nghe thấy trên đường đời”. Ngoài ra, tôi dịch khá nhiều Thơ Đường của Trung Hoa cổ sang thể Lục Bát thuần Việt.               .
* Tháng Tư năm 1975, Ban Quân Quản tịch thu tất cả.                   .
  .  Đầu năm 1993, không rõ báo Bình Thuận tìm đâu ra câu “Đã mấy năm xa Sài Gòn ơi” để khép tôi vào tội “mơ tưởng đến Sài Gòn, thủ đô chế độ Mỹ Ngụy”. Sau đó, một người dấu tên ở báo Tuổi Trẻ về tỉnh Bình Thuận trình một trang lưu bút viết tay, ký tên Trần Thuận năm 1972. Sài Gòn năm 1972 là Sài Gòn. Nhờ thế, sự việc được sáng tỏ.                 .                                     
   . Năm 1994, nhóm thân hữu ở Cần Thơ, Rạch Giá, Hà Tiên sưu tầm những bài tôi ghi về Mùa Gió khi dạy học ờ Hà Tiên. Nhà xuất bản Văn nghệ Tp.Hồ Chí Minh biên tập thành “Mùa bấc biển” và cho xuất bản với tên tác giả Đoàn Thuận. ”Mùa bấc biển” nhận giải Dục Thanh lần I. Từ đây, nhiều người gọi tôi là nhà giáo nhà thơ Đoàn Thuận.         .                                
    .  Năm 2006, Hội Văn học Nghệ thuật Bình Thuận cấp giấy phép và tài trợ tôi in Sắc Phượng, tập thơ viết về giáo dục nhân ngày Nhà giáo Việt Nam.
     . Năm 2007, Hội Văn học Nghệ thuật Bình Thuận gởi “Giấy Giới Thiệu” tôi với Hội Văn học Nghệ thuật Tp.Hồ Chí Minh, khi tôi rời La Gi vào nghỉ hưu ở Thủ Đức. Tôi trực tiếp đến văn phòng Hội trình văn bản nói trên và theo yêu cầu tôi có để lại địa chỉ,số điện thoại.Nhưng đến nay, vẫn im lặng.                                       .
     . Năm 2011, Cô giáo Trần Thị Thanh Hương, cũng là nhà thơ Thanh Hương, giới thiệu tôi trên website “Hội Ái hữu Đại học Sư Phạm Sài Gòn” do Cô làm chủ biên, ở Paris. Nhờ đó, tôi có dịp liên lạc với Thầy Cô và các bạn đã từng đi học đi dạy trước 1975. Cũng nhờ đó, tôi nhận được rất nhiều bài “Lưu bút” khắp nơi gửi “trả lại cho tôi”. Tiếp theo Thanh Hương hổ trợ tôi xin giấy phép xuất bản và in được các tập “Đường Thi”,”Thơ thiền Vương Duy”,”Mùa Thạch Thảo”…Nhưng sau đó, nhiều người trong nước vu khống chê trách tôi nhiều điều có liên quan đến uy tín của Thanh Hương. Cuối cùng,tôi buộc lòng không dám liên hệ với Hội Ái hữu Đại học Sư Phạm Sài Gòn.                                         .
     . Do vậy, tôi e ngại nhiều điều và đứng ngoài các Câu lạc bộ thơ ca, các Hội văn học nghệ thuật.                                                  .
    
       Gò Vắp, 2022.                                                                     .
       Đoàn Thuận.

CHO ĐI NHẬN VỀ

Hãy cho đi, sẽ nhận về.
Khi hương hoa dại ngủ mê cuối trời.

Duyên tình dang dở chơi vơi,
Sẽ còn lưu dấu mộng đời trong nhau.
Đôi khi buông bỏ niềm đau.
Tâm như an lạc giữa bao mỏi mòn.

Mưa trời rơi xuống đầu non.
Bao mùa nước chảy đá mòn thác trôi.
Dòng sông xuôi mái về khơi.
Nắng phà sóng nước thành hơi mây dày.

Cho đi giọt nước mưa bay.
Trời xanh nhận lại áng mây bềnh bồng.
Cho đi một chút cảm thông,
Người hiền nhận thấy cõi lòng tịnh yên.

CÁT SỸ

CHIỀU TÂN LÝ

Nghe trong luống cải nương chiều,
Thoảng hương đất mới giữa hiu quạnh mùa.
Thoáng buồn sắc tím hoa mua,
Thoáng xa lắc tiếng chuông chùa núi xa.

CHIỀU Ở NGẢNH

Bấc về làm nhớ tháng giêng.
Bãi xa con sóng vỗ nghiêng mặt ghềnh.
Lũ còng đâu biết nhớ quên.
Thản nhiên xe cát dưới mênh mông trời.

CHIỀU TRÊN BIỂN

Sóng đưa thuyền thúng bãi ngang.
Hoa kim đùa cát mặn vàng bờ xa.
Áo người đùa nắng chiều tà.
Để buồn đùa giữa hồn ta một thời.

TRONG QUÁN CHIỀU

Ngoài kia từng chuyến xe qua.
Tiếng chuông chùa núi ngẫm ra mơ hồ.
Ngồi buồn ngắm ngón tay thô.
Lanh canh ly đá nghe khô khốc chiều.

 

TRĂNG HOA

Trăng thanh soi tỏ hoa xuân.
Đêm rằm thơ mộng, bâng khuâng vườn đời.
Giọt trăng huyền dịu nhẹ rơi.
Môi hoa nhuận thấm sắc trời như nhiên.

Trăng ngà hoa dại tầm duyên.
Gió sương mưa móc ước nguyền trăng hoa.
Xuân thu mấy độ trôi qua.
Từng đêm mòn mỏi trăng tà lặn đi.

Địa lan thiên lý lưu ly.
Tim hoa lắng nhịp chu kỳ trăng sao.
Hoa quì sen ngó trời cao.
Hương nhu trầm nhụy thắm màu nguyệt hoa.

Trăng non trăng lặn trăng già.
Hoa mơ hoa mộng trăng hoa một thời.
Mây mưa trăng gió pha phôi.
Khuyết tròn tàn nở luân hồi Hoa Trăng

CÁT SỸ

CHIỀU

Bóng lau mờ khuất đường hoa.
Chiều yên phố núi sương là đà rơi.
Dòng sông trôi mãi không lời.
Đàn chim di rét đã vời vợi bay.

 

CHIẾU TỐI

Ta bâng khuâng giữa nhịp chiều.
Sắc màu quánh lại nghe đìu hiu thêm.
Giọt trăng vừa rụng ngang thềm.
Như tan loãng bóng rêu đêm lạnh đầy.

TIỄN CHIỀU

Người men theo lối thu đi,
Phấn thông vàng phủ thầm thì không gian.
Ta quay về ngã đông sang,
Khuyết vầng trăng biển, lạnh ngàn non xa.

HƯ ẢO CHIỀU

Sắc trời thu đã sang mùa.
Mong manh nét gió lạnh lùa qua truông.
Núi mờ ảo giữa hồi chuông.
Người hư ảo giữa chiều buồn bên song.

CÁT SỸ
Đoàn Thuận

 

DƯỚI ÁNH MẶT TRỜI.

Mặt trời mọc lúc rạng đông.
Chân mây hừng sáng ánh hồng lung linh.
Đàng Đông mờ ảo ảnh hình.
Nắng mai mở cửa bình minh chào đời.

Nắng lên, ấm khắp phương trời.
Đêm tàn sương nhạt cảnh đời hanh thông.
Đất tròi một cõi mênh mông.
Biển khơi sóng biếc, non bồng rừng xanh.

Ngày trôi, đứng bóng trưa hanh.
Xế chiều nắng quái dỗ dành hoàng hôn.
Mặt trời lặn xuống cuối thôn.
Đàng Tây tắt nắng gọi hồn đêm yên.

Sương mù phả bóng ngoài hiên.
Người đời, khép cửa muộn phiền, ngủ say.
Mọc đàng Đông, lặn đàng Tây.
Mặt trời theo bước đêm ngày luân lưu.

CÁT SỸ

 

RU CHIỀU

Ở đâu lục bát nhớ người.
Lắt lay khúc hát à ơi ru chiều.
Ru ta vào cõi quạnh hiu.
Ru hương tóc cũ ít nhiều vắng xa.

RU ĐÊM

Ở đâu lục bát ru đêm.
À ơi, một bóng trăng thềm đong đưa.
Ru ai tình lặng vào xưa.
Ru sương đêm giọt lưa thưa hiên ngoài.

 

RU CON

Sông xa ru giấc mộng đầy.
Và đêm lạnh thả sương bay về trời.
Con ơi, hãy ngủ đi thôi.
Xin người đừng để buồn trôi theo lời.

 

BÊN KIA LỜI RU

Sương ru hoa hạt long lanh.
Biển ru thuyền sóng chòng chành về khơi.
Người ru nhau một đôi lời,
Tháng năm ru cát bụi dời về đâu.

CÁT SỸ
Đoàn Thuận

 

NHỊP SỐNG

Đời người dài ngắn mong manh,
như sương phả lạnh ngoài mành đêm khuya.

Sum vầy nhen nhúm chia lìa.
Mất còn một thoáng đầm đìa lệ rơi.
Sơ sinh nhè khóc chào đời.
Trẻ trung hoạn nạn chợt rời nhân gian.

Cung đình rồi cũng điêu tàn.
Vinh hoa phú quí huy hoàng mãi đâu.
Tóc xanh sớm muộn bạc đầu.
Niềm vui lẫn khuất mối sầu một mai.
Đôi khi ngày ngắn đêm dài.
Dung nhan diễm lệ tàn phai một chiều.

Chợ đời lắng phút cô liêu.
Đám đông xa lạ, quạnh hiu một người.
Âm thanh ca tụng reo cười.
Dường như có tiếng đười ươi lạnh lùng.

Phận người trầm mặc mông lung.
Đổi thay nhịp sống chập chùng nhân duyên.

Gò Vắp, 2022

 

KHÔNG LỜI

Trường xưa đổi hiệu thay đời.
Bảng đen phấn trắng không lời biệt ly.
Bút nghiên một thuở xuân thì
Nay như bụi phủ đóa quì tàn phai.
.

BÓNG ÁO DÀI

Nữ sinh cặp sách áo dài
Vì đâu khuất bóng đường ngoài trường xưa ?
Nhớ thời đi học sớm trưa.
Áo em trắng lắng hương thừa tóc mây.
.

HƯƠNG XƯA

Một mùa phượng vĩ nào xưa,
mênh mang hương dịu dưới mưa chiều tà.
Ta thầm nhớ mái trường xa,
Thầy Cô bạn học đường hoa hạ tàn.
.

CÂU THƠ ĐỂ DÀNH

Một thời học cũ qua mau.
Áo bay trắng lối phượng vào ngày xanh.
Có vầng trăng rụng cuối gành.
Ta nghiêng trang viết để dành câu thơ.

La Gi,1975
CÁT SỸ

 

GIÓ NỒM

Gió Nồm thổi áng mây đen.
Mịt mù u ám cài then khung trời.
Sấm rền sét đánh đôi nơi.
Bảo bùng từ chốn xa khơi tạt vào.

Đường cây mái phố gió gào.
Nhạt mờ cái bụi, rạt rào mưa tuông.
Âm mưa gõ lạnh phố buồn.
Đèn vàng hiu hắt đêm buông lặng thầm.

Mưa trên mái ngói lâm râm.
Ngoài hiên từng nốt nhạc trầm nhẹ rơi.
Hoa quì trong tối không lời.
Chỉ còn thơm thảo hương trời vấn vương.

Lưa thưa mưa chạm chân tường.
Giọt âm tí tách theo đường rêu đêm.
Vi vu gió thoảng ngang thềm,
Ru đưa hoa cỏ êm đêm vào khuya.

Mây mưa như thể chia lìa.
Đôi đàng gió thổi, đầm đìa nước rơi.
Áng mây bay ngút về trời.
Hạt mưa ghé tạm đường đời trần gian.

CÁT SỸ

GIÓ BẤC

Ào ào gió Bấc lạnh buồn,
thổi qua động cát ruộng vườn núi sông.

Mây đen gió lộng tầng không,
đổ mưa bạt nước mênh mông trời chiều.
Đầm hồ vụng biển đìu hiu.
Cỏ cây nằm rạp tiêu điều bến sông.

Sấm rền ầm ĩ bảo giông.
Nương rau ruộng lúa tịnh không bóng người.
Thôn nghèo vắng lặng tiếng cười.
Mái tôn xiu vẹo, hoa tươi dập vùi.

Nông phu ngư phủ ngược xuôi,
âm thầm ứa lệ ngậm ngùi dưới mưa.
Tang thương đất cũ quê xưa.
Người đi kẻ đến đón đưa ngại ngùng.

Chim bay biền biệt mông lung.
Rừng xanh ngã đổ chập chùng gió sương.
Nai tơ ngơ ngác dặm trường.
Thú hoang hút máu gậm xương đồng loài.

Dưới làn gió Bấc thổi dai.
Buồn đau dân dã, u hoài non sông.

Thảo Điền,2022
ĐOÀN THUẬN

 

NHÀ TRƯỜNG SAU 75.

Sau 75, mọi nhà trường
”Lao động học tập theo gương Bác Hồ”.

Chỉ huy lãnh đạo thầy cô:
“Năm bước lên lớp”phân lô soạn bài,
lập thành “Giáo Án” dạy hay,
rập khuôn cả nước, chỉ thay đổi ngày.

Nội dung giáo dục thời này
nghiêng về chính trị, thường ngày tụng ca.
”Trung thành tuyệt đối Đảng ta”,
Xã hội chủ nghĩa, Cha Già, Mác, Lê.

Học sinh phấn đấu mọi bề.
vào Đoàn vào Đội, lời thề sắt son,
”thật thà dũng cảm” vẹn toàn,
để được danh hiệu “Cháu ngoan Bác Hồ”.

Sau ngày tan rã Liên Xô,
Giáo dục Đào tạo “đấp mô” học đường.
”Đào” từ khoa giáo trung ương,
”Tạo” ra băng nhóm giao thương “ghế vàng”.

Ghi danh thi dối đậu gian,
buôn bằng bán chữ giá hàng vạn đô,
thành quan tham nhũng tham ô,
Hỏa Lò lú lửa, đi vô tù ngồi.

Độc tài toàn trị lên ngôi.
Giáo dục chính trị mị đời xa Dân.

Thảo Điền,2022
Đoàn Thuận

 

MÁI TRƯỜNG XƯA.

Cuối đời vẫn nhớ trường xưa,
dù bao sương gió nắng mưa dập vùi.
Trong tôi thầm lặng ngậm ngùi.
Thầy Cô còn mất ngược xuôi thế nào.

Bao điều giảng dạy ngày nao,
như lời khuyên nhủ ngọt ngào khó quên,
giúp tôi từng bước vững bền,
vượt qua tăm tối gập ghềnh xót xa.

Nguyên lý giáo dục cộng hòa.
”Nhân bản Dân tộc”mở ra ngọn nguồn.
Đạo lý “khai phóng” tình thương.
Tu tâm dưỡng tánh hiền lương “làm người”.

Học Văn một, Học Lễ mười.
Nhân văn khoa học xây tươi “vườn đời”.
Người học chữ nghĩa đạo trời,
nhận ra tiếng nói xu thời điêu ngoa.

Nền giáo dục thời Cộng Hòa,
tạo người có Đức, Tài hoa cho đời.

Thảo Điền, 2022

 

ĐÔI DÒNG THẾ SỰ 

Ghi về thế sự đôi dòng.
Dám đâu mơ ước bạn lòng cùng xem.

Dù từng thao thức bao đêm.
Nghe sương nhỏ giọt ngoài thềm rêu phong.
Tưởng như ai đó long đong.
Bên trời phiêu lãng buồn lòng lệ rơi.

Tôi còn ở trọ góc đời.
Cô đơn trước cảnh ma hời nỉ non.
Kẻ ham vui thú vàng son.
Người lo sức kiệt héo mòn xác thân.

Tôi, hanh khô tóc đầu trần.
Mưa dầm ướt đẫm gót chân bùn lầy.
Điếng lòng trước gió sương bay.
Lặng câm khi bụi phủ dày trang thơ.

Xa rồi thuở nọ i tờ
Thời này sóng mạng vỗ bờ muội mê.

Gò Vắp, 2022

 

NƯƠNG NHAU QUA NGÀY.

Hàng tương trợ gửi xóm buồn.
Cá đồng, gạo lức, rau nguồn tươi xanh.
Hạt sen, khoai, bắp, đậu nành,
Ớt tương, mắm muối, tỏi hành, mật ong.

Thức ăn dân dã mặn nồng.
Dưỡng sinh khí huyết, ngừa phòng bệnh đau.
Người nghèo nương tựa bên nhau.
Sẻ chia từng bát cháo rau qua ngày.

Khi dịch bùng phát đó đây,
Ngăn sông cấm chợ, rào vây cung đường.
Bệnh nhân nằm chật nhà thương.
Cách ly xét nghiệm tại giường nhà dân.
Giá bộ Kit Test đội trần.
Thiếu ăn thiếu thuốc, chết dần lặng câm.

Tình làng nghĩa xóm bao năm.
Dân Đen buông bỏ nỗi trầm luân xưa.
Che nhau dưới bóng nắng mưa.
Khi không hạt gạo, lúc thừa nắm cơm.
Cùng chung một nén nhang thơm.
Khóc người nhiễm dịch chiều hôm qua đời.

Gò vắp, 2022

 

TẾT ĐI QUA, BUỒN Ở LẠI.

Đã qua ngày Tết Nhâm Dần.
Nỗi đau mùa dịch trong Dân còn nhiều.

Người theo cát bụi phiêu diêu.
Giã từ cõi tạm buồn hiu hắt buồn.
Nhà thờ đổ lạnh tiếng chuông.
Cùng lời tụng niệm khói hương trong chùa.

Ngỡ như bao giọt âm mùa.
Buông lơi trên nẻo nắng mưa quê nhà.
Người nghèo trước lũ điêu ngoa.
Lo âu sợ hãi, lệ nhòa đau thương.

Người còn lưu lạc dặm trường.
Gót mòn tóc phả bóng sương bụi lầm.
Mồ hôi nước mắt lặng câm.
Thấm vào manh áo, chỗ nằm, giấc mơ.

Dịch nay lay khắp bến bờ.
Dân đen con đỏ phạc phờ xác thân.
Hoa xuân hương nhạt bần thần.

XUÂN U BUỒN

Bộ Y Tế, viện Quân Y,
Ngoại Giao Lãnh Sự thầm thì đi buôn.
Buôn trên nước mắt nỗi buồn.
Bệnh nhân nhiễm dịch Bắc phương lây truyền.

Ngăn sông cấm chợ đôi miền.
Cách ly, kiểm soát, độc quyền giao thông.
Một bộ Kit Test vạn đồng.
Bán gần nửa triệu, ép lòng dân ta.

”Chuyến bay giải cứu” tầm xa.
Thu hàng bạc tỉ, đô la, vàng ròng.
Về quê lánh dịch long đong.
Ăn nhờ ở đậu, người không cửa nhà.

Dịch bùng phát khắp sơn hà.
FO  F1 theo đà tử vong.
Nghĩa trang nhang khói thinh không.
Người đi kẻ ở đắng lòng xót xa.

Công ty Việt Á giàu ra.
Huân chương Lao động được Nhà Nước trao,
giữa mùa dịch tể thương đau.
Lương dân khốn khổ lệ trào thấm khăn.

Thảo Điền, 2022

 

“TẾT TRỐNG CÂY”

Xuân sang, cán bộ “trồng cây”,
tự hào “nhớ Bác”, nhớ ngày thăng hoa,
vào Lăng viếng xác Cha Già,
nằm trong hồm kính, cách xa đất trời.
Trồng cây bên cạnh chợ đời.
Truyền thông ca ngợi “tuyệt vời quang vinh”.

Đỉnh cao trí tuệ Ba Đình,
quên lời Di Chúc nặng tình non sông.
”Tro thiêu” rải xuống ruộng đồng,
mong sao con cháu Lạc Hồng “ấm no”,
sống đời “hạnh phúc tự do”.
Nhưng rồi, Tứ Trụ nhóm lò “thiêu” ai ?

Lẽ nào, “đầy tớ” nô tài,
phạt rừng phá núi, thành Ngài Kiểm Lâm.
”Trồng cây, lợi ích mười năm”.
”Trồng người, lợi ích trăm năm”, kia mà.
Trồng cây nơi phố phồn hoa,
sao bằng “lợi ích  rừng già nghìn năm.”

Tiếng tru cọp báo, dã cầm,
khi rừng hoang hóa bụi lầm bóng xuân.

Thảo Điền,xuân Nhâm Dần.

 

GIAO MÙA

Mùa đời tự có tháng năm.
Trầm luân bao kiếp bụi lầm bể dâu.
Thời gian nhuận thắm sắc màu.

NHỊP MÙA

Gặp chiều trong một dòng sâu,
nhịp mùa trong gió, bóng màu trong hoa.
Nỗi người trong một nỗi ta.

Xuân về trong thoáng đông xa,
hạ tàn, vàng lá bay qua thu buồn.
Ta về trú tạm một phương.

Trong màu hoa, còn bao hương,
Trong tình em, mắt còn vương nét nhìn.
Trên non mai nở lặng thinh.

VẦN XOAY

Con đường sinh diệt luân hồi.
U minh quả nghiệp đổi dời vần xoay.
Nhân duyên định phận thân này.

 

BỐN MÙA VẦN XOAY.

Bốn mùa xuân hạ thu đông.
Xuân xanh, hạ nắng, thu phong, đông hàn.
Mai lên, đứng bóng, chiều tàn.
Đêm dần vào tối, khuya sang đầu ngày.

Thời gian như thể tên bay.
Đời người sinh tử vần xoay luân hồi.
Bé thơ khóc nhịu bên nôi.
Khụ già chống gậy vào thời lưu niên.

Đời như một giấc du miên.
Chập chờn thức ngủ,dạo thuyền bến mê.
Đục trong thiện ác bộn bề.
Thấy đâu nhân quả bên lề hư không..

Tháng giêng, năm mới, xuân hồng.
Thiên thai vẫn một tấc lòng đào nguyên,
Niệm cùng vạn hữu mọi miền,
Như nhiên an lạc theo nguyền ước xưa.

CÁT SỸ
Đoàn Thuận

 

Kính chúc QUÍ THÂN HỮU
năm mới BÌNH AN HẠNH PHÚC

XUÂN Ở NÚI

Xuân về, ta lại gặp ta ,
Về nơi núi cũ chờ hoa mai vàng .
Sắc màu nhòa giữa sương tan.
Trong thiêm thiếp nhớ, một làn hương bay.

XUÂN TÀ MON

Tà Mon hương đọng cỏ vương.
Chậm chiều mây núi khuất đường hoa rơi.

Lần theo nỗi nhớ xa vời.
Sương rừng bay trắng chân trời mênh mang.
Bóng người thưa vắng bên ngàn.
Bếp hồng ánh lửa nồng nàn sau cây.

Tịnh yên bến nọ bờ này
Con thuyền độc mộc chở đầy hoa tươi.
Dòng đưa lá thắm về xuôi.
Cau rừng trầu diếc gấm gùi se duyên.

Mơ xưa ước cũ an nhiên.
Giang san thiên địa lâm tuyền sắt son.
Dinh Thầy, Ngảnh vọng nước non.
Dinh Ông, Động Chú, Tà Mon, Đảo Bà.

Sông Dinh chuyển nước La Ngà.
La Gi cầu nối Hòn Bà Núi Ông.
Gió ru huyền thoại bềnh bồng.
Tà Mon lưu dấu hương nồng gấm hoa.

Tà Mon,một chiều xuân
Đoàn Thuận

 

Kính tặng
quí Thân Hữu một thời Saigon.
.

HOÀI NIỆM

Tưởng đã xa theo tháng ngày trôi,
ngôi trường Sư Phạm Saigon một thời,
bốn mươi năm dư dài hơn bao thế kỷ,
một nỗi nhớ không lời.

Buổi sáng hẹn chờ với nỗi niềm lặng thinh,
qua email, qua dòng thư tâm tình,
dưới bóng cây sau dinh Độc Lập,
nơi cư xá Đô Thành.

Tôi đâu ngờ được hội ngộ thân hữu xa xăm,
ngỡ như trải qua dâu bể ngàn năm,
khi tuổi đời vừa qua thưở xưa nay hiếm,
mắt đã mờ, chân đã mỏi, tóc hoa râm.

Phin cà-phê đen nhỏ từng giọt thời gian,
làm nhớ buổi chờ em chiều Thanh Bạch, Adam,
bát phố Lê Lợi, Tự Do sáng chủ nhật,
dìu nhau qua đường Nguyễn Du nghe đêm rơi lá xanh lam.

Bầu rượu Cognac nơi tư thất Hiếu Nghĩa,
cùng Anh Khiêm, Đăng Tiến nồng nàn hương xưa,
cụng ly sum họp, chạm môi vào nỗi nhớ,
về một thời sư phạm qua bao nắng mưa.

Vài trang sách cũ, một “Lời Chiều” buồn,
đưa mùa “Trôi Trên Dòng Thương”,
”Ký Ức Sơ Sài” đánh thức bao hoài niệm,
giữa cõi người trong đục nhiễu nhương.

Thủ Đức, 2004

 

Kính tặng Võ Ngọc Sơn
và quí Thân Hữu một thời Bà Rịa.
.
NHỚ NGƯỜI GIEO HẠT.

Người từng gieo hạt mùa sau.

Nơi hoang vu đất, giữa màu hoa phai.
Trên trang vở, giấc mơ dài.
Bên đời, nhóm lửa bếp ngày đèn đêm.
.

NHỚ VỀ TRƯỜNG SỸ TÃI

Hai tháng học, nhớ hoài trường Sỹ Tãi.
Dù khói sương cát bụi lấp lối về.
Mùa phượng vĩ nở buồn qua trí tưởng.
Thầy Cô xưa ẩn hiện trong giấc mê.

Thầy Kiêm giảng khởi đầu “Nhành lúa mới”,
Cùng chúng tôi nhìn lại góc quê hương.
Giặc càn quét đạn bom cày nát đất.
Dân đen về xuống mạ những đêm trường.

Cô Linh vẽ “Đường cây xanh” tít tắp.
Tuổi thơ tôi theo nét cọ về xa,
Thả mơ ước vào khung trời an tịnh.
Để xuân thu màu sắc tự phai nhoà.

Thầy Hiệu Trưởng chân tình ngày khai giảng:
Cần thành tâm học hỏi “để làm người.”
”Nhân bất học, tức thị, bất tri lý”.
Học với thầy với bạn, “học ở đời “.

Trường Sỹ Tãi giúp tôi vào Đệ Thất,
Cho lòng tôi nhận ra nghĩa Nhân Văn.
Nơi thăm thẳm giữa muôn trùng thiện ác,
Lời Hiền Nhân như tiếng vọng vĩnh hằng.

Sài Gòn, 1974.

Kính tặng Thầy Nguyễn Tấn Hưng
và quí Thầy Cô một thời Bình Tuy.

COURS PASCAL.

Pascal, lớp học tráng niên,
Trường tư Quảng Đức, cõi thiền từ bi.
Giúp nhau ôn tập luyện thi.
Ước mong quê mẹ La Gi an bình.

La Gi, 1972
.

VỀ TRUNG HỌC BÌNH TUY.

Bao mùa lưu lạc chia ly,
Tôi về Trung học Bình Tuy quê nhà.
Hàng dương liễu biếc thước tha.
Đôi nhành phượng vĩ đỏ hoa học đường.

Ngỡ như hương cũ còn vương.
Trường làng mái ngói, nền tường đá xanh.
Nhớ xưa mơ được học hành.
Nay cùng đồng nghiệp đồng hành đồng song.

Tha phương khốn khó long đong,
hồi hương sống lại thuở hồng hoa niên.
Thư sinh áo trắng hồn nhiên
giúp tôi ôn chuyện bút nghiên một thời.

Bao trang vở chép mộng đời
Đôi dòng phấn trắng kể lời tổ tông.
Với nền giáo dục Cộng đồng,
Nhân bản Dân tộc Lạc Hồng nghìn năm.

Bình Tuy trung học lặng thầm
đã từng gieo hạt ươm mầm trong tôi.

Bình Tuy, 1972
.

KHÔNG LỜI

Trường xưa đổi hiệu thay đời.
Bảng đen phấn trắng không lời biệt ly.
Bút nghiên một thuở xuân thì
Nay như bụi phủ đóa quì tàn phai.

La Gi,1975

 

Kính tặng
quí Thân Hữu một thời Hà Tiên.

TIẾNG TIÊU XA

Dưới trăng huyền ảo Hồ Đông.
Con thuyền ba lá bềnh bồng rong chơi.

Tiếng tiêu văng vẳng xa vời.
Gió ru thanh điệu không lời lam thôn.
Âm buồn gõ cửa tâm hồn.
Như nhung nhớ buổi hoàng hôn xa người.

Hoa đời đâu mãi xinh tươi.
Niềm vui còn lại nụ cười héo hon.
Mưa rơi nước chảy đá mòn.
Nhưng tình nghĩa cũ sắt son một đời.

Bao mùa lưu lạc chơi vơi.
Tiếng tiêu buồn bã bời bời âm xưa.

Hà Tiên, 1970.

NHỚ HÀ TIÊN

Hà Tiên xa, một bờ kỷ niệm.
Sóng vô cùng vỗ suốt đêm thâu.
Lời ai hát từng mùa bấc thổi.
Cồn đá buồn lau trắng bãi dâu.

Những dòng kênh qua đồng châu thổ.
Dặm đường dài lòng ta ngổn ngang.
Đâu có biết ra đi xa hút.
Để từng chiều úa cỏ quan san.

Tam Tân, 1973
CÁT SỸ
Đoàn Thuận

 

TRĂNG SOI

Hồn nhiên tia sáng trăng đêm.
Len qua kẽ lá xuống thềm gạch rêu.

Ánh vàng lóng lánh pha đều.
Soi trên lớp bụi như khêu tro tàn.
Lẫn trong tăm tối mơ màng.
Biết bao sinh vật ẩn tàng đau thương.

Tia trăng đâu rõ giọt sương.
Nằm bên nhụy phấn thấm hương hoa tàn.
Âm thầm nguyệt quế dạ lan.
Hoa quì mơ giấc yên hàn lặng thinh.

Trăng treo đỉnh nốc thiên đình.
Chị Hằng chú Cuội thầm nhìn mây trôi.
Trăng soi rọi khắp núi đồi.
Đâu hay trăng gió ru nôi bụi lầm.

Phận duyên vạn hữu bao năm.
Lưu ly dưới bóng trăng rằm trăng lu.


TRĂNG TREO

Trăng treo lơ lửng tầng không.
Thả bay giọt sáng thong dong lưng trời
Mông lung mờ ảo chơi vơi.
Không gian tĩnh mạc, khung đời tịnh yên.

Lặng thinh phả xuống lâm tuyền.
Ánh trăng loáng bạc đôi miền nhân gian.
Soi đêm giấc điệp mơ màng.
Soi đời vạn hữu địa đàng ngủ mê.

Cung Hằng mây trắng lê thê.
Đôi khi trầm khuất bốn bề mặt trăng.
Đất trời tăm tối đôi đằng.
Trăng đâu soi thấu trầm thăng muộn phiền.

Sương sa phiêu phỏng rã riêng.
Pha mờ ánh nguyệt, ảo huyền trăng thâu.
Tuần hoàn luân chuyển bể dâu.
Trăng đâu treo mãi trên đầu thế nhân.

 

DƯỚI ÁNH SAO ĐÊM.

Sao Hôm cách biệt Sao Mai,
khi sao Vệ Nữ đêm dài du miên.

Sớm mai sao mọc cõi thiền.
Trời Đông lưu dấu tên miền, Sao Mai.
Bình minh khởi sự ngày dài.
Hoàng hôn tắt bóng hình hài hoa thơm.

Một ngôi sao sáng đầu hôm.
Trời Tây lắng tiếng gió Nồm thổi qua.
Sao Hôm mọc buổi chiều tà.
Lung linh trên cõi thiên hà dịu êm.

Tầng cao, Vệ Nữ từng đêm,
thả rơi giọt sáng xuống thềm đại dương.
Đông Tây xa cách muôn phương.
Sao Hôm ngóng suốt đêm trường Sao Mai.

Sao dời vật đổi miệt mài.
Trần gian vạn hữu hoài thai kiếp nào ?
Thiên đình nhấp nháy ngàn sao.
Trời cao đất thấp đậm màu phân ly.

CÁT SỸ

 

HỒN THU

Gửi vào tơ liễu hồ thu.
Thả theo mây lá vàng ru mắt triều.
Khuất về đâu hồn cô liêu.

SẦU ĐÔNG

Cây trơ trụi lá sầu đông.
Chim di trốn rét phiêu bồng nơi đâu.
Không gian trống lạnh buồn rầu.

TƯỞNG XUÂN

Màu xuân tưởng núi xanh hơn.
Tưởng mưa bụi lấp được cơn muộn phiền.
Khi xa cách tự đôi miền.

Xin đời đôi phút bình yên.
Cho lòng an tịnh trước nghiêng ngả đời.
Nỗi niềm tự nó chơi vơi.

 

TRĂNG NƯỚC

Sông xanh lưu dấu mùa trăng
Lắng sâu đáy nước cung Hằng áng mây.
Trăng non trăng khuyết trăng đầy.
Nước trong nước đục nước xoay theo dòng.

Theo mùa trăng nước thong dong.
Nước tràn biển rộng, trăng lồng trời cao.
Sông Ngân hội tụ ngàn sao.
Mong chờ trăng mọc, trăng vào không gian.

Nước từ nguồn áng mây Hàng.
Làn mưa phiêu dạt mênh mang ngang đời.
Tràng giang hồ hải ngàn khơi.
Nước mang theo bóng trăng soi mơ màng.

Qua đêm khuya khoắt trăng tàn.
Dù chưa đầy tháng, tịnh an trăng già.
Người đời bến đổ chia xa.
Trầm luân Nước biếc Trăng ngà thủy chung.

 

TRƯA HÈ

Cỏ ôm giấc ngủ chân ao.
Khóm lau nghiêng nắng nhẹ màu khói lay.
Khô khua gió chạm vào cây
Sắc rong dưới bóng hồ đầy hương sen.

CHIỀU THU PHAI

Làn mưa lành lạnh trong chiều.
Rơi rơi dìu dịu đìu hiu hiên ngoài.
Vương buồn một thoáng thu phai.
Thầm nghe như giọt lệ dài mùa xưa.

ĐÊM ĐÔNG

Đêm đông lạnh giá mù sương.
Từ xa vang vọng tiếng chuông nhà thờ.
Sông dài vắng lặng đôi bờ.
Đôi nhành nguyệt quế cạnh tơ liễu buồn.

THÁNG CHẠP

Đông sang tháng chạp lạnh lùng.
Hơi mây sương muối mưa phùn phất phơ.
Năm tàn cây trụi cành trơ.
Rừng mai chớm nụ vàng mơ xuân về.

 

Tháng Chạp đang trôi về cuối năm, tôi kính mong quí Thân Hữu thông cảm cho những lời ghi chép về chuyện “cỏ hoa  trăng gió mây mưa” trong cõi “luân hồi nhân quà”.

DƯỚI ÁNG MÂY HÀNG.

Chân trời mây nước một bờ.
Mây lên từ nước lững lờ tầng cao
Áng mây cùng ánh trăng sao.
Soi trên mặt nước trôi vào trần gian.

Trầm luân trong cõi Thiên Đàng.
Lang thang một áng Mây Hàng thầm trôi.
Tuần hoàn sao sáng đổi ngôi.
Sông Ngân in bóng sao rơi bạt ngàn.

Chiếc cầu Ô Thước bắt ngang.
Ngưu Lang Chức Nữ hẹn sang bến chờ.
Đâu hay giây phút mộng mơ,
Mây đen vần vũ bất ngờ trôi mau.

Mịt mờ che khuất trăng sao.
Đường trần bến mộng một màu tối tăm.
Mưa rơi nước lũ sóng ngầm.
Xóa tan hình bóng trăng rằm ánh mây.

Đất trời vạn hữu vần xoay.
Mây đen mây trắng nhuận thay mây hồng.
Nước mưa ngọt mặn đổi dòng.
Trôi từ gành thác vào lòng đại dương.

Mây mang hơi nước mù sương
Thành mưa rơi xuống muôn phương Địa Đàng.
Như nhiên dưới áng Mây Hàng
Giọt mùa hơi nước Thiên Đàng nhẹ buông.

CÁT SỸ
Đoàn Thuận

 

MỘT ĐỜI TRĂNG

Trăng Non tuổi mới một đêm.
Mù mờ đổ bóng xuống thềm đá xanh.
Vòng cung ánh bạc mong manh.
Dần lên mười bốn trăng thanh lưỡi liềm.

Tuổi trôi từng phút lặng im.
Mười lăm tròn trịa uy nghiêm trăng Rằm.
Bóng hình tối sáng dương âm.
Trăng Tròn sáng tỏa hương trầm hoa niên.

Soi lên hồ hải lâm tuyền.
Sông Ngân lưu bóng trăng huyền thoại xưa.
Hằng Nga lau giọt lệ thừa
Mây Hàng che mặt trăng mưa cuối trời.

Trăng khuya mờ ảo xa khơi.
Trăng treo mòn mỏi không lời biệt ly.
Nửa vầng trăng khuyết lở thì.
Yên nhiên trăng mọc, vân vi trăng tà.

Chưa ba mươi đã trăng Già.
Trăng tàn trăng rụng, trăng Ngà về đâu.
Tuần hoàn trong cuộc bể dâu.
Trăng Non lại mọc ngày đầu tháng sau.

Khuyết tròn, tròn khuyết trên cao.
Non Già cùng với ngàn sao sinh tồn.

CÁT SỸ
Đoàn Thuận

 

TỰ BIẾT

Mất người ta nhận ra ta,
nghe hương gió sớm biết hoa đang tàn.
Vắng buồn mấy nẻo quan san.

Lầu xưa khuất cánh hạc vàng.
lời thơ chiều vọng qua ngàn năm sau.
Cố nhân nay ở phương nào.

TỰ NHIÊN

Đừng ai đến, đừng ai đi,
để ta còn lại chút gì như không.
Giọt mùa tự nó mênh mông.

Có gì đâu phải bận lòng
lửa hương một giấc phiêu bồng cùng mây.
Buồn vui gì cũng vơi đầy.

Cõi ban sơ đâu tháng ngày.
Rừng hoang lá úa rơi đầy tịch liêu.
Hạt bụi nào cũng xế chiều.

 

ÂN NHÂN
của TÔI.

Ân nhân giúp đỡ đời tôi
nay đà yên nghỉ chân trời viễn du.

Riêng tôi giữa cát bụi mù,
vẫn thầm ghi nhớ thiên thu ơn Người,
giúp tôi giữ được nụ cười,
dù bao gian khó ngược xuôi đường đời.

Dượng nuôi từ buổi thôi nôi,
khi Cha khuất bóng, mồ côi dại khờ,
dắt dìu từng bước lơ ngơ,
từ miền biển bạc vào bờ đồng xanh.

Thầy cô hướng dẫn học hành,
rời lưng trâu, đến tỉnh thành văn minh.
Vở lòng chữ nghĩa câu kinh,
tâm an với phận thư sinh một thời.

Bạn thân kết nghĩa bạn đời.
Bên nhau tìm đến khung trời bình yên.
Mùa đi buông bỏ muộn phiền.
Ơn xưa nghĩa cũ ước nguyền khắc ghi.

CÁT SỸ
Đoàn Thuận

HOA LỆ

Xa rồi Hoa Lệ Sài Gòn.
Sau ngày giải phóng chỉ còn “lệ hoa”.
Hoa mừng thống nhất sơn hà.
Lệ buồn thấm đất quê nhà Miền Nam.

Hoa đầy hội nghị tọa đàm.
Hoa tràn biệt phủ thuộc hàm đại quan.
Hoa từ ngà ngọc son vàng.
Vinh hoa phú quí hân hoan uy quyền.

Lệ sầu đau phận Dân hiền.
Di cư di tản, muộn phiền xa quê.
Nhà xưa đất cũ đi về.
Chỉ còn nỗi nhớ não nề tang thương.

Nay thêm Covid Bắc phương.
Lây lan nhiễm dịch, phố phường cách ly.
Dân Đen nghèo khổ sầu bi.
Người vào cát bụi, kẻ đi xa vời.

Phồn hoa tráng lệ một thời.
Nay như “hoa khói” “lệ đời” bỏ buông.

Đoàn Thuận

 

SÀI GÒN SANG TÊN .

Sài Gòn tên đổi Thành Hồ.
Tự Do đường cũ bản đồ niêm phong.
Đâu còn Hòn Ngọc Viễn Đông.
Sau ngày “Mỹ cút” long đong “Ngụy nhào”.

Nghìn năm tình nghĩa đồng bào
”Bắc Nam sum hợp xuân nào vui hơn”.
”Triệu người vui, triệu người buồn”
”Kẻ giàu sụ, kẻ tha phương” cuối trời.

Lương dân bản địa một thời.
Không nhà, tạm trú, di dời, khổ đau.
Lộc Hưng tan nát vườn rau.
Thủ Thiêm mất đất, lệ trào Bình Giang.

Nhóm băng “lợi ích” huy hoàng.
Mê cung biệt phủ, đại quan thị trường.
Thêm luồng dịch tể Bắc phương.
Đưa dân vào cảnh đoạn trường bể dâu.

Thành Hồ cao ngất phố lầu.
Người nghèo kín cửa khép sâu nỗi niềm.

Thảo Điền,2021
ĐOÀN THUẬN

PHỐ NGHÈO

TÔI.

Ngày nao phố cũ hè xưa.
Đi về lá úa lưa thưa rụng buồn.

Đường ray dẫn đến ga truông.
Dăm ba cột điện pha buông đèn vàng.
Phố nghèo hẻm nhỏ dọc ngang.
Mái tôn mái ngói, ẩn tàng rêu phong.

Quán cơm, phòng trọ, hàng rong.
Học trò ở đậu, lao công ăn nhờ.
Dân đen lỡ độ thất cơ.
Nương nhau sống tạm bên bờ đục trong.

Phế nhân, quả phụ, lão ông.
Mồ côi trẻ dại, người không cửa nhà.
Di cư tứ xứ gần xa.
Dù nghèo lòng vẫn chan hòa nghĩa nhân.

Đôi khi chung một vuông sân.
Dưới trăng ngẫm nghĩ lời dân dã buồn.
Cung đàn nhịp điệu lam thôn.
Hát ru ước vọng tâm hồn an nhiên.

Bình Triệu, một chiều thu.

HỒN THU

Gửi vào tơ liễu hồ thu
Thả theo mây lá vàng ru mắt triều
Khuất về đâu hồn cô liêu.

SẦU ĐÔNG

Cây trơ trụi lá sầu đông
Chim di trốn rét phiêu bồng nơi đâu
Không gian trống lạnh buồn rầu.

TƯỞNG XUÂN

Xuân về tưởng núi xanh hơn
Tưởng mưa bụi lấp được cơn muộn phiền
Khi xa cách tự đôi miền.

Xin đời đôi phút bình yên.
Cho lòng an tịnh trước nghiêng ngả đời
Nỗi niềm tự nó chơi vơi.

 

LÁ RỪNG

Thu sang ru lá vàng bay.
Sương mù gió hú heo mây về trời.
Đồi non cỏ cú im hơi.
Theo dòng suối nhỏ lá trôi xa mờ.

Rừng hoang bám rể đôi bờ.
Lá bay bỏ lại cành trơ trụi buồn.
Lá già héo úa thả buông.
Tả tơi mụt nát bên nguồn gốc xưa.

Lá non nớt tự đong đưa.
Như ngơ ngác trước cây thưa lá dần.
Đâu hay trong cõi phong trần.
Chồi xanh búp nõn tự thân cỗi cằn.

Lá mùa đi ở đôi đằng.
Bay xa về đất giá băng ven trời.
Rơi nằm dưới cội luân hồi.
Rã tan thành bụi nuôi đời cỏ cây.

Lá rừng đâu nhớ tháng ngày.
Nương theo sương gió nước mây bụi đời.
Dù hoa bên lá thơm hơi.
Nhưng đời lá thắm vẫn rời tình xanh.

 

CHIẾC LÁ

Sương thu bãng lãng qua đồi.
Rừng xanh gió lạnh thổi rơi lá vàng.
Cuộn theo cát bụi bên ngàn.
Nắng khô mưa ẩm thân tan nát dần.

HƯƠNG TRÀM

Cây vông thắp lửa cuối chiều.
Ta qua phà Bắc nhớ nhiều kênh Nam.
Ai ngồi giặt áo bên vàm.
Tóc mây thả hết hương tràm một mai

 

ĐÊM ĐỒNG BẰNG

Sương đêm xuống lạnh mơ hồ.
Cánh đồng yên ngủ bên bờ sông xa.
Lời người, một thoáng mưa qua.
Chìm trong từng hạt phù sa lắng buồn.

SÂU THẨM

Nước sâu chảy chậm dòng sông.
Tình sâu nghĩa nặng khó lòng nhạt phai.
Dù cho xa cách dặm dài.
Vẫn thầm lắng đọng bao hoài niệm xưa.

 

ĐỜI  LÁ

Vào thu, lá úa vàng khô.
Lìa cành theo gió giang hồ rong chơi.
Dừng chân bên cỏ chân đồi.
Cây xưa rừng cũ bồi hồi nhớ mong.

Lá như bè nhỏ trên sông.
Cùng bèo trôi dạt bềnh bồng về xuôi.
Đâu hay bàng lát ngậm ngùi.
Nghiêng mình lay lắt, dừng lùi về sau.

Lá thu xanh đã bạc màu.
Như tờ lưu bút nét sầu biệt ly.
Trường giang, lớp bụi biên thùy.
Hè sang cuống lá xuân thì nhạt phai.

Thu phong đông giá u hoài.
Sương sa, lá ướt ứa dài giọt rơi.
Mùa màng lặng lẽ nổi trôi.
Cây già lá chết, đâm chồi lộc non.

Thiên nhiên luân chuyển mất còn.
Cỏ hoa tàn tạ, vuông tròn một mai.

 

CHIẾC BÓNG

Hiên ngoài rơi chiếc lá khô.
Sợi trăng chạm lạnh hồn cô đơn chiều.
Ta và bóng ngó liêu xiêu.

MỘT MÌNH

Ta một mình giữa đám đông.
Muôn bàn tay vỗ nhưng không nụ cười.
Đơn côi từ thuở thôi nôi.

VẮNG

Chợ đời bình thản trước ta.
Đường về như thể quan hà tĩnh không.
Mây trời muôn kiếp bềnh bồng.

LỠ BƯỚC.

Đường vui theo tuổi xuân đi.
Sắc hương cát bụi lỡ thì dưới trăng.
Dạo chơi, lạc bước đôi đằng.

NHỚ HÀ NỘI

Hà Nội ơi, quê hương xa
Phố xưa nhà cổ bóng hoa ven tường
Lối chiều trong bãng lãng sương
Ai chờ ai những con đường hàng me.

Hà Nội ơi, ước mơ về
Liễu Hồ Gươm biếc chiều đê mê chiều
Xa xôi Thê Húc lam kiều
Nhớ mùa hoa sữa ít nhiều hương bay.

Hà Nội ơi, hẹn một ngày
Cùng em về với heo may thu vàng
Hoa đào đợi những mùa sang
Để ai áo mới khoe ngang đời mình.

Hà Nội ơi, trúc vẫn xinh
Năm cửa ô cũ mái đình rêu phong
Nhớ sao thành cổ Thăng Long
Bốn nghìn năm một tấc lòng đinh ninh.

CÁT SỸ
Đoàn Thuận

NHỚ NGUYỄN KHÔI

Thăng Long nguồn cội Nguyễn Khôi.
Sài Gòn đất cũ xa xôi nhớ người.
Đôi dòng thủy mặc trầm tươi.
Câu thơ phong kín nụ cười hồn nhiên.

NHỚ BÙI GIÁNG

Ông đi quên hết rã riêng.
Lá hoa cồn”, nỗi ưu phiền tháng năm.
Ông đi bỏ lại chỗ nằm.
Ngàn sao “rớt hột mưa thầm” bóng mây

TÌNH XANH

Tình xanh theo chiếc lá bay.
Thiên nhiên hoang hóa rừng cây núi đồi.
Đôi dòng suối cạn và tôi.
Khát khao một giọt mưa rơi ngang đời

NHỚ BẠN

Biết trăng rồi có lúc già.
Ngày trôi còn lại bóng tà dương thôi.
Biết người có lúc xa xôi.
Bổng dưng có lúc ta ngồi lặng thinh.

CÁT SỸ
Đoàn Thuận

HOA  ĐỒNG CỎ NỘI

Hoa đồng cỏ nội mây trời.
Bao mùa hoang dại mơ đời hanh thông.

Hạn khô mông quạnh đồng không.
Đầm hồ lắng nước, suối sông cạn dòng.
Rừng tàn đất bụi non bồng.
Héo hon vườn tược, đắng lòng cỏ cây.

Trời xanh nuôi dưỡng áng mây.
Dung nhan hơi nước tràn đầy hạt mưa.
Sấm rền gió lộng âm thừa.
Lâm râm lác đác lưa thưa rì rào.

Từng làn mưa móc trên cao
Rơi rơi thánh thót ngọt ngào miên man.
Đất đai thấm ướt mùa màng.
Ruộng nương rẫy bái non ngàn tươi xanh.

Mưa mây buông nhịp trầm thanh.
Cỏ hoa đồng nội long lanh giọt mùa

CÁT SỸ
Đoàn Thuận

 

BÊN BỜ SÔNG HẬU

Hoa bần hồng một dải sông
Nhị bần bay tím lồng trong cây mùa.
Cuối vàm một mái chèo khua.
Giọng hò êm tưởng như lùa hương đi.

BÊN SÔNG DINH

Lau thưa nghiêng trắng sông dài.
Con thuyền gác mái bên ngoài hoàng hôn.
Dòng trôi chia nửa dáng cồn.
Hoa bằng lăng rụng tím hồn mênh mông.

BẾN SÔNG MƯA

Đưa người qua bến sông mưa.
Hoa lục bình tím như chưa kịp tàn.
Chiều đầy sóng nước mênh mang.
Chợt đôi bờ rộng một tràng giang xa.

VỀ MỘT DÒNG SÔNG

Xin người chậm phút qua sông.
Thuyền xưa đã mục ta không đưa người.
Bến bờ hãy chậm chiều rơi.
Để ngày tháng cũ chậm trôi theo dòng.

CÁT SỸ
Đoàn Thuận

 

LÁ THƯ CŨ

Lá thư viết giữa chiều mưa.
Từ mùa phượng vĩ, làng xưa trên đồi.

Thư thăm người bỏ quên tôi.
Bên bờ cát bụi nổi trôi dặm đường.
Âm thầm dưới bóng gió sương.
Lần tìm nơi trọ, tha phương ở đời.

Người đi biền biệt xa khơi.
Cùng bao kỷ niệm, không lời biệt ly.
Đâu ai tiếp nhận phong bì.
Trở về thư ngủ bao kỳ nắng mưa.

Nằm im dưới lớp bụi thừa.
Như ôm ấp nỗi niềm xưa vào hồn.

CÁT SỸ

NẾU NHƯ

Nếu người như hạt bụi kia
lắng nghe con dế bên rìa đồng hoang
gáy ru sầu buổi thu tàn.

Nếu người một kiếp lang thang
tựa như mây trắng nối hàng qua non
đôi khi che bóng trăng tròn.

Nếu người hoá thạch bên non
nàng Tô Thi khóc giữa còn mất xưa
đá mòn không, trước hạt mưa ?

Khi rừng
heo hút
lưa thưa.

QUÃNG LẶNG

âm thừa chạm đáy cô liêu
nghe như hạt lệ khô nhiều tháng năm
nhịp buông lơi, quãng lặng trầm.

CÁT SỸ
Đoàn Thuận

 

HẠT MƯA và DÒNG SÔNG

Bao tia nước khuất về xa.
Từ nguồn mưa móc bao la cõi trời.
Từ làn mây nước chơi vơi.
Cùng sương tích tụ, mưa rơi xuống đời.

Mưa mù mịt khắp núi đồi.
Nước tràn gành thác thầm trôi qua rừng.
Mạch ngầm lắng đọng nên bưng.
Ao chum ngày cạn, nước lưng đầm hồ.

Bảo bùng lũ quét sóng xô.
Mưa nguồn soi mở đôi bờ dòng sông.
Sông qua rừng thẳm non bồng.
Qua bao làng mạc, cánh đồng lúa non.

Đôi khi sông cạn đá mòn.
Bên bồi bên lở, mất còn đục trong.
Sông xuôi về biển mặn nồng.
Bóc hơi theo nắng phiêu bồng cùng mây.

Trầm luân theo bóng tháng ngày.
Trời cao trả hạt mưa mây cho đời.
Sông xưa đầy nước êm trôi.

CÁT SỸ

HỒN THU

Gửi vào tơ liễu hồn thu.
Thả theo mây lá vàng ru mắt triều.
Khuất về đâu hồn cô liêu.

MÊNH MANG

Tàn thu đưa lá sang đông.
Bão mênh mang rớt vào không gian đầy.
Đôi lần buốt lạnh trên tay.

Tình xưa hoá thạch tháng ngày.
Đường thôn bụi lấp dấu giày vắng không.
Ai ru sầu tận mênh mông.

SẦU ĐÔNG

Cây trơ trụi lá sầu đông.
Chim di trốn rét phiêu bồng nơi đâu.
Không gian trống lạnh buồn rầu

CÁT SỸ

 

LƠ NGƠ.

Cùng người nhịp bước đường đời.
Quanh co heo hút dưới trời gió sương.
Bên nhau lắng tiếng mưa nguồn.
Rơi trên rừng lá âm buồn mong manh.

Đôi khi lưu lạc độc hành.
Hành trang  lưu bút ngày xanh hạ tàn.
Biệt ly xóm mạc đồng hoang.
Dặm dài cát bụi ẩn tàng nỗi đau.

Bâng khuâng dừng lại bên cầu.
Đò ngang khuất bóng, sông sâu xuôi dòng.
Cánh bèo trôi dạt long đong.
Lục bình lờ lững, rêu rong vật vờ.

Một tôi phận mỏng lơ ngơ.
Mong tìm an tịnh bên bờ điêu linh.

CÁT SỸ

 

MỘT BẾN SÔNG

Cuối ngày nhớ một bến sông.
Đôi bờ xa thẳm vẫn mong thuyền về.
Biển mù rớt bão lê thê.
Ở đâu con sóng vỗ mê man chiều.

TRÊN NON

Trên non cây cỏ hồn nhiên.
Trước mùa mưa nắng, giữa miền gió sương.
Tàn hoa úa lá phai hương.
Và ta chậm bước trên đường vào xuân.

MẶT HỒ

Đồi xa cây xác xơ thu.
Mặt gương hồ lắng cõi u minh này.
Điệu buồn rót mỏi trên tay.
Mưa rơi xóm hạ vắn dài mái rêu.

HƯƠNG TRÀM

Cây vông thắp lửa cuối chiều.
Ta qua phà Bắc nhớ nhiều kênh Nam.
Ai ngồi giặt áo bên vàm.
Tóc mây thả hết hương tràm một mai.

CÁT SỸ
Đoàn Thuận

 

LỀU LÁ

Người về lều lá hư không.
Ta một thôn vắng nghe mông mênh buồn.
Hồ đời đọng ánh trăng suông.
Ở đâu mà chẳng mưa nguồn lá bay.

Ngưới về thoáng chút heo may.
Ta ngồi lại với sân đầy rêu đêm.
Mái đầu pha trắng sương thêm.
Ở đâu cát bụi chẳng mềm nắng mưa.

Mái cành nôm dọi lại chưa
Mây vần vụ chuyển bóng mưa về rồi.
Giọt đời dột xuống hồn người.
Thêm hạt mưa của đất trời lưa thưa.

Ngoài kia biển bấc sang mùa.
Bạn bè một thuở đã thưa thớt dần.
Muốn thăm ai cũng ngại ngần.
Ta về cười ngất đôi lần trong mơ.

CAT SỸ

 

XA NGÀN

Trường xưa xóm học xa ngàn.
Xuân thu mấy độ lỡ làng giấc mơ.
Mưa trời ủ dột lời thơ.

BUỒN GẦN

Người đi giờ đã về chưa.
Dưới trăng hoa núi nở vừa màu xuân.
Ước mơ xa, nỗi buồn gần.

LẶNG LẼ

Một đời làm thợ làm thầy.
Nay xin làm bộ lấy ngày làm đêm.
Làm thinh cho lặng lẽ thêm.

TRÚ NGỤ

Ta nương náu bóng mùa sau.
Từ hương hoa núi, từ màu khói mây.
Mái rêu nghiên bút bụi đầy.

CÁT SỸ

     Tôi mãi nhớ những buổi “học chữ” của nhóm chăn trâu
mà dân làng Tân Lý gọi là “lớp mục đồng”,vào năm 1955.
”Lớp học” nhưng không thầy cô, không học trò, chỉ có
”đứa biết nhiều chữ xớt bớt cho đứa không có chữ nào..”
như lời dặn của Cụ Cả trong làng.
        Năm 1966, tôi về La Gi, La Dạ, tìm thăm bạn chăn trâu
thơ dại nghèo khổ ngày nào và ghi đôi điều về lớp học này:

LỚP MỤC ĐỒNG

Chăn trâu thả láng thả bưng
giúp nhau học chữ ven rừng bên sông,
ê a từng tiếng vỡ lòng,
giữa đồng mông quạnh tịnh không học trò.

Que than thay bút trời cho
làm bài tập viết trên mo cau rừng.
với con chữ đói, chữ sưng,
chữ gầy, chữ rách, chữ lừng lững no.

Đôi dòng chữ chạm trang mo,
ghi vài mơ ước ấm no sau này.
Trên lưng trâu cặp, trâu bầy,
mơ sao được sống tháng ngày thư sinh.

Hoa sen từ giữa bưng sình,
hương nhu thơm thoảng trước bình minh xanh.
Mục đồng học lóm loanh quanh,
thầm mong quê mẹ an lành một mai.

Tân Lý, 1966
CÁT SỸ

 

Nhân ngày 20 tháng 11,
tôi kính chúc quí Thầy Cô, quí Thân Hữu luôn bình yên,
dù nhiều trường vẫn đang đóng cửa vì dịch covid,
dù tôi đã xa sân trường đã trên 18 năm.
Đoàn Thuận.
.

SÂN TRƯỜNG MÙA HẠ

Người về xóm học đã thưa.
Những trang vở khép vào xưa cũ dần.
Hàng dương liễu đứng bâng khuâng.
Tiễn mùa sang hạ, mưa ngần ngại bay.

Bước chân gõ guốc phố này,
Áo em trắng những tháng ngày thư sinh.
Sân trường giờ lại vắng thinh.
Thềm ngoài lớp học, rêu in sắc chiều

Thuyền xa, bờ chợt cô liêu,
Đàn chim bay khuất, quanh hiu núi đồi.
Nghỉ hè, em lại xa xôi,
Mình ta giữa cõi muôn lời cổ thi.

Lá thu xanh gọi mùa đi,
Ngoài ô cửa lớp mùa thi qua rồi.
Đường về xóm học chia đôi.
Vắng em bụi phủ chỗ ngồi lặng yên.

Những chiều ru gió sau hiên,
Tưởng em ngồi học một miền quê xa.
Mong ngày hạ trắng mau qua,
Em về bước nhỏ lối hoa mộng này.

Trường Nguyễn Huệ, 2003

 

TỊCH LIÊU

Ta ra kênh ngắm mây trời.
Hoa lục bình tím như trôi chậm chiều.
Trong vô cùng cõi tịch liêu.
Nghe tan vỡ mộng mùa phiêu du rồi..

TIẾNG CHIM

Có con chim lẫn phố mây
Để rơi tiếng hót xuống đầy hoàng hôn.
Như rơi yên tĩnh vào hồn
Như hương xưa thấm vào ngôn ngữ chiều.

CHIỀU TỊNH YÊN

Chiều phai nắng, lạnh dòng sông
Con thuyền gác mái bềnh bồng nhẹ trôi.
Đàn chim vổ cánh qua đồi.
Sao mờ tịnh lắng khúc nôi niệm trầm.

YÊN TĨNH ĐÊM

Trăng thượng tuần rất mênh mông.
Con sông lặng lẽ một dòng về xuôi.
Thuyền ai gác mái đêm khơi.
Tiếng chuông chùa cổ chơi vơi núi rừng.

CÁT SỸ

 

VỀ

Trót đi có lúc phải về.
Vườn xưa khép cửa, bạn bè với hoa.
Tịnh yên một cõi riêng ta.

BÊN SUỐI ĐÓ

Một vùng Suối Đó Chùa Đây.
Màu lam chiều tiếng chuông đầy sau mưa.
Tịnh yên vào cõi vô thừa,
Không mờ sương phố, không thưa lau bờ.

Chợt vàng bướm tự ngẩn ngơ.
Dựa lưng bến ngủ, ta chờ mộng ta.

BÊN SUỐI TIÊN

Hoa mua tím thẳm trong chiều
Một bờ suối vắng ít nhiều sương bay.
Phải đâu hồn của cỏ cây,
Sắc hương bến mộng bóng ngày tĩnh không.

Mây bay mấy độ bềnh bồng,
Phấn hoa màu cỏ lặng trong cõi người.
Một dòng trôi mãi về trời.
Giọt vô biên rụng xuống đời lặng thinh.

CÁT SỸ
Đoàn Thuận

 

MỘT THOÁNG .

Trăng ba mươi đã về già
Trăm năm một thoáng bóng ta ven trời
Thinh không lắng giọt tình rơi.

MỘT MAI

Một mai đời có xa thêm
Cầm bằng chân cứng đá mềm vậy thôi
Hơi đâu lòng dạ bồi hồi.

BUỒN

Chớm thu lá biếc chưa vàng.
Một người vội vã sang ngang đò chiều.
Một người thờ thẩn buồn hiu.

ĐIỀU CÒN LẠI

Ta còn đây mấy năm dư
Tay run ghi lại thực hư cõi lòng
Mực đen giấy trắng bụi hồng.

CÁT  SỸ

 

TUỔI ĐỜI

Dòng đời soi bóng thời gian.
Thôi nôi thơ dại mơ màng tuổi xanh.
Địa đàng dẫn bước lữ hành.
Gậy lê la nhịp âm thanh gót hài.

Tóc tơ mòn mỏi bạc phai.
Bờ mê bến mộng một mai mịt mù
Chuyện xưa tích cũ tầm vu.
Lời nguyền ý niệm thiên thu lặng thầm.

Hạnh hoa sương khói bụi lầm
Tình đời tan hợp thăng trầm tùy duyên
Đôi mùa tao ngộ non tiên.
Muôn mùa ly biệt một miền bể dâu.

Thoáng qua cửa sổ bóng câu.
Thanh xuân phút chốc bạc màu tóc mây.

CÁT SỸ
Đoàn Thuận

 

BÓNG NẮNG

Bên thềm bóng nắng lặng căm.
Đâu soi thấu nỗi thăng trầm cỏ hoa.
Ngày trôi nắng nhạt chiều tà.
Trầm hương bảng lảng la đà qua đêm.

TIA NẮNG

Mặt trời từ đỉnh cây cao.
Thả buông tia sáng xuống ao sen hồng.
Dịu hương trầm tích tĩnh không.
Nắng vàng mây trắng bềnh bồng phiêu du.

NẮNG PHAI

Thoáng nhanh ánh nắng qua chiều.
Rừng cây núi đá thủy triều mờ phai.
Lẫn trong cát bụi u hoài.
Phận đời mỏng mảnh cũng mai một dần.

NẮNG MƯA

Nắng mưa ấp ủ mộng đời.
Sông xanh nước ngọt mưa rơi trên nguồn.
Nương mùa vạn hữu âm dương.
Ngày lên nắng ấm phai sương đêm trường.

CÁT SỸ
Đoàn Thuận

 

TỰ BAN SƠ

Lâu rồi hoa nở bên trời.
Cũng lâu hoa rụng tơi bời cuối truông.
Bao lâu, hoa của nỗi buồn ?

Mây như vân cát mờ sương.
Sóng bạc đầu vỗ tang thương mấy bờ.
Phai tàn có tự ban sơ.

KHÓI MÂY

Ngỡ đời heo hút bến thuyền.
Hoa thanh xuân lạc xa miền khói mây.
Giật mình sao ta còn đây.

Dĩ nhiên đâu chỉ một ngày.
Tưởng ta lỡ bước lưu đày nhân gian.
Rơi thêm một chiếc lá vàng.

RU ĐỜI

Biển ru tiếng sóng vô bờ.
Gió ru lau sậy vật vờ liễu dương.
Mây chiều ru lạnh hồ sương.

Ta ru hoa cỏ về nguồn.
Ai ru chiều một khúc buồn vào thơ.
Ta như  khờ khạo mộng mơ.

CÁT SỸ

 

BƯỚC CHÂN XA GẦN

Bước chân dài trước con đường.
Bước đi, bước mãi dặm trường sẽ qua.
Dừng chân, đoạn ngắn hóa xa.
Thường khi dồn bước bôn ba đường trần.

Đường nào xa tít cũng gần.
Dặm dài lại ngắn, nếu lần bước đi.
Lối mòn đứt quảng phân ly.
Cầu tre lắt lẻo ngại gì ngả nghiêng.
Sông sâu chia cắt bến thuyền.
Chuyến phà cầu đúc nối liền đôi bên.

Đường đời lắm lúc gập ghềnh.
Gót chân mềm mại dẫm lên đá mòn.
Bàn chân một thuở bé con.
Bước lên từng bước chon von dốc già.

Bước chân trong cõi người ta
dài hơn mọi nẻo ta bà bâng khuâng.
Những ai lẩn thẩn ngại ngần
sẽ xa bến giác, khó gần bờ yên.

Thảo Điền,2014
Đoàn Thuận

 

BÓNG MƯA

Người đi ngày một ngày hai.
Ta chon von đỉnh dốc dài vắng xa.
Lũng rừng sương phả chiều qua.
Nghe heo hút bóng mưa và cô liêu.

MƯA PHÙN

Mưa phùn phơ phất ngang hoa.
Làn hương dịu lắng vào xa núi rừng.
Hơi xuân buông thả dửng dưng.
Cùng mây sương khói ngập ngừng dưới thung.

DƯỚI MƯA

Có người lầm lủi trong mưa
Nhặt dăm cánh phượng rơi thưa phương này.
Hương mùa theo chiếc lá bay
Phương kia cuối nhặt dấu giày rêu phong.

ĐỤT MƯA

Đụt mưa chiều dưới hàng cây.
Làm ta chợt nhớ một ngày xa em.
Xin trời đừng đổ mưa thêm.
Giọt xưa đã thấm ướt mèm trong nhau.

CÁT SỸ

 

MÂY NƯỚC

Trăng sao một vòm trời.
Núi sông một vuông đất.
Mang mang mây nước theo mùa trôi.

HƠI MÂY

Ngang trời áng mây trôi.
Làn mưa thấm ướt đồi cây cỏ.
Từng rỏ giọt lạnh hơi.

Bụi cát bời theo gió
Khói sương buông bỏ xuống rêu rong,
Mây bồng bềnh phiêu bạt.

Bóng tạt nước theo sông.
Suối nguồn dòng xuôi nghe biển hát.
Ru hạt mưa qua đời.

Rụng rời qua xóm mạc
Vườn cây hoa nhạt lá úa rơi
Lặng tĩnh phai hương trời.

thơ HAIKU của Cát Sỹ

 

GIỌT LỆ MÂY HÀNG

Ngoài hiên rơi giọt sương khuya.
Lạnh buồn như thể bên kia nỗi niềm.
Rêu hoang cát bụi lặng im.
Đâu hay mưa móc trong tim đất trời.

Mây Hàng lờ lững chơi vơi.
Xót xa rừng núi cõi đời hanh hao.
Buông rơi nước mắt nghẹn ngào.
Như mưa phơ phất rì rào lưa thưa.

Như sương đôi giọt âm thừa.
Liu riu trên mái đình xưa mơ màng.
Sương hay giọt lệ dịu dàng.
Vương mang từ áng Mây Hàng trời xa.

Khuya lơ mờ nhạt thềm hoa.
Tịnh yên thoáng bóng sương pha hương trầm.

CÁT SỸ
Đoàn Thuận

 

SƯƠNG MÙ

Sương mù theo gió chơi vơi.
Vấn vương liễu rũ thầm rơi hạt buồn.
Giã từ bóng nước mây nguồn.
Giá băng đọng giọt lệ buông xuống đời.

SƯƠNG MAI

Bấc mang rét lạnh đông về.
Bóng hoàng hoa nắng thu hề đã phai.
Giọt hương ướp trắng sương mai.
Thấm vào hồn đá hình hài cỏ cây.

SƯƠNG ĐÊM

Giọt sương trên lá sen tươi.
Ngó nghiêng nhìn lá mĩm cười cùng sương.
Lá ôm sương suốt đêm trường.
Ngày lên sen tiễn hơi sương về trời.

KHUYA LẠNH

Đêm khuya lạnh buốt non ngàn.
Trăng mờ bếp củi lửa tàn tro phai.
Cung đàn nhịp gõ âm dài.
Thanh trầm khoản lặng u hoài lắng sâu.

CÁT SỸ
Đoàn Thuận

 

MÙA HOA

TÔI

Bao mùa hoa đi qua đời tôi.
màu phôi pha phiêu diêu về trời,
hương thơm thảo lặng vào ký ức,
dù tha phương luân lạc chơi vơi.

Hoa mua non xanh tròn thơ ngây
không âm thanh nương theo chân ngày,
đã cùng tôi chăn trâu xóm ruộng,
thả vui buồn qua đồi cỏ cây.

Bao sân trường đường hoa không tên,
lời thầy cô thời xưa đâu quên,
gác hoa xoan bạn bè sách vở,
như còn nguyên dù đời gập ghềnh.

Hoa lưu ly lưu sầu chia ly,
lời nguyền xanh mong manh ra đi,
cánh hoa ép đôi trang nhật ký,
vẫn vương mang hương tình xuân thì.

Hoa sơ khai rồi hoa tàn phai,
tôi rong chơi bên hoa đường dài,
nơi đất trọ tưởng niệm mùa cũ
theo hương trầm lần về một mai.

CÁT SỸ
Đoàn Thuận

 

LỜI HOA

Dù ngôn từ có mông lung.
Đất đai vẫn đợi lạnh lùng mưa rơi.
Để hoa tuyết nở trắng trời.

HOA VẮP

Đóa hoa Vắp trắng nhụy vàng.
Lưu hương thơm thảo bàng hoàng trong nhau.
Dòng đời dù vẫn trôi mau.

NGÓ SEN

Mưa phùn phơ phất trên không.
Hơi mưa thấm đượm tấc lòng nước mây.
Hoa mùa thả phấn hương bay.

Đóa sen từ cõi bùn lầy.
Rễ mang mầm đất nhựa cây sắc trời.
Ngó tròn ngóng áng mây trôi.

CAT SỸ

 

ĐỜI NGƯỜI.

Dòng đời chuyển dịch chậm, mau.
Ngày tàn đêm xuống, trời cao đất dày.
Trăm năm tựa cuộc tỉnh say.
Người ta sinh tử họa may ảo huyền.

Mê mờ một mối nhân duyên.
Hoàng hoa lạc lối đào nguyên tuyền đài.
Lần tìm đất trọ sinh nhai.
Cho dù đá nát vàng phai hoang tàn.

Bàn chân dẫm bước quan san.
Đôi tay hứng giọt trăng vàng mộng mơ.
Sông sâu nước lạnh đôi bờ.
Tình xanh lá thắm tóc tơ phai nhòa.

Trầm luân trong cõi ta bà.
Vui buồn còn mất chỉ qua một thời.
Vào đời, tiếng hát ru nôi.
Qua đời, giọt lệ buồn rơi bên mồ.

CÁT SỸ
Đoàn Thuận

 

Cát Sỹ chia buồn
cùng VÕ NGỌC SƠN.
__________________

SƠN ƠI.

”Lặng nhìn theo khói hương bay”.
”Sơn còn một nửa”, nửa thay lệ buồn.
Trăm năm đâu mãi tròn vuông.

LỜI NGUYỆN

Bóng trời che tháp chuông cao.
Lời kinh cầu nguyện đêm xao xuyến lòng.
Mối sầu tưởng đã hư không.

Hương trầm lan toả phiêu bồng.
Nến hồng đâu thấm khô dòng lệ rơi.
Đâu xua được nỗi đau đời.

MỘT LỜI

Một lời hương chợt thành hoa.
Nghe trong tiếng lụa xé tà khăn tang.
Đời trôi theo lớp bụi vàng.

Nỗi buồn gõ nhịp thời gian.
Chuyến xe thổ mộ qua ngang phố dài
Người chờ hóa kiếp một mai.

CÁT SỸ

 

ĐỜI LƯU NGUYỄN

Trăm năm duyên phận mỏi mòn.
Tình xanh lá thắm mất còn trong mơ.
Thuyền quyên bến mộng mê mờ.
Đào nguyên tiên nữ khách thơ hẹn hò.

Hẹn cùng chung một chuyến đò.
Cùng qua đất trọ nhóm lò lửa đêm.
Dù sương giá lạnh ngoài thềm.
Chung chăn trọn kiếp ấm êm lời nguyền.

Nhưng, nàng nhã nhạc non tiên.
Chàng lưu lạc cõi lâm tuyền trần gian.
Hai mùa xuân hạ trên ngàn.
Ba đời cát bụi phũ phàng giấc mơ.

Lạc loài Lưu Nguyễn thẫn thờ
Người xưa chốn cũ mịt mờ thinh không.

CÁT SỸ
Đoàn Thuận

 

BÊN NGÀN

Đôi khi lẳng lặng lên ngàn
Hái dăm ba cánh hoa vàng vậy thôi.
Lên non rồi nhớ cõi người.
Hoàng hoa mấy cánh đã rơi nẻo về.

XUÂN TRÊN NON

Trên non cây cỏ hồn nhiên.
Trước mùa mưa nắng, giữa miền gió sương.
Tàn hoa úa lá phai hương.
Và ta chậm bước trên đường vào xuân.

NGOÀI ĐÀO NGUYÊN

Bụi đường theo gió mù bay.
Rơi trên tóc rối phủ đầy bờ vai.
Lang thang du tử dặm dài.
Lần tìm Lưu Nguyễn cõi ngoài đào nguyên.

NHẮN VỀ NGUỒN ĐÀO

Ai người về lại nguồn đào
Gởi rằng Lưu Nguyễn đã vào nhân gian.
Non xanh cửa động hoa vàng.
Bóng trăng thơ thẩn để ngàn năm trôi.

CÁT SỸ

 

RÊU PHONG ĐỀN CŨ

Sống trong lặng tĩnh đời thường.
Rêu xanh bám trụ chân tường đền xưa.
Nơi từng tịnh dưỡng diệu thừa.
Yên nhiên trước nắng gió mưa mê mờ.

Thân rêu đôi lúc lơ ngơ.
Lá teo lí nhí phất phơ trong chiều.
Gốc gầy tiu nghỉu đìu hiu.
Thầm mong mưa móc liu riu mái đền.

Hương pha nhụy phấn bồng bềnh.
Hoa chen kẽ nứt đất nền rã riêng.
Cùng làn mây nước du miên.
Từ trời buông thả xuống hiên địa đàng.

Đền đài xưa cũ điêu tàn.
Thềm hoang cỏ dại, bụi loan cung đường.
Am mây trong bóng khói sương.
Tĩnh trong tĩnh tại khe tường rêu phong.

CÁT SỸ
Đoàn Thuận

TƯỞNG

Chạm lên thềm cũ xanh rêu.
Tưởng mùa lá rụng vàng theo bóng người.
Chạm lên khoảng lặng môi cười.
Tưởng con sóng vỗ một đời trong ta.

TÌNH XANH

Tình xanh theo chiếc lá bay.
Thiên nhiên hoang hóa rừng cây núi đồi.
Đôi dòng suối cạn và tôi.
Khát khao một giọt mưa rơi ngang đời.

TRẦU CAU

Lời nguyền hóa đá từ lâu.
Hương cau thắm đỏ vệt trầu nhân duyên.
Tìm nhau lạc giữa trăm miền.
Hay đâu giáp mặt lâm tuyền hoang vu.

ĐIỀU CÒN LẠI

Có khi lỡ một chuyến về.
Xa người mới biết mình mê muội nhiều.
Tình xưa còn lại bao nhiêu.
Thoáng mơ ước cũ tựa điều thinh không.

CÁT SỸ

 

MỘT NGÀY ĐI QUA

Vẫn người một thuở mười lăm.
Hồn nhiên về hát trước rằm sau mưa.
Nụ hồng trong cõi chưa xưa.

Ta về ngồi dưới bóng mùa.
Nghe rong rêu lắng khúc mưa ngoài chiều.
Hạc vàng rụng cánh phiêu diêu.

Bờ nghiêng chia nửa dáng chiều.
Sương lưng vách núi khói xiêu dạt rừng.
Một ngày đi qua sau lưng.

Một ngày quên mất tuổi mừng.
Một ngày yêu dấu người, nhưng lâu rồi.
Một ngày xa lắc, thế thôi.

ĐÔI BỜ

Hồn nhiên người đến bên đời.
Để hoa nở dại một thời ngây thơ.
Chợt rồi xa cách đôi bờ.

CÁT SỸ

 

SƯƠNG MÙ ĐẤT XƯA.

Sương lam bảng lảng đường chiều.
Đoàn người nghèo khổ liêu xiêu vật vờ.
Dò theo bờ cỏ hoang sơ.
Mong về đất cũ lắc lơ xa vời.

Bao mùa lưu lạc chơi vơi.
Sa cơ lỡ độ, phận đời héo hon.
Bơ vơ giữa mất và còn.
Nương thân xứ lạ mỏi mòn nhớ quê.

Thăng trầm trong đục bộn bề.
Du cư sống tạm, não nề tâm can.
Bao người từ biệt trần gian.
Bao người lâm cảnh gian nan khốn cùng.

Quê cha đất tổ chập chùng.
Trầm hương tưởng niệm, nghìn trùng xót xa.
Vì đâu cách trở quan hà.
Mịt mùng cõi tạm, phong ba đường trần.

CÁT SỸ
Đoàn Thuận

 

MỘT CHIỀU MƯA

Đò ngang bến đổ chiều mưa.
Không lời ly biệt người xưa xa mờ.
Ta về nghiêng nón đợi chờ.
Mưa buồn rơi lạnh xuống bờ thùy dương.
.

BẾN SÔNG MƯA

Đưa người qua bến sông mưa.
Hoa lục bình tím như chưa kịp tàn.
Chiều đầy sóng nước mênh mang.
Chợt đôi bờ rộng một tràng giang xa.
.

LÁ MƯA ƯỚT

Mưa rào ướt lá vàng khô.
Đầm đìa lướt thướt như mờ lệ rơi.
Đã xa nhành cội đọt chồi.
Nay tràn lũ quét lá rời đất xưa.
.

MƯA TẠNH TRÊN SÔNG

Tạnh sông dải lụa ngang chiều.
Một làn khói mỏng làm xiêu cây bờ.
Ngờ như chiếc lá bâng quơ.
Tiếng chim se sẻ chạm hờ vào hoa

CÁT SỸ

 

NIỀM RIÊNG

Dường như hạnh phúc giống nhau.
Mỗi người nhận một nỗi đau riêng mình.
Trước rừng, đá núi lặng thinh.

THOÁNG MƠ

Hạt mưa nghiêng lạnh trên sông.
Nghìn thu nước mạch đưa dòng trôi đi.
Đã qua một thoáng xuân thì.

Người đi bóng đổ vân vi.
Người ngồi năm tháng thầm thì sau lưng.
Ta như đang ở lưng chừng.

Lá khô rụng phía sau rừng.
Một bông hoa muộn gởi mừng tuổi em.
Mơ cây rừng núi xanh thêm.

Nếu không ngày chẳng có đêm.
Không người mơ cõi êm đềm mà chi.
Kiếp sau ai có hẹn kỳ ?

CÁT SỸ

NHỊP THỜI GIAN

Đồng hồ tíc-tắc trên tường.
Thời gian theo nhịp vô thường êm trôi.
Tháng ngày xé lịch mùa đời.
Nhân thân khoảnh khắc rã rời thiên thu.

Vào đời dò dẫm lộ mù.
Bờ mê bến mộng âm u bóng người.
Đồng thuyền xuôi mái vui cười.
Bên nhau xuân thắm hoa tươi hương nồng.

Ngày lên nắng ấm mênh mông.
Đêm về như lớp sương trong mịt mùng.
Dù lòng mơ ước thủy chung.
Đồng sàng dị mộng lạnh lùng chia phôi.

Cùng chung vạn hữu luân hồi.
Loài người nương tựa dòng đời trăm năm.
Nhịp chân ánh mắt xa xăm.
Trở về cát bụi âm thầm bỏ buông.

CÁT SỸ

 

CUNG TRẦM

Cung trầm từng khoản nhạc êm.
Bay qua đồng lúa ru đêm xóm làng.
Lam thôn điệu cổ dân gian.
Câu hò lục bát, giọt đàn bầu xưa.
.

NỐT TRẦM

Hương thời gian ủ trong hoa.
Tiếng chuông chùa vọng chiều qua chân trời.
Nốt trầm trong giọt mưa rơi.
Tan vào hạt mặn thành lời biển xanh.

ÂM THỪA

Hạt buồn nhuận thấm hồn đời.
Âm thừa giọt lệ không lời chia ly.
Người theo cát bụi ra đi.
Người về nuối mộng xuân thì một mai.

KHOẢNG LẶNG

Hạc vàng đậu xuống Đường thi.
Thung chiều thoáng bóng chim di rét về.
Lời ru đơn thuở u mê.
Chạm lên khoảng lặng khúc Nghê Thường buồn

CÁT SỸ

 

BÌNH THƯỜNG

Bỏ ta côi cút giữa đời.
Người vui tìm đến chân trời gấm hoa.
Bình thường thôi cõi ta bà.

Gió sương tạm mượn làm nhà.
Mồ hôi bạc áo lệ nhòa bao đêm.
Khổ đau đời tặng nhiều thêm.


NHƯ KHÔNG

Xa người ta hiểu ta thêm.
Thời gian tan loãng vào đêm mộng hờ.
Hoang vu chết giữa đôi bờ.

Ta như một kẻ dại khờ.
Bỏ quên giấc ngủ bên bờ thinh không.
Bồng bềnh như một con sông.

Trước tình ta chỉ là không.
Nỗi buồn hóa đá giữa mông mênh đời.
Sắc màu lắng tiếng hoa rơi. rơi.

CÁT SỸ

 

.

CUNG BẬC BỔNG TRẦM

Nụ cười đâu hẳn niềm vui.
Đôi môi khép nỗi ngậm ngùi bên trong.
An nhiên xoa dịu tấm lòng.
Tưởng như một thoáng tĩnh không vô thường.

Tùy duyên buông bỏ tiếc thương.
Tùy thời cây cỏ thả hương về trời.
Mê mờ bụi phấn xa khơi.
Sắc màu hình bóng pha phôi mịt mùng.

Bình yên phiền nhiễu riêng chung.
Khác chi bản nhạc nhiều cung bổng trầm.
Trường canh đời lắm khuôn âm.
Nhịp chìm khoản lặng trăm năm kiếp người.

Tình xanh đâu mãi thắm tươi.
Mưa rơi bến đỗ, khóc cười bên nôi.
Người theo cát bụi lần hồi.
Trú chân đất trọ, tìm nơi yên hàn.

Mồ hôi nước mắt miên man
Thả rơi nhịp gõ cung đàn bể dâu.

CÁT SỸ
Đoàn Thuận

 

PHIÊU DIÊU

Mây bay mưa rụng xuống chiều.
Đôi nhành huệ trắng tiêu điều lá hoa.
Mong manh hương phấn nhạt nhòa.
Lẩn vào sương gió la đà phiêu diêu.

CHIẾC LÁ

Sương thu bãng lãng qua đồi.
Rừng xanh gió lạnh thổi rơi lá vàng.
Cuộn theo cát bụi bên ngàn.
Nắng hanh mưa ẩm phận tàn hóa thân.

SÂU THẨM

Nước sâu chảy chậm dòng sông.
Tình sâu nghĩa nặng khó lòng nhạt phai.
Dù cho xa cách dặm dài.
Vẫn thầm lắng đọng bao hoài niệm xưa.

NHƯ BỤI

Buông theo cánh gió phiêu diêu.
Ru vào quên lãng bao điều tiếc thương.
Tịnh yên qua những đêm trường.
Ngỡ ta như bụi gió sương nhuận trầm.

CÁT SỸ
Đoàn Thuận
.

TIỄN NGƯỜI RA ĐI
trong mùa covid.
______________________
.

MỘT LỜI

Một lời hương chợt thành hoa.
Nghe trong tiếng lụa xé tà khăn tang.
Đời trôi theo lớp bụi vàng.
Nỗi buồn gõ nhịp thời gian.
Chuyến xe thổ mộ qua ngang phố dài
Người chờ hóa kiếp một mai.
.

ĐÂU CHẮC

Niềm đau đâu chắc dễ nguôi.
Khuất đi đâu chắc buồn vui không còn.
Tựa trăng thu mãi khuyết tròn.
.

QUÃNG LẶNG

Âm thừa chạm đáy cô liêu
Nghe như hạt lệ khô nhiều tháng năm.
Nhịp buông lơi, quãng lặng trầm.
Thảo Điền,2021

ĐỜI MỒ CÔI

Vào đời bao trẻ mồ côi.
Nằm trong gốc khuất, bên nôi vệ đường.
Gió ru lời nguyện pha sương.
Hoà cùng tiếng khóc thoáng hương đầu đời.

Khác chi một hạt bụi rơi.
Bỏ quên giữa chợ, sân chơi tình trường.
Bơ vơ lưu lạc tha phương.
Biết đâu nguồn cội quê hương họ hàng.

Biết aí sanh đứa con hoang.
Biết ai nhặt trẻ bên đàng bỏ rơi.
Ăn mày chút phận bụi đời.
Cô đơn lặng lẽ không lời tự xưng.

Dưới trời nước lã người dưng.
Tấm thân bèo bọt gìữa chừng tứ sinh.
Lương dân tội nghiệp thương tình.
Đôi khi kẻ ác cười khinh nặng lời.

Đành thôi, phận bạc mồ côi

CẢT SỸ

 

MỘT NGÀY QUA.

Hừng đông trời tỏa ánh hồng.
Trưa đưa ngày vượt bầu không qua chiều.
Đôi bờ cỏ dưới nắng thiêu.
Hoa sầu lá muộn cây xiêu bóng tà.

CHIỀU THU PHAI

Làn mưa lành lạnh trong chiều.
Rơi rơi dìu dịu đìu hiu hiên ngoài.
Vương buồn một thoáng thu phai.
Thầm nghe như giọt lệ dài mùa xưa

CHIỀU MỜ

Sau mưa liễu rũ lơ thơ.
Chiều phai nắng nhạt bóng mơ tư bề.
Sương pha ngọn lúa đồng quê.
Con thuyền gác mái bến mê bờ lầm.

NGÀY TÀN

Ngày tàn nắng đổ bên non.
Chiều trôi bóng ảo dặm mòn lũng hoang.
Chim bay về tổ từng đàn.
Dư âm tiếng hót mơ màng vào đêm.

CÁT SỸ
Đoàn Thuận

TỰ BIẾT

Mất người ta nhận ra ta.
Nghe hương gió sớm biết hoa đang tàn.
Vắng buồn mấy nẻo quan san.

Lầu xưa khuất cánh hạc vàng.
Lời thơ chiều vọng qua ngàn năm sau.
Cố nhân nay ở phương nào

TỰ NHIÊN

Đừng ai đến, đừng ai đi.
Để ta còn lại chút gì như không.
Giọt mùa tự nó mênh mông.

Có gì đâu phải bận lòng.
Lửa hương một giấc phiêu bồng cùng mây.
Buồn vui gì cũng vơi đầy.

Cõi ban sơ đâu tháng ngày.
Rừng hoang lá úa rơi đầy tịch liêu.
Hạt bụi nào cũng xế chiều

CÁT SỸ
Đoàn Thuận

MƠ MÀNG SÔNG NGÂN

Lưng trời lạc ánh sao rơi.
Ngờ như một phận người rời nhân gian.
Trăm năm đời tạm tuần hoàn.
Con đò duyên kiếp sang ngang ngại ngần.

Ngưu Lang Chức Nữ bâng khuâng.
Bên cầu Ô Thước sông Ngân, đôi bờ.
Mưa ngâu tháng bảy mộng mơ.
Trong màn mây nước mong chờ bên nhau.

Lìa trần về cõi ngàn sao.
Tình chung vẫn đượm sắc màu chia ly.
Mây Hàng một áng vân vi.
Ngân Hà nhấp nháy bờ mi sao trời.

Bàn chân người dẫm đường đời.
Đêm đen mắt ngóng sao dời đổi ngôi.
Nương thân cát bụi nổi trôi.
Nụ cười tiếng khóc ru nôi phong trần.

Mưa ngâu
rơi
lạnh sông Ngân.

CÁT SỸ

 

ĐƯỜNG ĐỜI

Đường đời đôi ngã ngược xuôi.
Vui tươi hạnh ngộ, ngậm ngùi phân ly.
Mênh mông hữu hạn biên thùy.
Người đời trọ giữa chu kỳ tử sinh.


ÁNH NGÀY

Bình mình đánh thức mặt trời.
Hừng đông soi sáng mộng đời nhân gian.
Đêm mờ đón ánh ngày sang.
Tối tăm u uẩn suy tàn một mai.

CÒN MẤT

Mùa màng nương rẫy ruộng vườn.
Theo thời mưa nắng gió sương mất còn.
Nắng hanh hạn hán héo hon.
Mưa dầm bão lũ xói mòn núi sông.

MÂY TRÔI

Mây trôi qua núi ngang trời.
Hương thời thơ ấu nay dời về đâu.
Ta đôi lần đứng bên cầu.
Nghĩ quanh con sóng bạc đầu vì đâu?

CÁT SỸ
Đoàn Thuận

 

MÊNH MANG

Tàn thu đưa lá sang đông.
Bão mênh mang rớt vào không gian đầy.
Đôi lần buốt lạnh trên tay.

Tình xưa hoá thạch tháng ngày.
Đường thôn bụi lấp dấu giày vắng không.
Ai ru sầu tận mênh mông.

NẾU NHƯ

Nếu người như hạt bụi kia.
Lắng nghe con dế bên rìa đồng hoang.
Gáy ru sầu buổi thu tàn.

Nếu người một kiếp lang thang.
Tựa như mây trắng nối hàng qua non.
Đôi khi che bóng trăng tròn.

Nếu người hoá thạch bên non.
Nàng Tô Thi khóc giữa còn mất xưa.
Đá mòn không, trước hạt mưa ?

Khi rừng
heo hút
lưa thưa.

CÁT SỸ

 

BỂ KHỔ

Đời như bể khổ mênh mông.
Sóng to gió lớn, mưa dông bão bùng.
Thiên nhiên khắc nghiệt lạnh lùng.
Thiên tai hạn hán cháy rừng băng tan.

Sóng thần địa chấn hoang tàn.
Triều dâng sạt lở bãi ngang động đầm.
Nông dân ngư phủ buồn thầm.
Làng chài xóm ruộng thăng trầm bể dâu.

Trước bao thảm họa địa cầu.
An sinh nhân loại dãi dầu đau thương.
Chiến tranh chính trị thị trường.
Gây bao tang tóc máu xương hận thù.

Lần theo cát bụi âm u.
Cúm sâu dịch tễ phiêu du lây truyền.
Tử vong thương tật ưu phiền.
Thứ dân tị nạn xa miền đất xưa.

Đa đoan tạo hóa trần thừa.
Niềm đau nỗi khổ như mưa lệ sầu.
Rơi dài biển rộng sông sâu.
Luân hồi trầm tịch về đâu kiếp này ?

Gò Vắp, 2021

 

KHOẢNG ĐỜI

Đường đời cao thấp chênh vênh.
Cỏ cây rừng núi thác ghềnh gió sương.
Người đời luồn lách ga truông.
Thăng trầm đắp đổi vui buồn trăm năm.

SẮC MÀU

Theo mùa sầu muộn trôi qua.
Hoa tàn hương nhạt, chiều tà đêm sang.
Xuân hồng đông xám thu vàng.
Sắc màu hoài niệm cùng làn sương bay.

ÂM XA

Ngập ngừng nhẹ bước đường đời.
Thầm nghe xa tiếng chim trời líu lo.
Bến xưa dù vắng con đò.
Vẫn còn êm dịu điệu hò lam thôn.

DỊU ÊM

Nỗi buồn đôi lúc dịu êm.
Giúp tâm an tịnh trong đêm sao mờ.
Tình đời, một thoáng mộng mơ.
Như sương nhỏ giọt xuống hồ nước trong.

CÁT SỸ

 

LỠ PHÀ

Lỡ phà qua bến nước xa.
Một tràng giang tím màu hoa lục bình.
Sắc bèo lẫn sắc rêu in.

Lối mòn đá sỏi lặng thinh.
Dấu giày dẫm cát một mình bóng ta.
Tìm nơi trọ dưới chiều tà.

LỠ ĐỘ

Người ngày cũ gặp lại ta.
Kề vai hồn vẫn cách xa dặm dài.
Tình cờ giữa buổi chiều phai.

Chuyện xưa quên lửng đâu hay.
Hoa xoan tím nhạt bao ngày vấn vương.
Lỡ gặp nhau, lỡ độ đường.

Xin người hãy mộng bình thường.
Dù hoa tàn nở, dù sương muối đầy.
Dù đời như một bóng mây.

GIỌT NƯỚC

Mưa rơi thêm nước sông đầy.
Cho ta thêm những bãi lầy lội qua.
Mùa trong giọt nước bao la.

CÁT SỸ
Đoàn Thuận

 

LƯU LY

Lưu Ly, hoa đẹp mang tên.
Hương theo gió thoảng bồng bềnh về đâu.
Bỏ quên đôi đóa phai màu.
Dù cùng tươi thắm dưới bầu trời xanh.

Bao đêm khuya lạnh sau mành.
Lá hoa thức ngủ yên lành trong sương.
Ngày lên nắng ấm muôn phương.
Đậm màu hoa dại, xanh tường rêu hoang.
Lưu cầu đời chẳng ly tan.
Sương mai hương sớm về ngàn phiêu diêu.

Giờ đây phường phố quạnh hiu.
Từng nhà giãn cách lắm điều đắng cay.
Người nghèo sống tạm qua ngày.
Người tàn hơi thở buông tay qua đời.

Lưu ly sinh tử, vậy thôi.

 
Gò Vắp, 2021

 

CHIẾC LÁ MÙA DỊCH

Ngoài hiên chiếc lá vàng rơi.
Chạm vào vách cũ, kẹt nơi khe tường.
Lá thầm nhìn xuống lề đường.
Rêu phong thềm gạch, bụi vương vĩa hè.

Hẻm dài lặng tĩnh vắng hoe.
Không ai qua lại đi về phố quen.
Cách ly, nhà cửa cài then.
Người như kẹt giữa ánh đèn âm u.

Gió chiều thu thổi vi vu.
Ru đưa chiếc lá bay vù xa khơi.
Lá đi bỏ lại bụi đời.
Lìa xa bóng dáng ma hời rình đêm.

Tử vong mùa dịch nhiều thêm.
”Ép không ép một” ép mềm xác thân.
Khắp nơi thấp thoáng tử thần.
Không tàn vì dịch, vì bần cùng thôi.

Lá nương theo áng mây trôi.
Dù vàng úa, vẫn về trời thênh thang.
Người chìm trong cảnh tóc tang.
Dù ly cách, vẫn lệ tràn thấm khăn.

Gò Vắp,2021

 

SỚM MAI BUỒN

Tịnh yên một sớm mai buồn.
Xa xôi văng vẳng tiếng chuông nhà thờ.
Hiên ngoài chim ngói bâng quơ
Để rơi tiếng hót xuống bờ cỏ xanh.

Vi vu gió thoảng âm thanh.
Chạm nhành liễu rũ cuối hành lang rêu.
Nghe như tiếng mõ nhịp đều.
Lời kinh tụng niệm, giọng thều thào run.

Dịch lây nhiễm khắp mọi vùng.
Tử vong nghèo đói muôn trùng khổ đau.
Người rời đất cũ nghẹn ngào.
Kẻ theo cát bụi lẫn vào thiên thu.

Lặng thầm nhang khói âm u.
Tại nhà kín cửa nơi khu phố phường.
Dân đen tủi phận lệ tuông.
Tiếng chuông nhịp mõ chia buồn cùng ai ?

Bến Cát,2021

 

ĐÊM MƯA LẠNH

Mưa đêm lành lạnh phố phường.
Vi vu tiếng gió hú buồn nơi xa.
Hẻm con cao thấp tầng nhà.
Vô tình che khuất bao la bầu trời.

Ngờ như vật đổi sao dời.
Thị trường nhộn nhịp đã rời phố quen.
Mưa bay mờ nhạt ánh đèn.
Âm u bóng tối cài then dòng đời.

Dưới mưa bùn đất rã rời.
Dân nghèo phận bạc bời bời xót đau.
Mưa buồn tuông giọt lệ trào.
Khi mùa covid lan mau mọi miền.

Lâm râm mưa rụng ngoài hiên.
Khe rêu đá cũ tịnh yên bên thềm.
Không người vắng lặng đường đêm.
Phố nhà phong tỏa,mưa thêm u hoài.

Gò Vắp, 2021

 

MƯA ĐỔ LỆ

Sài Gòn tầm tã mưa rơi.
Đường xe đại lộ nước trôi thành dòng.
Thản nhiên cuồn cuộn thong dong.
Tràn vào hè phố tịnh không bóng người.

Rì rào trên khóm hoa tươi.
Công viên im bặt tiếng cười bước chân.
Nhà hàng khách sạn cao tầng.
Hẻm con quán trọ xa gần lạnh tanh.

Ào ào mưa nhiễm dịch nhanh.
Từng nhà kín cửa, khắp thành cách ly.
Người nghèo đói, chẳng còn gì.
Dầm mưa rời khỏi kinh kỳ về quê.

Âm mưa buồn rụng lê thê.
Nghe như đổ lệ tái tê cõi lòng.
Đưa người về bến tĩnh không.
Nỗi niềm ly biệt theo bồng bềnh mây.

Gò Vắp, 2021

 

NỖI  ĐẮNG CAY

Im lìm hẻm nhỏ sớm mai.
Không ai qua lại, chẳng ai rao hàng.
Chỉ sương mờ bóng hành lang.
Đôi con chim sẻ nhẹ nhàng bay đi.

Xóm nghèo khép cửa thầm thì.
”Ở đâu ở đó”, cách ly tại nhà.
Nhìn chim thẳng cánh bay xa.
Sương mai dưới nắng hơi phà theo mây.

Sao đời lắm nỗi đắng cay.
Tang thương vì dịch, phanh thây vì nghèo.
Số phần sợi chỉ mành treo.
Lương dân như thể bọt bèo trôi sông.

Chim trời vào cõi mênh mông.
Người nay quanh quẩn trong lồng nhà ngang.
Bốn phương Đại Dịch lan tràn.
Quê hương lâm cảnh tóc tang đau buồn.

Gò Vắp, 2021

 

CÕI TẠM

Đời như Cõi Tạm mê mờ.
Người qua ở trọ bến bờ tử sinh.
Kẻ theo cát bụi phiêu linh.
Giữa lòng vạn hữu mộng tình vấn vương.

Bờ mê Con Đỏ cười buồn
Dân Đen bến giác thác nguồn bể dâu.
Tóc tơ trắng lụn mái đầu.
Xuân xanh mai một lưu cầu một mai.

Niệm thầm nhẹ bước tuyền đài.
Dù đời huyễn hoặc hình hài kiếp sau.
Dù cho covid dịch Tàu.
Lây lan khắp chốn một màu thê lương.

Dân nghèo ngụ lại quê hương.
Kẻ đi kiếm sống tha phương cuối trời.
Người rời cõi tạm qua đời.
Trầm hương nhang khói thay lời biệt ly.

Thảo Điền, 2021

 

TRẦM HƯƠNG.

Khói nhang hỏa táng nhẹ bay.
Đưa người rời khỏi bùn lầy nhân gian.
Nơi nao thiên lý địa đàng.
Còn đây bia đá nghĩa trang mộ phần.

Mưa trời đổ lệ lương dân.
Thả trên cát bụi, trên thân phận buồn.
Lìa đời tâm tịnh bỏ buông.
Bờ mê bến lú suối nguồn đục trong.

Trăm năm sinh tử xuôi dòng.
Chưa cần chiếu đất, chưa mong màn trời.
Nhưng vì dịch nhiễm, qua đời.
Giã từ cõi tạm, chia phôi đường trần.

Tha phương lữ khách dừng chân.
Đâu hay nước mắt tự ngần ngại rơi.
Trầm hương theo gió chơi vơi.
Tiễn đưa hồn phách về trời phiêu du.

Gò Vắp, 2021

 

NGHĨA TÌNH QUÊ MẸ

Nhà xưa đã bị di dời.
Cha vào cõi hạc bên trời vắng xa.
Lại thêm khuất bóng mẹ già,
Khuất vườn rau cải, mái nhà bên sông.

Xuôi dân lưu lạc phiêu bồng,
du cư kiếm sống long đong xứ người,
xa xôi bông cải xinh tươi,
đôi tay gầy guộc, nụ cười hiền xưa.

Dù đời dầu dãi nắng mưa,
tình làng nghĩa xóm vẫn chưa phai mờ.
Bên nôi vẫn tiếng ầu ơ,
ru câu lục bát ngày thơ ấu buồn.

Dịch giờ nhiễm khắp thị trường.
Bao người thất nghiệp tìm đường về quê.
Thân nghèo kiếp sống não nề.
Ăn nhờ ở đậu trên quê hương mình.

Đâu còn điều kiện mưu sinh.
Chỉ còn nước mắt nghĩa tình sẻ chia.

Gò Vắp,2021

 

VỀ QUÊ LÁNH DỊCH

Đoàn người áo vải thô sơ.
Bị mang túi xách xe thồ về quê.
Gió tung cát bụi bốn bề.
Ngày đi đêm thức bên lề đường xa.

Ngày nao rời đất quê nhà.
Con thơ gửi lại mẹ già dưỡng nuôi.
Vô Nam tần tảo ngược xuôi.
Tạm cư ở trọ buồn vui âm thầm.

Tha phương cuộc sống thăng trầm.
Kiếp nghèo như hạt bụi lầm bến mê.
Không nghề thiếu vốn, làm thuê.
Muộn phiền tủi phận não nề đau thương.

Nay làn covid Bắc phương.
Nhiễm lây người chết, ngăn đường tiến lui.
Bao người chia sẻ ngọt bùi.
Cũng đành từ giã ngậm ngùi hồi hương.

Thủ Đức,2021

CUNG BẬC BUỒN

Ngưới về cát bụi thêm đông.
Bỏ buông phận bạc xuống dòng thời gian.
Thả trôi bao nỗi phũ phàng.
Bay qua thiên đỉnh địa đàng bể dâu.

Còn đây tang tóc u sầu.
Dịch dòng âm phủ vào bầu dương gian.
Luồn theo dịch, lũ bạo tàn.
Ngăn nguồn sinh sống, nghèo nàn ly tan.

Dân Ngoài thất nghiệp lang thang
Ăn bờ ngủ bụi dặm ngàn gió sương.
Dân Trong trụ lại phố phường.
Từng nhà giãn cách, thiếu lương thực dùng.

Bao người lặng lẽ lâm chung.
Biệt ly, giọt lệ rơi cung bậc buồn.

Thảo Điền,2021

LỜI NIỆM BUỒN

Nhà thờ buông thả giọt chuông.
Ngưới về cát bụi, phố phường lặng thinh.
Xa đưa tiếng mõ tụng kinh.
U trầm niệm tưởng bóng hình phiêu du.

Sương pha phả lạnh trời mù.
Hoa tàn hương nhạt giã từ đất xưa.
Mùa trôi ngày tháng nắng mưa.
Người đi dưới bóng bụi thừa chơi vơi.

Vô thường sinh tử ở đời.
Sao nay covid đùa chơi phận người.
Alpha kéo lệch môi cười.
Delta biến thể để mười phương đau.

Hà Nội lây nhiễm dịch Tàu.
Sài Thành phong tỏa một màu bi thương.
Lời kinh nhịp mõ niệm buồn.
Đưa người về cõi ngọn nguồn thiên thu.

Thảo Điền,2021

HOA LỆ

Xa rồi Hoa Lệ Sài Gòn.
Sau ngày giải phóng chỉ còn “lệ hoa”.
Hoa mừng thống nhất sơn hà.
Lệ buồn thấm đất quê nhà Miền Nam.

Hoa đầy hội nghị tọa đàm.
Hoa tràn biệt phủ, cung hàm đại quan.
Hoa từ ngà ngọc son vàng.
Vinh hoa phú quí, hân hoan uy quyền.

Lệ sầu đau phận Dân hiền.
Di cư di tản muộn phiền xa quê.
Nhà xưa đất cũ đi về.
Thầm trong nỗi nhớ não nề tang thương.

Nay thêm Covid Bắc Phương.
Lây lan nhiễm dịch, phố phường cách ly.
Dân Đen nghèo khổ sầu bi.
Người vào cát bụi, kẻ đi xa vời.

Phồn hoa tráng lệ một thời.
Nay như “hoa khói” “lệ đời”
bỏ
buông.

Thảo Điền,2021
Đoàn Thuận

 

BỤI THỪA

Corona khắp địa cầu.
Đột nhiên vào Mỹ gieo sầu muôn dân.
Mầm lây Covid lan dần
Alpha Châu Mỹ vượt tầng không gian.

Châu Âu bùng phát lan tràn.
Dịch lây người chết bất an nghìn trùng.
Châu Phi, Châu Á, Úc, Trung.
Tử vong ca nhiễm mọi vùng gia tăng.

Delta Ấn Độ sông Hằng.
Biến thiên khắp cõi địa tằng bể dâu.
Lương Dân lánh dịch Năm Châu.
Du cư sơ tán dãi dầu nắng mưa.

Kiếp nghèo như hạt bụi thừa.
Nương theo sương khói, gió đưa qua đời.
Hương nhang phả mặt ma hời.
Mồ hoang thấm ướt lệ trời phiêu linh.

Thảo Điền,2021
Đoàn Thuận

 

KẺ TỰ HÀO
NGƯỜI ĐỚN ĐAU.

Siêu Covid 19
lây lan từ Bắc Phương.
Nhưng y tế Hải Dương
vô Sài Gòn “chống dịch”.

Đi chuyên cơ thanh lịch.
Ở khách sạn năm sao.
Lơ lớ giọng Ba Tàu.
Hô hào “như chống giặc”.

Covid hay dịch tặc
gây nhiễm dịch tử vong.
Phong tỏa toàn cộng đồng.
Thành phố mang tên Bác.

Công an cùng cảnh sát.
Ngăn giao dịch giao thông.
Cấm chợ nhỏ hàng rong.
Dân Đen thêm khốn khó.

Người tạm cư ở trọ,
từng kiếm sống tha phương,
nay “Bắc tiến” hồi hương.
về quê xưa đất cũ.

Cùng Bắc Phương xuất xứ.
Kẻ vào Nam tự hào.
Người về Bắc đớn đau.
Khi Đại Dịch “biến thể”.

Thảo Điền, 2021
Đoàn Thuận

 

“CHỐNG DỊCH
như CHỐNG GIẶC”

“Chống dịch như chống giặc”.
Đoàn tình nguyện Hải Dương.
lên chuyên cơ bất thường,
vào thành Hồ “chống dịch”.

Ở khách sạn du lịch,
nhìn đại dịch lan mau,
giơ tay cao tự hào
giãn cách để “chống giặc”.

Covid như dịch tặc
”giãy chết” ở Bắc Giang.
Lê Ánh Dương hân hoan
tưởng “tư bản giãy chết”.

Miền Nam nay nhiều “Chệt”
”Tư bản Đỏ” “nội xâm”.
Đoàn Hải Dương quyết tâm:
”chống giặc” đến “giãy chết”.

Lên đường từ vùng Chệt.
Với lọ Sinopharm.
Vào “chi viện Miền Nam”.
Khi dịch lây dữ dội.

Phong tỏa toàn xã hội.
Cách ly từng gia đình.
Từ Phố Hồ Chí Minh.
Trên vạn người “Bắc tiến”.

Nhưng không phải chi viện.
Bị mất việc, đói nghèo.
Về quê xin ăn theo.
Tránh “Đại Dịch biến thể”.

Thảo Điền, 2021
Đoàn Thuận.

 

NHƯ CÁT BỤI.

Từng ngày Đại Dịch lan mau.
Tử vong ca nhiễm tăng cao mọi miền.
Lương dân nghèo khổ muộn phiền.
Giảm nguồn vui sống, thiếu quyền làm ăn.

Tử sinh một lẽ thường hằng.
Trời làm bão lũ tan băng cháy rừng.
Bạo quyền tăng trưởng không ngưng.
Thêm bầy dịch tặc chống lưng tung hoành.

Dân đen rời mảnh đất lành.
Di cư như thể lữ hành phiêu du.
Gió sương cát bụi mịt mù
Lần mò về cõi thiên thu vĩnh hằng.

Thủ Thiêm,2021
Đoàn Thuận

 

LƯƠNG DÂN
qua mùa Covid.

Khoảng trời mây trắng trên cao.
Vi vu gió lạnh thổi bao nỗi niềm.
Vườn hoa vắng lặng tiếng chim.
Hàng rong chợ nhỏ im lìm lời rao.

Cách ly phong tỏa chắn rào.
Chặn dòng Covid chuyển màu lan nhanh.
Đường đời xuôi ngược lạnh tanh.
Khiến cho cuộc sống dân lành khó khăn.

Vùng khoanh chợ cấm sông ngăn.
Nhưng người nhiễm dịch số tăng cao dần.
Bao người nằm dưới mộ phần.
Bao người nằm bệnh bần thần sầu bi.

Dalta dịch chẳng biên thùy.
Âm thầm biến thể lan đi mọi miền.
Lương dân khốn khó triền miên.
Tìm đâu giây phút an nhiên ở đời.

Thảo Điền, 2021
Đoàn Thuận

 

NỖI ĐAU
trước mùa Covid

Phố ngoài xóm chợ cách ly.
Công viên phong tỏa hoa quì dưới sương.
Bóng người thưa thớt trên đường.
Khẩu trang mặt nạ lạ thường, ai quen ?

Nhà bên khép cửa cài then.
Đôi lời hát nhỏ thầm chèn qua song.
Nhiều nơi giãn cách cộng đồng.
Ngại ngần Covid chơi rong ngang đời.

Delta biến thể khắp nơi.
Khăn tang hỏa táng khói trời như mây.
Mộ phần cát bụi phủ đầy.
Hồn xiêu phách lạc chốn này cõi kia.

Chỉ còn đôi tấm mộ bia.
Ghi tên khắc tuổi người chia ly người.
Lệ rơi tắt lịm nụ cười.
Lòng đau đâu thể theo mười phương buông.

Thảo Điền,2021
Đoàn Thuận

 

LẠNH BUỒN.

Lặng yên xóm mạc vào đêm.
Bóng chiều mờ nhạt bên thềm gạch rêu.
Đốm hồng từng giọt nhẹ hều.
Lóe lên ánh sáng như khêu bếp tàn.

Sa mù bến nước sang ngang.
Con đò neo lạnh dưới hàng liễu dương.
Dòng sông mờ ảo gió sương.
Trôi đưa bèo bọt về phương trời nào.

Chân trời rơi một vì sao.
Như rơi số phận người vào thinh không.
Giữa mùa giãn cách cộng đồng.
Trong thời Đại Dịch tỏa phong cõi người.

Núi rừng đâu mãi xanh tươi.
Con người lịm tắt nụ cười hồn nhiên.
Lẽ nào u uất muộn phiền.
Xóa tan ước vọng bình yên ở đời !

Trời cao buông giọt sương rơi.
Bốn phương tám hướng chơi vơi lạnh buồn.

Tân Nhơn Phú,2021
Đoàn Thuận

 

VỀ GIÀ

Ta già tóc bạc răng long.
Thân gầy phận mỏng, lưng còng lom khom.
Môi khô móm xọm miệng mồm.
Chỉ tâm an tịnh, trí còm tỉnh thông.

TỰ TA

Đôi lần ta nhận ra ta.
Buồn đau thuở nọ đã xa lắc rồi.
Còn đây niềm mọn bồi hồi.
Thầm thương nhớ Mẹ một thời thôi nôi.

THẦM MƠ

Thầm mơ một cõi xa xăm.
Hoang vu tĩnh mạc lặng câm thác ghềnh.
Hương mùa dịu lắng không tên.
Nương theo mây trắng lênh đênh cuối trời.

Hạnh Thông Tây,2021

 

CHIỀU BUỒN
giữa mùa COVID

Chiều phai nắng lạnh dòng sông.
Con thuyền gác mái bềnh bồng nhẹ trôi.
Đàn chim về tổ ngang đồi.
Sao như tịnh lắng khúc nôi “niệm trầm”:

Đời người một khoảng trăm năm.
Mênh mông chỉ một chỗ nằm một mai.
Muôn mùa một giấc mơ phai.
Hương hoa một khắc buông ngoài nhân gian.

Vì đâu Covid vội sang.
Cho bao số phận tách ngang bến đời ?
Khăn tang hàng triệu về trời.
Còn bao thân xác cầm hơi từng ngày.

Chân trời mờ ảo bóng mây .
Nhà thôn phong tỏa, sương bay bốn bề.
Đò ngang giãn cách bến mê.
Bờ xa liễu rũ lê thê chiều buồn.

Cát Lái, 2021
Đoàn Thuận

 

Đôi điều về DỊCH COVID

Corona ở đâu ra.
Gieo mùa Covid gần xa đất trời.
Tóc tang phiền muộn bồi hồi.
Phận người, cát bụi sẽ dời về đâu ?

Buồn đau trước cảnh bể dâu.
Lời than thay tiếng nguyện cầu an nhiên.
Mộ phần bốn triệu dân hiền.
Lây lan trăm triệu, mọi miềm cách ly.

Lệ rơi vô hạn biên thùy.
Năm châu bốn biển sầu bi ngất trời.
Kiếp nghèo phận mỏng chơi vơi.
Kẻ giàu quyền thế cũng tơi tả đời.

Covid 19 lên ngôi.
Toàn quyền biến đổi sân chơi cõi người.
Sinh bầy chính trị đười ươi.
Dịch như giặc cướp nụ cười héo hon.

Thảo Điền, 2021
Đoàn Thuận.

 

LẶNG THẦM

Vệt trầu đỏ xuống tháng năm.
Mẹ đi bỏ lại lặng thầm phía con.
Lửa buồn lay lắt bên non.

RU ĐỜI

Biển ru tiếng sóng vô bờ.
Gió ru lau sậy dật dờ liễu dương.
Mây chiều ru lạnh hồ sương.

Ta ru hoa cỏ về nguồn.
Ai ru chiều một khúc buồn vào thơ.
Bao điều ngây dại mộng mơ.

THOÁNG NGHĨ

Ta đâu khác hạt bụi nâu.
Lăn dài vào cõi thẳm sâu tháng ngày.
Buồn vui khốn khó quắt quay.

CÁT SỸ

ÁNH SAO

Hoàng hôn khép cửa núi đồi.
Sao đêm nhấp nháy ru hời Sông Ngân.
Ngưu Lang Chức Nữ đôi lần.
Ngại cầu Ô Thước mờ dần ánh sao.

SAO CHỔI

Trên cao Sao Chổi soi mây.
Dưới đời thác lũ quét cây lá rừng.
Bao hoa cỏ dạt vào bưng.
Rong rêu đá cuội theo từng dòng trôi.

SAO RƠI

Lưng trời ánh giọt sao rơi.
Ngờ như phận bạc vừa rời nhân gian.
Sao thay hạt lệ địa đàng
Chia buồn vạn hữu mây Hàng phiêu linh.

Mùa dịch 2021
Đoàn Thuận

 

NHẠC CHIỀU

Như rơi trong một thoáng hương
Trong hoa tàn, một thoáng buồn chiều phai.
Nghe trong bóng liễu dặm dài.
Giọt âm thanh đọng quan hoài cung xưa.

Người ngồi tựa gối hiên mưa.
Nghĩ trong thinh lặng ngày xưa ở đời.
Nghiêng hồn lắng giọt chiều rơi.
Khúc ly biệt ấy không lời còn đây.

TIẾNG ẾCH ĐÊM MƯA

Khi rừng đêm dứt tiếng mưa,
Những con ếch vắng vội lùa lạnh sang.
Tiếng buồn khuya vỡ trên ngàn.
Chạm lên vách cũ rêu vàng đã lâu.

Tưởng trong lòng giếng hoang sâu.
Một viên cuội rớt xuống màu thời gian.
.

CÁT SỸ

 

BẾN CŨ

Biệt ly bến cũ bờ xưa.
Thuyền lưu giọt lệ chiều mưa thôn nghèo.
Cánh bèo mang lá vàng theo.
Sông mùa nước nổi, trời heo hút buồn.

PHIÊU DIÊU

Mây bay mưa rụng xuống chiều.
Đôi nhành huệ trắng tiêu điều lá hoa.
Mong manh hương phấn nhạt nhòa.
Lẩn vào sương gió la đà phiêu diêu.

THƯ PHAI

Trang thư dòng chữ mực màu.
Mùa pha trắng giấy, bụi nhàu vàng phai.
Lời xưa ý cũ ngắn dài.
Vẫn trong tâm thức dù ngày tháng trôi.

CÁT SỸ

 

LẠC  BƯỚC

Đường vui theo tuổi xuân đi
Sắc hương cát bụi lỡ thì dưới trăng
Dạo chơi, lạc bước đôi đằng

HẠT SƯƠNG

Tháng ngày chuyển nhựa vào hoa.
Tàn phai lẩn lút giữa ta và người.
Đi về dưới lớp bụi rơi.

Không dưng xa thẳm chân trời.
Giọt mùa theo gió mây dời về đây.
Hoa rơi hay hạt sương bay.

Hạt sương chiều ngỡ như mây.
Niềm vui đời lỡ nhuốm đầy thương đau.
Một ta lầm lũi về sau.

CÁT SỸ

 

ĐÊM LẠNH

Đêm khuya lạnh buốt non ngàn.
Trăng mờ bếp củi lửa tàn tro phai.
Cung đàn nhịp gõ âm dài.
Thanh trầm khoản lặng, u hoài lắng sâu.

LỬA BÊN RỪNG

Ở đâu một cõi vô hình.
Ở đâu một cõi lặng thinh chân ngày.
Mẹ xa có nhẹ cánh mây.
Có quên được những tháng ngày gió mưa.

Quê này tiếng sóng đong đưa.
Nghe như điều hát ru xưa bao lần.
Để khi chiều xuống bâng khuâng.
Lời ru trong nỗi nhớ gần nhớ xa.

Cõi đời này Mẹ đã qua.
Tóc tơ trắng cát bụi nhòa sau lưng.
Con đêm nhóm lửa bên rừng.
Còn nghe lạnh lẽo lưng chừng núi non.

CÁT SỸ

 

NHƯ SƯƠNG

Phụ ta sao người lại buồn.
Ảo mờ phố huyện, lạnh nguồn mây giăng.
Người ơi, xin chớ băn khoăn.
Đường đời huyễn hoặc cầm bằng như sương.

TƠ VÀNG

Khi người bẻ nửa vần thơ.
Ta về ném hết vào bờ thời gian.
Bao đêm thức dưới trăng làng.
Thương con tằm nhả tơ vàng bến ngâu.

ĐÃ XA

Người như đùa với trăm năm.
Như không biết nỗi thăng trầm âm ba.
Mộng ngày trước đã rất xa.
Đường xưa lối cũ ta qua một mình.

CÁT SỸ

 

ĐÊM MƯA KHÔNG LỜI

Mưa ở đây, mưa phương nào
nghĩ như điệu hát chạm vào thiên thu
từ trong quãng lặng mịt mù.

Lá khô rụng để vàng thu
từng hạt mưa, từng hạt mù sương, bay
trong hoang vu chẳng tháng ngày.

Mưa bên song, mưa hiên ngoài
cũng là một giọt lệ dài đã rơi
từ bên kia của nụ cười.

Mi đêm khép giấc mộng người
nhịp mùa gõ lạnh một thời thôi nôi
vết lăn về cuối chân trời.

Mùa nghiêng mưa xuống hồ đời
tôi nghiêng hồn xuống chơi vơi nỗi niềm
núi ngàn năm đứng lặng im.

Lửa người ru giấc mưa đêm
không lời.

CÁT SY
[Đoàn Thuận]

 

CHIỀU MUỘN

Ta ngồi dưới mái nhà xưa.
Ngoài kia chiều muộn đã thưa nắng rồi.
Nồm xa thổi lạnh qua đồi.
Những con chim nhỏ đã thôi gọi bầy.

Mênh mang một ánh lửa chài
Ru con sông ngủ giấc dài về khơi.
Ta còn em giữa cuộc đời.
Em còn ta nợ một lời ước mơ.

CHIỀU YÊN

Trời chiều thắp lửa trên non
Người đi khuất nẻo, trăng còn xa mơ.
Ai qua cồn cát đợi chờ.
Khúc Nghê Thường lắng xuống bờ thinh không.

Tình xanh lá thắm xuôi dòng.
Em và ta bước thong dong đôi miền
Đưa nhau về bến yên nhiên.
Hoa mùa đất mẹ tỏa triền miên hương

CÁT SỸ

Tôi chân thành cám ơn quí Thân Hữu đã mừng sinh nhật của giáo già này.                              .
     Nhiều Thân Hữu hỏi thăm về cuộc sống hưu trí của tôi .
Hiện nay, tôi đang tá túc nhà con trai út ở Gò Vấp, sống an nhàn, không bị bệnh nan y, chỉ già yếu, lương hưu để dành in vài trang tùy bút tặng thân hữu đọc chơi. Tôi chỉ quanh quẩn trong nhà, vì sự hiện diện của tôi có thể gây phiền phức cho người khác. Vài người coi tôi như cây gai trước mắt, tìm cách gạt tôi ra khỏi đường đời. Tôi đã từng bị mắng nhiếc hảm hại, bị vu khống đôi điều khủng khiếp, tưởng đã chết. Tôi chỉ biết lui vào gốc khuất để nhận ra mọi lẽ ở đời.                      .
.      Khi rời khỏi trường Cấp 3 Hàm Tân, tôi tự nghĩ tôi như cây sậy trước những mùa gió. Gió Nồm thổi qua, Gió Bấc thổi lại, sậy rạp xuống cỏ non. Đôi khi, vài con thú rình theo mùa Gió Chướng gặm sậy gần tàn tạ,nhưng sậy vẫn trổ bông trắng giữa đất trời. Tôi ghi vội đôi điều trên trang Đời Sậy dưới đây.
        Kính chúc quí Thân Hữu yên vui.

.
ĐỜI SẬY

Cứ ngỡ tôi như cây sậy bên sông
xuống trần thế nở chơi một mùa bông,
đùa vui cùng gió bão,
để xem đời có thực hay không .

Có khi chưa đến mùa hoa,
dòng sông dài bỏ bến về xa,
gió thổi rạp cành non xuống cỏ,
tôi nhận ra loài cỏ cũng thơm hoa.

Nước sông trôi tưởng đâu không về,
bão dữ dồn tôi vào chân đê,
thế mới hiểu nước mong về nguồn cũ,
sông dại khờ bồi lở những bến mê.

Tôi níu đất, ngẩng lên trời, hát với sông,
cùng muôn hoa làm bạn với mênh mông,
dù loài thú gặm tôi gần tàn tạ,
giữa đất trời nở trắng những mùa bông.

La Gi, 1993
Đoàn Thuận

 

LANG THANG

Lang thang lưu lạc đôi miền
Đâu nơi đất trọ yên nhiên qua mùa
Nương theo cát bụi gió lùa.

Bão giông sương giá nắng mưa
Cô đơn trước bóng, thẹn thùa bên hoa
Bơ vơ giữa cõi ta bà.

RONG CHƠI

Đường dài mê mải rong chơi.
Lơ mơ như thể chẳng trôi tháng ngày.
Chợt nghe cát bụi vai đầy.

NGHÊU NGAO

Theo dòng trôi cuộc đổi dời
Bến bờ sạt lở núi đồi hoang vu
Tóc xanh phả bóng sương mù.

Xin làm một kẻ khờ ngu
Nghêu ngao buông mấy lời ru phố buồn
Thả theo cánh gió muôn phương.

CÁT SỸ
Đoàn Thuận

 

ƯỚC HẸN

Người đi ước hẹn một chiều.
Mùa thu biếc phủ lên điều tưởng yên.
Ở đâu neo bóng con thuyền.
Ngờ như trăng vỡ một miền cỏ lau.

Người đi ước hẹn mùa sau.
Ta chiều phiêu lãng nhớ màu mắt xưa.

TỰ KHUYÊN 

Thôi đừng tiếc nuối chi nhiều.
Bao mùa sách vở đã phiêu du rồi.
Khuya đầy sương phố chơi vơi.
Lời xưa ước cũ một thời đã qua.

Cuối trời tháng hạ mưa sa.
Con đường phượng nhỏ một ta xa dần.

Đoàn Thuận

 

XA XỨ

Cuối đời xa xứ ra đi.
Hồn thiêng đất mẹ đạo nghì trên lưng.
Buồn vui thả gió qua rừng.

Giờ nơi phố lạ người dưng.
Bạc phơ mái tóc chưa ngừng lãng du.
Lần mò về cõi thiên thu.

RA ĐI

Ra đi từ cõi vô cùng.
Lên đường từ nẻo mịt mùng cỏ hoa.
Lẫn trong sương khói ta bà.

NHỚ QUÊ.

Bao năm lưu lạc xứ người.
Vẫn thầm lặng nhớ nụ cười nhà quê.
Hồn nhiên chất phác mụ mê.

Vẫn mong có một ngày về.
Dù đời bầm dập não nề đau thương.
Nhớ em nhớ mẹ lại buồn.

CÁT SỸ
[Đoàn Thuận]

 

NHỚ NGƯỜI GIEO HẠT.

Người từng gieo hạt mùa sau.

Nơi hoang vu đất, giữa màu hoa phai.
Trên trang vở, giấc mơ dài.
Bên đồi nhóm lửa, bếp ngày đèn đêm.

COURS PASCAL.

Pascal, lớp học tráng niên,
Trường tư Quảng Đức, cõi thiền từ bi.
Học hành, tu tập, luyện thi.
Tịnh tâm nguyện ước La Gi an bình..

KHÔNG LỜI

Trường xưa đổi hiệu thay đời.
Bảng đen phấn trắng không lời biệt ly.
Bút nghiên một thuở xuân thì
Nay như bụi phủ đóa quì tàn phai.

MÂY HÀNG

Mây Hàng lơ lửng về đâu.
Thuyền nan neo bến giang đầu đêm khơi.
Tiếng tiêu buồn vọng chơi vơi.
Xa quê du tử cuối đời tha phương..

La Gi, 2004
Đoàn Thuận

 

MÁI XƯA và TÔI

Hoa nở tôi ra đi.
Hoa tàn tôi quay về.
Thoang thoảng hương quê dấu giày lấp.

Đường đời qua cao thấp.
Cát bụi pha sương mù.
Một thuở phiêu du dưới nắng mưa.

Hưu trí nơi mái xưa.
Ngói đỏ nền rêu biếc.
Bên hoa nhật nguyệt cõi yên hàn.

HƯƠNG TRỜI

Hoa tàn hoa tự nở
Mùa đi mùa tự về
Hương trời phiêu lãng bao bến mê

La Gi,2003
Đoàn Thuận

 

LỚP CŨ TRƯỜNG XƯA.

Giã từ lớp cũ trường xưa.
Giã từ đất mẹ nắng mưa bao ngày.
Giã từ đường phượng hoa bay.
Hương nhu thơm thảo tóc mây một thời.

Tản cư lớp học lên đồi,
trong rừng Sao Cháy, bên trời núi non.
I tờ chữ viết bé con,
đưa tôi lần bước dặm mòn bút nghiên.

Năm tư, rời khỏi bưng biền.
Lớp qua Láng Đá rừng thiêng Dinh Thầy.
Lớp theo trâu cặp trâu bày.
Học hành giữa chốn cỏ cây ruộng vườn.

Sau thời phiêu bạt tha phương,
hồi hương dạy học nơi trường Bình Tuy.
Vinh Tân Quảng Đức La Gi
giúp tôi tịnh dưỡng đạo nghì cha ông.

Rồi khi thống nhất non sông.
Cấp 3 Trung học Phổ thông thay dòng.
Từ trường Nguyễn Huệ Bán công,
về hưu tôi lại buồn lòng xa quê.

Thủ Đức, 2004
Đoàn Thuận

 

ĐÊM MƯA ĐỌC SÁCH

Bao lần đọc sách đêm mưa.
Củi nhen ánh lửa bếp xưa quê nghèo.
Trăng treo mờ ảo lưng đèo.
Đâu soi thấu nỗi buồn heo hút đời.

ĐỌC THƠ ĐƯỜNG

Đâu rồi “khúc hậu đình hoa”
Và đâu hoàng hạc bay qua cõi người.
Nỗi niềm xưa tự lên ngôi.
Để hồn thơ cổ đọng nơi bóng chiều

 

ĐỌC TỲ BÀ HÀNH

Dòng xưa thu vắng đìu hiu
Lãng du khách thả một phiêu bồng thuyền.
Giọt đàn đọng giọt trăng nghiêng.
Nghìn năm sau tưởng giọt phiền muộn rơi.

MỘT THOÁNG ĐƯỜNG THI

Người đi trong bóng mưa bay.
Thoáng Đường thi cũ, thoáng mây vào hồn.
Ai về cõi hạnh hoa thôn.
Dừng chân đây giữa hoàng hôn lạnh đầy.

La Gi,1975
CÁT SỸ

 

VÀNG BƯỚM

Đường đời xuôi ngược đã qua.
Bến xuân sông vắng cỏ hoa dại đầy.
Ánh trăng nghiêng lạnh hàng cây.
Gió mùa bấc thổi buồn lay lắt thuyền.

Bao ngày sách vở bút nghiên.
Bao mùa phượng vĩ rơi nghiêng khung trời.
Sân hoa sứ rụng chơi vơi.
Hoàng hôn sương phố ru đời vào mơ.

Từng trang lưu bút ngây thơ
Ghi mùa vàng bướm bên bờ đường quê.
Trường xưa lớp cũ đi về.
Nay, im tiếng trống tiếng ve cung đàn.

Thầy cô cách mấy quan san.
Bạn bè xa vắng bàng hoàng nhớ mong.
Mái trường bụi phả sương phong.
Con đường phượng cũ tịnh không tiếng cười.

La Gi,1975
CÁT SỸ

 

TRANG NHẬT KÝ

Một trang nhật ký không ngày.
Trên cánh én mỏng đã bay ngang mùa.
Trên màu sắc tím hoa mua.
Trên vô cùng ngọn sóng đùa bãi dâu.

TẤM MO CAU

Đôi dòng trên tấm mo cau.
Mục đồng khờ khạo ghi bao nỗi niềm.
Từng mùa lưu dấu hoa sim.
Bóng lau bên suối, cánh chim lưng trời.

BÓNG ÁO DÀI

Nữ sinh cặp sách áo dài
Vì đâu khuất bóng đường ngoài trường xưa?
Nhớ thời đi học sớm trưa.
Áo em trắng lắng hương thừa tóc mây.

MỜ ĐỐM LỬA

Hạ sang rớt giọt mưa nguồn.
Gieo câu lục bát, ru buồn nhân gian.
Mờ xa đốm lửa trên ngàn.
Giọt sương cõi tục đã tràn mắt đêm.

CAT SỸ

HẠ TÀN

Phố ngoài, đường phượng chia đôi.
Sân rêu lớp cũ để rơi giọt chiều.
Những trang sách đã cô liêu.
Chợt nghe trong trúc hiu hiu hạ tàn.

Chưa qua, chiều đã trăng vàng
Sương giăng mờ những dặm ngàn thôn xa.
Thời gian đi qua đi qua.
Rụng rơi từng cánh phượng và tuổi xuân.

HẠ CUỐI

Khi ngày hạ đã cuối mùa.
Đường về xóm học chợt thưa bóng người.
Ánh đèn trọ tắt đêm vui.
Mấy khung cửa khép, tiếng cười lặng yên.

Hoa tàn hoa nở một miền.
Ai quên ai nhớ bao phiền muộn kia.
Bờ vui bến lạ đã chia.
Người đi xa khuất, ta khuya khoắt buồn

La Gi,1974
CÁT SỸ

 

MỘT BUỔI HỌC TỐI

Trò xưa học dưới sao đêm.
Tưởng như còn đó bên thềm trăng non.
Ở đâu mười sáu trăng tròn.
Mùa thi vội đến, trăng còn chơi xa.

Ngại khi xế bóng trăng tà,
Những đêm thức với canh ba chong đèn.
Ngày đi kèm trẻ phố quen,
Đêm về nhóm lửa cài then học bài.

Người xưa, nay đâu còn ai.
Bên đời heo hút dấu hài rêu phong.
Một tôi ngồi giữa mênh mông,
Những trang sách mở theo dòng thời gian.

Câu văn chữ nghĩa ẩn tàng.
Từ nền văn hiến bốn ngàn năm dư.
Giúp tôi, một kẻ khờ ngu.
Lần tìm ra lẽ thực hư cõi đời.

CÁT SỸ

 

VỀ PHỐ CŨ

Ta về, người đã đi lâu.
Nghe hoang phế phố, nghe lầu vắng không.
Nghe buồn cứ thế mênh mông,
Nghe khuya thấm lạnh vào trong chỗ ngồi.

BỎ LẠI SAU LƯNG

Về nương náu xóm bên cầu.
Bỏ sau lưng tiếng hạc lầu hoàng hoa.
Dặm đường đã dẫm chân qua.
Bến thuyền lau trắng, sân ga vắng người.

NƠI VƯỜN CŨ

Ta còn khóm trúc bên tường.
Thoáng rêu xanh phủ dưới sương đêm mờ.
Trăng tàn trong nửa vần thơ.
Nửa kia để nhớ bến bờ đã qua.

Ở QUÊ NHÀ

Biển ru dương liễu đôi bờ
Sông ru lau lách trăng mơ màng thuyền.
Đời ru người mộng bình yên.
Ta ru ta những đêm huyền thoại xưa.

CÁT SỸ

 

TRƯỜNG TẢN CƯ

Về đây trong bóng thu mưa.
Bên rừng núi cũ, lưa thưa xóm nhà.
Ngôi trường như khuất vào xa.
Vách cây mái lá, nắng hoa rơi đầy.

Thầy xa cuối nẻo mây bay.
Lời xưa Thầy dạy còn đây trong lòng.
Vắng Thầy, trời đất mênh mông.
Bạn bè lớp cũ chìm trong tháng ngày.

Đồi xanh lau lách cỏ cây.
Thẳm sâu nỗi nhớ bóng ngày bé thơ.
 

LŨ QUA LỚP HỌC

Nhớ xưa, bão rớt rừng cây.
Nước dâng ngập úng hoa ngày lũ mưa.
Mái trường lớp lá gió lùa.
Mối sầu thấm ướt bao mùa học sau.

Lũ ơi, lướt nhẹ ngàn lau.
Xin đừng để lại nỗi đau kiếp người.

Tân Thắng,1972
CÁT SỸ

HOA MỘNG

Nơi đâu hoa nở không tàn.
Người đi tìm mộng thiên đàng đã lâu.
Ta về ngả nón qua cầu.

      

HOA QUÌ

Tạt qua vườn rồi em đi.
Tóc tơ một đoá hoa quì đưa chân.
Hoang vu lối cũ đôi lần.

Mình ta dạo khắp vuông sân.
Thấy trong cát bụi phân vân dấu hài.
Bóng hình đâu dễ nhạt phai.

HOA KHÓI

Chiều ngồi thả khói qua đêm.
Bóng sương hư ảo gợi thêm dáng người.
Lửa tàn đốm thuốc lên hơi.

Người đi không nói một lời.
Mối sầu hoa khói muôn đời thẳm sâu.
Viên cuội tròn lăn về đâu.

CÁT SỸ

 

VỀ NÚI CŨ.

Cỏ thơm đưa bước qua rừng.
Dưới chân núi cũ, triền bưng sen hồng.
Lá khô chiều muộn cuối đông.
Giật mình tôi tưởng mênh mông lối về.

TÌM THĂM LỚP LÁ.

Tìm thăm lớp lá mục đồng.
Bên rừng dầu vắng, ven sông lở bồi.
Nhớ câu lục bát xa xôi.
Lời ca dao mẹ ru nôi một thời.

NHỚ NGƯỜI GIEO HẠT.

Người thầm gieo hạt mùa sau.

Nơi hoang vu đất, giữa màu hoa phai.
Trên trang vở, chữ nghĩa đầy.
Bên đồi, nhóm lửa bếp ngày đèn đêm.

BÓNG XUÂN THU.

Nơi nào còn một đào tiên ?
Một Đông Phương Sóc, một miền lãng du ?
Tôi về làm một người ngu.
Hát ngao dưới bóng xuân thu quê nhà.

CÁT SỸ

VỀ TRUNG HỌC BÌNH TUY

Bao mùa lưu lạc chia ly,
tôi về Dốc Tỉnh Bình Tuy quê nhà.
Hàng dương liễu biếc thước tha.
Đôi nhành phượng vĩ nở hoa học đường.

Ngỡ như hương cũ còn vương.
Trường làng mái ngói, nền tường đá xanh.
Nhớ xưa mơ được học hành.
Nay cùng đồng nghiệp đồng hành đồng song.

Tha phương khốn khó long đong,
hồi hương sống lại thuở hồng hoa niên.
Thư sinh áo trắng hồn nhiên
giúp tôi ôn chuyện bút nghiên một thời.

Bao trang vở chép mộng đời
Đôi dòng phấn trắng kể lời tổ tông.
Thầm ghi lịch sử núi sông,
cùng nền văn hiến Lạc Hồng nghìn năm.

Bình Tuy trung học lặng thầm
đã từng gieo hạt ươm mầm trong tôi.

Bình Tuy, 1972
CÁT SỸ

 

VỀ MỘT LỐI CŨ

Lâu không trở lại vườn quê.
Nghĩ hoa lối cũ đê mê nở tàn.
Người đà cách trở dặm ngàn.

Xuân xanh đông xám thu vàng.
Mùa đi hương sắc ẩn tàng nhớ mong.
Ta như một chiếc bóng không.

MỘT BƯỚC QUÊN

Chia tay buồn, mím môi cười.
Gặp nhau vui, mắt lệ người tuông rơi.
Ngỡ gần gụi, ngỡ xa khơi.

Trong thư, chữ dấu ý lời.
Ngoài đời, tình vẫn bời bời xót xa.
Quên một bước, nhớ bao la.

XA XÔI

Ta về, em đã xa xôi.
Vườn xưa khép cửa không lời biệt nhau.
Mất còn như giấc chiêm bao.
.
CÁT SỸ
[Đoàn Thuận]

 

VỀ THĂM QUÊ CŨ

Tôi mang nỗi nhớ quay về
Lặng nghe sóng vỗ bến mê bờ đời.
Bụi đường lẫn giọt mồ hôi.
Vương trên nếp trán, pha môi cười buồn.

DẶM XA

Thuyền nằm bóng lẫn trong cây.
Bờ yên sông tạnh thôn đầy sương pha.
Bến gần cách mấy non xa.
Bao mùa phượng nhớ em và trường xưa.

DẶM VẮNG

Quanh co dặm vắng đường quê.
Lẫn vào rêu đá tiếng ve nhạt nhoà.
Lời buồn yên tĩnh trong hoa.
Bóng chiều rơi chậm thuyền xa khuất bờ.

NẺO VỀ

Dù bao tiếc nuối muộn màng.
Chuyện ngày xưa cũng đã vàng lá thu.
Người qua dốc núi sương mù.
Tôi về quê cũ bóng lu mờ dần.

CÁT SỸ
[Đoàn Thuận]

 

VỀ THĂM TRƯỜNG CŨ

Quẩn quanh lưu lạc tôi về
Lặng trong nỗi nhớ bạn bè thầy xưa.

Cỏ xanh phai úa đôi mùa,
Và đây màu phượng đỏ mưa trường chiều.
Một hành lang vắng buồn hiu,
Bụi thời gian phủ ít nhiều ghế con.

Buổi chia tay mấy năm tròn
Ngày xa lớp học đã mòn tiếng ru.
Bao mùa mỏi bước phiêu du,
Từ xa xưa ấy vi vu lời sầu.

Mùa thu nào đọng mưa ngâu.

CÁT SỸ
[Đoàn Thuận]

 

NHỚ LẠI

Thả trôi dăm chiếc lá vàng
theo dòng kỷ niệm muộn màng về xa.
Khi buồn ngẫm lại đời ta.

MỘT MÌNH

Ta một mình giữa đám đông.
Muôn bàn tay vỗ nhưng không nụ cười.
Đơn côi từ thuở thôi nôi.

VẮNG

Chợ đời bình thản trước ta.
Đường về như thể quan hà tĩnh không.
Mây trời muôn kiếp bềnh bồng.

VỀ

Trót đi có lúc phải về.
Vườn xưa khép cửa bạn bè với hoa.
Đất trời một cõi riêng ta.

CHIẾC BÓNG

Hiên ngoài rơi chiếc lá khô.
Sợi trăng chạm lạnh hồn cô đơn chiều.
Ta và bóng ngó liêu xiêu.

CÁT SỸ
[Đoàn Thuận]

CÕI PHƯỢNG

Ai về lối mơ hoa.
Tóc xanh áo vải vui đèn sách.
Một thuở đầu đời xa.

TẠ ƠN THẦY CÔ

Con đến sau mùa hoa.
Ngát đòng hương nhớ Người Gieo Hạt.
Núi tạc lời sông xa.

CÓ MỘT NGÔI TRƯỜNG

Thì thôi, phố hạ mù xa.
Đã bao mùa phượng đi qua đời mình.

Sao còn trong nỗi lặng thinh ?
Những trang vở, những dáng hình ngây thơ
nghiêng nghiêng trong ánh chiều mờ
và nghiêng trên một vần thơ đầu đời.

Một con đường nhỏ xa xôi.
Một ngôi trường ở trong tôi không lời.

CÁT SỸ
[Đoàn Thuận]

 

HẠ SANG

Hạ sang phượng vĩ đỏ hoa.
Tiếng ve sầu gọi về xa lắc mùa.
Người qua xóm học dần thưa.

DƯỚI MÁI RÊU

Ta về lợp lại mái rêu.
Hương hoa đất cũ ngoài lều gió mây.
Bụi tro lạnh phủ bao ngày.

Không còn làm thợ làm thầy.
Ta xin làm bộ, lấy ngày làm đêm,
làm thinh cho lặng lẽ thêm.

HÀN SỸ

Có hàn sỹ nhặt chiều tà
ẩn trong xóm vắng, đường hoa cúc vàng,
sau lưng bỏ dại bờ hoang.

Trường xưa xóm học xa ngàn.
Xuân thu mấy độ bàng hoàng giấc mơ.
Mưa trời ủ dột lời thơ.

Tân An, 2003
ĐOÀN THUẬN

 

LỚP LÁNG ĐÁ

Lang thang Láng Đá rừng dầu
Lần tìm lớp học chăn trâu ngày nào.
Nước tràn mặt đá bờ lau.
Tiếng chim tu hú gợi bao nỗi niềm.

TRANG CHỮ NGÀY CHĂN TRÂU

Mục đồng đâu phải học trò.
Que than viết chữ trên mo cau rừng.
Chăn trâu thả láng thả bưng.
Ghi lời tiền bối, khắc từng câu thơ.

TRƯỜNG LÁNG GĂNG

Láng Găng về lại một ngày.
Trường làng lớp cũ vắng thầy cô xưa.
Đôi nhành dương liễu dưới mưa.
Trong tôi như thể đong đưa giọt buồn

TRANG VỞ CŨ

Một trang vở thuở đầu đời,
Nằm yên dưới lớp bụi thời gian qua.
Bỗng dưng một buổi chiều tà.
Hồn văn bóng chữ gọi xa lắc về.

CÁT SỸ
Đoàn Thuận

 

ÂM DƯƠNG

Âm dương ấp ủ đất trời.
Mây mưa thắm thiết lứa đôi ân tình.
Nguồn cơn nên cõi nhân sinh.

TỪ ĐÓ

Đêm từ lửa cuối hoàng hôn.
Trăng đầu non lạnh từ hồn nhiên lên.
Cõi này cõi nọ ngủ quên.

Người từ cát bụi mông mênh.
Về ngang đời tịnh gọi tên nỗi buồn.
Cho ngàn lá rụng sau truông.

Dòng sông từ đó xa nguồn.
Lời thơ từ đó mang hồn nước mây.
Và ta tự có tháng ngày.

NGỘ

Thích Ca bảy bước sen hoa.
Chín năm, vách núi Đạt Ma định thiền.
Một đời, ta mộng tâm yên.

CÁT SỸ
Đoàn Thuận

HẠ

Những mùa hạ đã đi qua.
Cũng qua đi những tuổi hoa mộng rồi.
Ta gom góp nhớ một thời.
Để hoa phượng thản nhiên rơi đường chiều.

MÙA PHƯỢNG CŨ

Khi về nhặt cánh phượng buồn,
Nghe mưa tạt ướt nẻo đường về xa.
Tàn lâu rồi những mùa hoa.
Của em áo trắng, của ta dại khờ.

TRANG SÁCH CŨ

Những trang sách ám bụi dày.
Bìa con mọt nhấm mất ngày thư sinh.
Đôi dòng chữ vẫn lặng thinh.
Trong hồn người cũ bao nghìn thu qua.

CÂU THƠ ĐỂ DÀNH

Một mùa học nữa qua mau.
Áo bay trắng lối phượng vào ngày xanh.
Có vầng trăng rụng cuối gành.
Ta nghiêng trang viết để dành câu thơ.

CÁT HOA
Đoàn Thuận

 

MONG MỘT NGÀY

Mai mong ngất tạnh chim về.
Rừng xanh đồi biếc bốn bề ban sơ.

Bão giông yên ắng đôi bờ.
Nhà xưa vẫn nhớ chiều thơ ngây nào.
Vườn khuya hương cỏ lao xao.
Xin mùa tan tác đi vào lãng quên.

CÕI YÊN HÀN

Xa đâu vương sợi tơ trời.
Âm xưa lắng một dòng trôi vào chiều.

Thềm ngoài mưa đọng xanh rêu.
Em co ro bóng ngồi khêu bếp tàn.
Nhen lên trong cõi yên hàn.
Thoảng hương tóc cũ bàng hoàng trong nhau.

CÁT SỸ
Đoàn Thuận

 

NHỊP MÙA

gặp chiều trong một dòng sâu
nhịp mùa trong gió, bóng màu trong hoa
nỗi người trong một nỗi ta.

xuân về trong thoáng đông xa
hạ tàn, vàng lá bay qua thu buồn
ta về ở trọ một phương.

trong màu hoa còn bao hương
trong mùa em mắt còn vương nét nhìn
trên non mai nở lặng thinh.

MẦM HẠT

một ngày hoa mộng trở mầm
nhựa nguồn từ thuở bụi lầm đất xưa
duyên thầm hóa kiếp hạt mưa.

hoa như rơi đã bao mùa
sắc màu cùng gió sương đùa nước mây
nơi đâu tình thắm cỏ cây.

tinh hoa nhuần nhị vơi đầy
xuân thu đắp đổi hương bay về trời
một ta ngồi ngắm bóng chơi.

CÁT SỸ
Đoàn Thuận

 

MÂY TRÔI

Mây trôi qua núi ngang trời
hương thời thơ ấu nay dời về đâu
ta đôi lần đứng bên cầu
nghĩ quanh con sóng bạc đầu vì ai.

         

MƯA XA

Ai ngồi hát cuối phố mưa.
Nghe xa như điệu ru xưa không lời.
Điều gì lẫn quất trong đời.
Thầm thì như hạt bụi thời bỏ quên.

GIỌT MƯA

Ngửa tay hứng giọt mưa đầy
Tưởng như lời của một ngày thung xa.
Tưởng hương của một loài hoa.
Vương vương một thoáng chiều tà trong cây.

GIỌT NƯỚC

Giọt mùa rót lạnh mái xưa.
Hạt chưa hủy thể, hạt chưa sang mầm.
Sắc màu từ cõi lặng câm.
Hóa thân trong giọt nước trầm mặc kia.

CÁT SỸ
Đoàn Thuận

 

DÒNG THỜI GIAN

Một ngày tằm đã nên tơ.
Thiên thu một phút tình cờ nên ta.
Một lời hương chợt thành hoa
Nghe trong tiếng lụa xé nhòa sương tan.

Ta đi suốt những chiều tàn.
Tìm em dưới bóng hoa vàng hồn nhiên.
Trái vông khô rụng một miền.
Bổng dưng cháy lửa cuối triền sông xa.

Có hoa như đã có ta
Không em một cõi ta bà vắng không.
Dặm về cố quận mênh mông.
Hoa kia bướm nọ bên dòng thời gian.

MÀU THỜI GIAN

Tháng ngày tư nó không buồn
Trăng không hoài niệm, mưa nguồn không đau.
Người về, vui nhịp chân mau
Người đi, bỏ phố tím màu hoàng hôn.

Đêm ngừng trước những môi hôn
Dăm ba lá rụng vào hồn mùa thu.
Hồng hoa tàn trắng sương mù
Một dòng trôi mãi hoang vu bến bờ.

Thoáng mùa chạm nhẹ lên thơ
Trăng khuya ngủ lạnh, đêm mờ khóm lau.
Lối vườn rơi mỏng hương cau
Giấy thơm lừng, giọt mực màu thời gian.

CÁT SỸ
Đoàn Thuận

 

MỘT TRANG VIẾT

Đôi dòng lục bát ba câu
sao gom hết được mối sầu nhân gian.
Sách xưa mối mọt nhấm vàng.                

Rách nhàu giấy dó tan hoang.
Án thư nghiên bút miên man gió lùa.
Trời chờ phác thảo đêm mưa.

XA DẦN

Sân trường tàn mấy mùa hoa.
Đôi trang sách cổ nhạt nhòa ý xưa.
Còn chăng một thoáng hương thừa.

Người đi giờ đã về chưa.
Dưới trăng hoa núi nở vừa màu xuân.
Ước mơ xa, nỗi buồn gần.

ĐIỀU CÒN LẠI

Ta còn đây mấy năm dư.
Tay run ghi lại thực hư cõi lòng.
Mực đen giấy trắng bụi hồng.
.
CÁT SỸ
Đoàn Thuận

KHI CHƯA HOÀNG HÔN

Chưa hoàng hôn đã trăng lên.
Chưa nhớ chi mấy đã quên lãng nhiều.
Chưa hoa, hương đã về chiều.
Chưa xa, đã thấy đìu hiu lối về.

CHIỀU

Bóng lau mờ khuất đường hoa.
Chiều yên phố núi sương là đà rơi.
Dòng sông trôi mãi không lời.
Đàn chim di rét đã vời vợi bay.

LỐI THU ĐÔNG

Người men theo lối thu đi,
Phấn thông vàng phủ thầm thì không gian.
Ta quay về ngã đông sang,
Khuyết vầng trăng biển, lạnh ngàn non xa.

HƯ ẢO CHIỀU

Sắc trời thu đã sang mùa.
Mong manh nét gió lạnh lùa qua truông.
Núi mờ ảo giữa hồi chuông.
Người hư ảo giữa chiều buồn bên song.
.
CÁT SỸ
Đoàn Thuận

 

ĐÔI KHI

Đôi khi đá cũng ưu phiền.
Sông xa nguồn nhớ con thuyền về xưa.
Đôi khi giữa nắng chợt mưa
Một đời phiêu lãng lại chưa quên người.

Đôi khi nghe mặn môi cười.
Trong muôn lá rụng có lời hạnh hoa.
Đôi khi gần lại rất xa.
Ẩn trong hạt nước bao la cõi đời.
.

CHIỀU TRÊN ĐỒI

Ta về gom nhớ bao đông
Ngựa buông cương mỏi hồn trong bóng chiều.
Lũng đầy mây khói tịch liêu.
Đời phiêu lãng đã hắt hiu tình buồn.

Mấy mùa thu, mấy dư hương.
Đêm hôn mê cũng lạnh phương trời người.
Lửa chiều thắp ngọn lên môi.
Nghêu ngao lời nguyện giữa đồi mây bay.
.
CÁT SỸ
Đoàn Thuận

 

VẦN XOAY

Con đường sinh diệt luân hồi,
U minh quả nghiệp đổi dời vần xoay.
Nhân duyên định phận thân này.

BẾN MÊ

Dòng sông khi lỡ khi bồi
Con đò thuở trước xa trôi mịt mù
Bồng bềnh một chiếc lá thu.

Mùa đi bến nước trăng lu
Ai buông lá thắm vào u minh này
Duyên tình mỏng mảnh nước mây.

TỰ TA

Đất trời tự nắng tự mưa
Một ngày bình thản tiễn trưa sang chiều
Tự ta chuốc lấy bao điều.
.
CÁT SỸ
Đoàn Thuận

 

BƯỚC ĐÊM

Xin đêm yên tĩnh thật đầy.
Cho trăng xô những bóng cây ngã dài.
Và ta nghe bước chân ai.
Gõ buồn qua ký ức ngày đã yên.

PHÚT GIÂY

Xin người dừng lại phút giây.
Lá khô như rụng thêm dày lối đi.
Phụ ta người lại ướt mi.
Chuyện đầu đời ấy có gì nhớ quên.

ĐÊM LẠNH

Điều gì mất ở xa kia
Để mẩu thuốc tắt đêm chia xa người.
Lạnh đêm sương tỏa nơi nơi.
Thèm một đốm lửa ấm môi cười buồn

QUẠNH HIU

Hơi mây hư ảo hiên trời
Chợt buông theo tiếng hoa rơi xuống chiều.
Âm thừa chạm đáy cô liêu.
Tưởng đâu hạt lệ khô nhiều tháng năm.
.
CÁT SỸ
Đoàn Thuận

ĐÊM THỨC

Đôi lần nhớ lại đời ta.
Những ngày trai trẻ đã xa lắc rồi.
Lời người xưa đọng trên môi.
Hát ru đêm thức giữa trời tịnh yên.
.

THẦM NGHĨ

Đi về trong cõi tháng năm.
Lặng theo bóng mẹ vào thăm thẳm đời.
Giữa mênh mang biển và trời,
Ta nghe giọt hát của lời cỏ cây.

Tự cầm thân phận trên tay
Lửa đêm mưa sưởi ấm ngày bé con.
Yêu người giữa mất và còn
Giữa thiêm thiếp nhớ và mòn mỏi quên.

Bỏ chiều về ngóng mai lên
Mấy bông cúc nở vàng bên phố nhà.
Dòng sông nào chảy về xa
Trong thăm thẳm ấy ngẫm ra đời mình.
.

CÁT SỸ
Đoàn Thuận

BẾN BỜ

Lặng thinh bãi cỏ thu vàng.
Bờ hoa hương thoảng qua hàng lau thưa.
Có khi bến nắng rơi mưa.
.

BẾN ĐỖ

Thuyền neo bến liễu dương chiều.
Hoa bằng lăng rụng tiêu điều cuối sông.
Tự cây đổ bóng soi dòng.

Bao lần hạ bạt thu không.
Mấy mùa bão lũ đục trong nước nguồn.
Lờ mờ một bóng trăng suông.
.

BẾN THÔN

Dăm ngàn thôn vắng quạnh hiu.
Một bờ thủy mặc đìu hiu bến thuyến.
Tìm đâu một cõi đào nguyên.

Ta mong được phút an nhiên.
Trong cô đơn giữa đôi miền phiêu du.
Bóng ai khuất mãi mịt mù.

.
CÁT SỸ
Đoàn Thuận

LỬA ĐẦU NON

Người đi tìm cõi vô cùng,
Mơ thiên thai thuở mông lung mất còn.
Mộng hoàng hoa đỉnh chon von.
Ta về nhóm lửa đầu non nhớ người.

Nụ đời đâu mãi xanh tươi.
Mùa trôi bụi lấp môi cười một mai.

NƠI LẶNG THẦM

Người đi đãi cát tìm vàng.
Ta còn mê mải về ngàn rong chơi.
Qua con suối vắng tìm lời.
Gieo câu lục bát vào nơi lặng thầm.

Chợt nghe bấc lạnh căm căm.
Giật mình tóc đã hoa râm lâu rồi.
.


CÕI YÊN HÀN


Xa đâu vương sợi tơ trời.
Âm xưa lắng một dòng trôi vào chiều.
Thềm ngoài mưa đọng xanh rêu.
Em co ro bóng ngồi khêu bếp tàn.

Nhen lên trong cõi yên hàn.
Thoảng hương tóc cũ bàng hoàng trong nhau.


CÁT SỸ

Đoàn Thuận

MỘT TRƯA XƯA

Đôi lần nhớ một trưa xưa.
Lắt lay một chuyến đò đưa về làng.
Phố quen chợt rụng lá vàng.
Một người nghiêng nón bên hàng dương xa.

CHIẾU TỐI

Ta bâng khuâng giữa nhịp chiều.
Sắc màu quánh lại nghe đìu hiu thêm.
Giọt trăng vừa rụng ngang thềm.
Như tan loãng bóng rêu đêm lạnh đầy.

TRĂNG KHUYA

Trăng tàn nghiêng bóng non đêm.
Mông lung tiếng vạc sâu thêm bến bờ.
Một con thuyền ngủ như mơ.
Ai xa vắng có thức chờ đêm phai.

THINH LẶNG

Biết trăng rồi có lúc già.
Ngày trôi còn lại bóng tà dương thôi.
Biết người có lúc xa xôi.
Bổng dưng có lúc ta ngồi lặng thinh.

CÁT SỸ
Đoàn Thuận

THỜI GIAN

Một đời như thoáng mây bay.
Sóng bạc đầu vỗ tháng ngày mặn môi.
Nắng mưa làm mỏi bước đời.
Tưởng đâu hụt hẩng giữa thời gian trôi.

CÓ LÚC

Cõi hồn có lúc chơi vơi.
Tưởng trong nắng cháy mưa rơi giọt buồn.
Tưởng đâu xa lạ con đường.
Về qua heo hút một phường phố quen.

Tưởng trong lửa sớm mới nhen.
Hơi mây đá núi lạnh len vào chiều.
Cõi người có lúc quạnh hiu.
Cỏ cây trót đã it nhiều tàn phai.

Nhịp mùa vỗ giấc mơ dài.
Trong muôn thao thức có hoài niệm riêng.
Trăng tà xô bóng cây nghiêng
Bờ khuya mấy độ khuất thuyền trăm năm.

Giữa đời có lúc xa xăm.
Đâu người vườn cũ lặng thầm bên hoa.

CÁT SỸ
Đoàn Thuận

BÊN KIA ĐỜI

Bên kia trời đất ban sơ.
Lá dâu chưa biếc, sợi tơ chưa vàng.
Hoa hồn nhiên trước chiều hoang,
Nụ hôn dấu kín mênh mang niềm sầu.

CÕI BỤI

Giọt mồ hôi thấm cõi người.
Thấy trong khô khát nụ cười hồn nhiên.
Đâu cát bụi, đâu nhân duyên.
Đâu đào nguyên cũ cho thuyền về xuôi.

PHẬN NGƯỜI

Áo cơm neo chặt phận người.
Nụ đời nát giữa môi cười bể dâu.
Ta đi, sương gió mái đầu.
Ta về, tro bụi nhuốm màu thời gian.

ĐÂU RIÊNG AI

Nắng nghiêng chiều xuống non ngàn.
Cõi đời đâu chỉ bàng hoàng riêng ta.
Nơi nào lối mộng không hoa.
Còn ai về nhặt bóng tà dương xưa.

CÁT SỸ
Đoàn Thuận

CÕI NGƯỜI

đất trời vạn hữu biến thiên
từ nơi thái cực tới miền bể dâu
thường hằng nhân quả nhiệm mầu.

NGỌN NGUỒN

âm dương nguồn ngọn cõi đời
chập chồng duyên kiếp luân hồi vần xoay
từ mông muội đến hôm mai.

tự thân cát bụi hoài thai
núi cao biển rộng sông dài rừng hoang
đất trời âm phủ địa đàng.

diệt sinh sinh diệt hỗn mang
di truyền muông thú đa đoan phận người
tự ban sơ đã khóc cười.

ĐẤT TRỜI

cõi này biến hóa khôn lường
không không sắc sắc vô thường xưa nay
núi sông rừng biển trời mây.

CÁT SỸ
Đoàn Thuận

BÊN BẾP LỬA CHIỀU

Bâp bùng ánh lửa bên non.
Mái chiều khuất cuối dặm mòn quê xa.
Sau nương rơi giọt trăng tà.
Ngỡ như bóng mẹ ta nhòa trong sương.

Bếp than hồng ấm một phương.
Hương cau hương dã quì vương đầy hồn
Hoa nào nhớ ngát môi hôn.
Sóng ru tiếng biển nhớ cồn đảo xưa.

CÁT SỸ

HẠT MÙA

Mẹ đi để lại hạt mùa.
Nương rau bóng áo nâu xưa một thời.
Quê nghèo bông lúa vàng ơi.
Đất đai thấm giọt mồ hôi bao điều.

Mẹ đi xuân sớm thu chiều.
Sương mù phố núi quạnh hiu lối bờ.
Con về tìm lại lời thơ.
Tự ru vào giấc mai chờ ngày lên

CÁT SỸ

XA MẸ

Bé thơ  sớm đã quạnh hiu.
Một ta, du tử, bao chiều lang thang.

Cồn xa với bến sông vàng.
Mùa trôi con nước nặng ngàn nỗi đau.
Mây giăng một cõi xa nào.
Đồi hoang cỏ cháy, vườn đào vắng không.

Chim bay về cuối trời đông.
Lời ca dao cũ ru trong điệu buồn.
Qua cầu nhớ thuở quê hương.
Mẹ già tóc trắng gió sương dãi dầu.

NGẦN NGẠI     

Tuổi đời ngày tháng lui dần.
Phố quen lối phố, ta ngần ngại ta.
Bến chiều vắng chuyến đò qua.
Quê nhà đã vắng bóng ta lâu rồi .

CÁT SỸ
Đoàn Thuận

GỬI MẸ

EM

Bốn câu lục bát xa xôi.
Gửi Mẹ khúc hát một thời ru con.
Gửi vầng trăng phía sau non.
Lá dương liễu rụng lối mòn về Em.

SÁO DIỀU

Nhớ hoài một tiếng sáo diều.
Hiu hiu lời Mẹ ru chiều buồn trôi.
Xa rồi một thuở thôi nôi.
Tiếng tiêu trúc vẫn bồi hồi trong ta.

THU VỀ NHỚ MẸ

Cây thu trả lại thu vàng.
Mẹ vào cõi hạc phía ngàn biếc xa.
Con theo bóng những mùa hoa.
Hát rong nỗi nhớ buồn qua đôi miền.

LỜI CHIỀU

Lâu rồi sông nước ru mây.
Và Mẹ ru bóng tháng ngày gió sương.
Ta ru hoa cỏ về nguồn.
Ai ru chiều một khúc buồn vào thơ.

CÁT SỸ
Đoàn Thuận

LAU SẬY

TÔI

1.
Dòng chữ nhỏ màu xanh, tờ giấy trắng.
Qua cửa đời nhìn xa hút bờ lau.
Ngắm sương mù đong đưa trong khóm sậy.
Đôi mái thuyền neo tạnh bến giang đầu.

Cờ lau trắng phất phơ theo gió nhẹ
Tiễn chim chiều về tổ núi rừng xa,
Lau xào xạc như ru đồi cỏ cú.
Trang viết thầm khép lại đôi lời hoa.

2.
Tôi nghĩ về đời sậy, qua con chữ,
nghe liu riu nhành lá ru bến thuyền
ngỡ âm điệu nước len theo bờ suối,
chợt thấy vui một thoáng giữa ưu phiền.

Ngẫm xa thêm khi sậy ngoài dông tố.
Gió lùa qua, thân rạp xuống cỏ non.
Mưa dội nước, rể mầm ngập bùn đất.
Đâu khác chi phận nghèo giữa mất còn.

Bão trái mùa dập nát ngàn lau sậy
Lũ bọ sâu cạp đất, gậm cỏ hoa.
Trước cuồng phong, già non sậy mộc thẳng
Bám cội nguồn, tồn tại cùng san hà.
 
         La Gi, 1976
         CÁT SỸ

SẬY ĐẤT

Một cơn lốc thốc vào sậy liêu xiêu.
Thân gầy guộc nghiêng bên ruộng ban chiều
Gió tao tác tạt xô về hoang dã
Dập nát tan cành cội giữa quạnh hiu.

Một bầy sói, theo lốc, rình cánh đồng.
Trên mảnh đất bao đời của tổ tông.
Tiếng sói tru hoang mang lời rừng rú.
Khiến muôn loài động chuyển khắp non sông.

Gốc sậy già bám rễ vào đất xưa.
Hàng sậy non ngóng trời lên từng mùa.
Và tất cả “đồng tâm” mọc đứng thẳng.
Che xanh làng mát nước, trước nắng mưa.

Lốc tàn canh, khóm sậy giấc khuya an.
Ngàn con sói nhe nanh bổng vào làng.
Lục lạo tìm gậm chết thân Sậy Đất
Đồng quê xưa vườn cũ thêm hoang tàn.

Sậy Đất già qui hạc vào vĩnh hằng.
Cờ lau trắng bông tang thành Rồng Thăng.
Hương đồng nội khiết thanh thầm nguyện ước.
Sậy sống còn bám đất dù cỗi cằn.

Thủ Thiêm,2020
ĐOÀN THUẬN

EM THƠ

CHIM BÓI CÁ

Đâu phải biển xanh vì hạt mặn
Cỏ cây đâu phải bổng nhiên tàn.
Đâu phải chết đi là cát bụi.
Hương trời phai hết khi mùa sang.

Em thơ đứng lặng bên hồ vắng.
Nghe tiếng chim chiều buổi xa quê.
Biển mặn trong em là nước mắt.
Sông nước mênh mông biết đâu về.

Làng xưa xa khuất đâu hình bóng
Nỗi buồn đâu chắc sẽ hư không.
Con chim bói cá trên cành gãy
Như thể trầm tư trước dòng sông.

Lênh đênh, bèo dạt lục bình tím,
Lặn sâu, cá trắng cùng tép riêu.
Gió đưa, lá úa theo sương khói.
Mùa trôi, rạch đước dần tiêu điều.

Chim thôi bói cá về tổ ấm.
Rong rêu nương tựa đám lác bàng.
Cành khô in bóng trên hồ tịnh.
Em thơ côi cút đời lang thang.

Hà Tiên,1969
Cát Sỹ

NỖI ĐAU THƠ NGÂY

1.
Mỗi năm ở Châu Âu
hàng triệu trẻ thơ
là nạn nhân của mục đích tìmh dục
bọn khai thác xác thịt
hưởng lợi hàng tỉ ơ-rô.

Một tên ma cô
bỏ túi hai ngàn đô
sang tay một em gái
chưa qua tuổi dại khờ.

Vùng Kehl sát biên giới Đức
những bé thơ
bị bán như gia súc
sa cạ mỗi em ngàn ơ-rô.

Nơi phố Clokure Paris
bé Ginka chết khô trong hầm rác
sau mười một năm bán kiệt thơ ngây
cho hai mươi khách mỗi ngày.

Anita vừa tròn mười lăm tuổi
mỗi đêm bán mình cho năm gã khát tình
đủ mua cơm và đóng học phí
đâu dám mơ gì hơn giữa cõi phù sinh.

2.
Khắp nơi trên trái Đất
biết bao trẻ không gia đình không quê hương
bơ vơ trôi dạt muôn dặm trường
còm nhom đói rách nơi bãi rác
xin ăn xó chợ đầu đường
ở trọ cùng gió sương.

Và bao triệu trẻ em
mang dáng hình quái dị
vì chất độc da cam
vì chất độc phóng xạ
từ những cuộc ngoại xâm .

Rồi đây bao thế hệ
đâu khô giọt lệ thầm.

Nancy,2004
Đoàn Thuận

THAI NHI KHÔNG TÊN 2.

Sáu tháng đầu năm 2011
từ bệnh viện Phụ Sản Trung Ương Hà Nội
hàng ngàn thai nhi vội vã lìa đời.
chưa kịp tượng hình, chưa đầy một giờ tuổi
đâu rõ phận người mai sau buồn vui.

Dăm ba phu nhân theo trào lưu thời thượng văn minh
ngại ngùng đứa con thứ ba hoang thai ngoại tình
làm vỡ mộng vàng son giữa thị trường danh vọng
đành lòng phá thai hủy diệt chính con mình.

Những thiếu nữ trao thân thơ ngây cho hoan lạc mê say
chợt nhận ra phút mộng mơ không ngày mai
giữa cuộc đời trần tục dối gian ngang trái.
đau đớn chối từ giọt máu tình yêu mới hoài thai.

Bao bệnh án nhân danh AIDS giang mai Rubella
bao hồ sơ tội phạm dán nhãn bao cao su
bao chiếc ghế quyền lực trở xoay trong mùi hôi tình dục
bao cô hồn vật vờ chốn oan khiên mịt mù.

Còn bao thai nhi bị bỏ rơi nơi xó chợ đầu đường.
nơi đóng rác y tế, quẩn quanh dưới bóng tối nhà thương
còn lời nào tiễn đưa sinh linh bé thơ về cát bụi
giọt mắt nào buồn trong mênh mang khói hương.

Nancy,2011
Đoàn Thuận

THAI NHI KHÔNG TÊN 1.

Hàng ngàn thai nhi trong chùa Wat Phai Ngern
nằm yên trong túm giấy, bọc vải, bao ny-lông
ngủ quên đã lâu dưới lớp tro muối
chờ phút hoả thiêu trở về cát bụi
đầu thai vào cỏ cây mây nước gió sương.

Chưa kịp chào đời những thai nhi không tuổi
tượng hình giọt bào thai không chân dung không tên
hiện thân của tình yêu rẻ dại tuyệt vọng
dấu vết của hoan lạc chiếm đoạt,khát vọng bồng bềnh.

Hàng vạn mầm sống
lăn lóc theo đường nạo thai cùng viên thuốc huỷ diệt
tuột khỏi cửa đời vội vã lìa xa bầu tử cung
hàng triệu sinh linh chưa kịp chọn nơi yên nghỉ
vất vưởng nơi nhà cầu thùng rác, góc khuất ven đường.

Bao người dìu nhau về chân trời hoa mộng,
bao người quay cuồng mê đắm giữa cuộc truy hoan,
bao người buồn đau nuối tiêc mối tinh tan vỡ,
còn ai nhớ chăng giọt máu rơi, dù một thoáng muộn màng ?

Nan Cy, 11/2010
Đoàn Thuận

PHƯƠNG XÍCH LÔ

Phương đạp xích lô qua nhịp cầu.
Áo tím em xưa vắng đã lâu.
Đâu biết chở ai về sân bóng.
Cổ động đôi bên thủ huề nhau.

Phương mang theo Phương một quả buồn.
Người trả lại đời trái cô đơn.
Mấy mùa đông Huế đêm Phường Đúc.
Sao vẫn khung thành vắng thủ môn.

Đời chuyền sang Phương một trái quên.
Phương đặt Phương lên chấm phạt đền.
Trọng tài khán giả bỏ đi hết.
Cầu môn để trống cả đôi bên.

Sân cỏ và đời vẫn cứ xanh.
Ai người đá phạt ai thủ thành.
Phương chờ còi thổi, chờ cổ vũ.
Nhìn lại cầu trường chợt vắng tanh.

Phương đạp xe không về Trường Tiền.
Thủ huề nhau chi giữa nhân duyên.
Lá thắm tình xanh, áo em tím.
Buông bỏ theo sông niềm ưu phiền.

            Huế, 1969
CÁT SỸ

 

BẢY XÍCH LÔ

Lẩn vào gốc khuất trong bóng khuya tàn,
đường Cô Bắc Cô Giang
một xích lô cũ nát,
như túp lều di động tuềnh toàng.

Chàng Văn Bảy,
cầm tinh con ngựa hoang
sinh nhầm thế kỷ trước
nơi miệt vườn sông nước Gò Công Đông

Tuổi thơ cầu bất cầu bơ
không rõ mẹ cha, cửa nhà không có
bơ vơ xa lách bụi bờ.
  
Trên bảy mươi năm lang bạt kiếm ăn
gió sương mưa nắng thường hằng
đạp xích lô nơi Saigon hoa lệ
ở trọ góc đời, bạn với khó khăn.

Nay đã kề bách niên
nhưng chẳng được giai lão
chỉ riêng một nỗi muộn phiền.

Quần cọc áo vá, mái tóc sương pha.
bơ phở mệt mỏi giữa cõi ta bà
ngủ dưới trời cao, ăn cơm thiên hạ
qua phố trăm năm với chiếc xe già.

CÁT SỸ

VỀ ĐÂU

Tôi trở lại một chiều đông tận
mới biết em bỏ viện lâu rồi
để kiếm sống nơi nào chưa rõ
một mình em lưu lạc phương trời.

Tôi tưởng tượng đêm nơi bến vắng
trước dòng sông, thức trắng, em ngồi  
thả hồn vào chân trời sâu thẳm
mơ về đâu, xa lạ chơi vơi?

Tôi tưởng tượng bên hiên chùa vắng
rơi lắt lay, lạnh lẽo mưa mùa
em co quắp nơi thềm rêu đá
tay kê đầu, thân phủ áo thưa.

Tôi tưởng tượng em gò lưng nhỏ
gánh phân thuê đem đổ bờ xa
mà bụng đói, mắt hoa, vai mỏi
mà lòng đau, máu ứa, lệ nhòa.

Tôi tưởng tượng em vào phố chợ
cầu khẩn xin từng hạt cơm rơi.
thức ăn thừa nằm trong xọt rác 
giúp thân tàn thoi thóp cầm hơi.

Nhưng em hỡi ! đâu là tưởng tượng,
khi ngoài đời bao người đơn thân
vô gia cư, không rõ cha mẹ.   
sống khổ đau, mòn mỏi, chết dần.

Chiều tàn đông tôi về thăm em
hoa bên thềm vẫn nở thản nhiên
đâu có biết giữa đời trôi nổi
kiếp mồ côi lặng lẽ ưu phiền.

CÁT SỸ

QUA
VIỆN  MỒ CÔI

1.
Viên Mồ Côi, em ngồi thầm lặng
mắt vu vơ như mơ điều gì
nhìn xa xôi như mong ai về
từ phương trời mịt mù sương gió.

Em ngồi đó bên bao trẻ nhỏ
để lòng buồn tha thẩn chân mây
hình dung người xa khuất cõi đời
tự an ủi những ngày côi cút.

Viện mồ côi, với bao đêm thức
nghĩ ngày mai,thăm thẳm dòng trôi
giữa mênh mông,em một mình thôi
sao biết được,đường đời hiu quạnh.

Viện mồ côi, những đêm mưa lạnh,
nghĩ nhà ai sum hợp bình yên,
bên mẹ cha, thân yêu dịu hiền,
riêng em chỉ một mình lớ ngớ.

Viện mồ côi, sớm mai bỡ ngỡ,
lời thánh ca, kinh nguyện ngọt ngào
tưởng lời ai ru nôi ngày nào
cùng giọt lệ rơi dài bi thiết.

Bị bỏ rơi, thầm lời từ biệt,
bên gầm cầu, hố rác, vệ đường
nhờ từ thiện cứu vớt xót thương
cho tồn tại dưới trời mưa nắng.

2.
Viện Mồ Côi, với tường vôi trắng,
cổng sắt khóa, bóng hoa sứ rơi,
bên cửa sổ, lặng thinh em ngồi.
cùng bao trẻ phận đời côi cút.

Em vẫn luôn nhìn về xa hút,
trán thơ ngây chưa thấm mồ hôi.
tóc xanh thơm chưa vướng bụi đời.
Sao em hỡi, mắt buồn quá đỗi.

CÁT SỸ
[Đoàn Thuận]

MẤY MÙA HOA DẠI

1.
Hoa mùa chuyển nhựa hồng hoang,
như đời nhân quả tuần hoàn tử sinh,
như ngày khởi tự bình minh,
như đêm buông phút lặng thinh hôn hoàng.

2.
Hạ thu mưa đổ lá vàng,
sầm, sim, huệ, cúc, hồng, xoan, tràm, muồng,
bằng lăng, dạ lý, quế hương
chờ cây thay lộc lạnh sương đông hàn.

Ngàn mai tự đón xuân sang,
anh đào, ngọc điểm, địa lan, sen đầm,
từng đàn én hạc xa xăm,
về ngang động diếc, đồi trâm, rừng dầu.

Bấc nồm ru ngọn sầu đâu,
lưu ly, thiên lý, phai mầu mơ xưa.
cây hoang cỏ dại bụi thừa
tiễn đưa từng cánh lưa thưa hoa tàn.

Hồn nhiên theo bước thời gian
lương duyên sương gió bên ngàn phôi pha. 
Tình xanh lá thắm hương hoa
mấy mùa thơ mộng cũng nhòa nhạt thôi.

Định Quán,1964
CÁT SỸ

 

QUA
NHÀ DƯỠNG LÃO

Trong hẻm sâu đường Âu Dương Lân
Nhà Dưỡng Lão cũ kỹ xưa dần.
Dưới tán cây um tùm vắng vẻ
Lời ai buồn thì thầm bâng khuâng.

Thấp thoáng lão nghệ sỹ cải lương
bên băng đá, thềm gạch, chân tường
sau song cửa, căn phòng mờ tối
lẳng lặng trầm ngâm lẽ vô thường.

Câu vọng cổ một thời bay qua
của đào thương kép mùi tài hoa
làm đắm say lòng người mến mộ
cùng gánh hát lưu diễn gần xa.

Nay tóc xanh sương pha hoa râm
như chiếc bóng lọm khọm âm thầm
còm cõi không nơi nao nương tựa
loanh quanh một khoảnh sân bụi lầm.

Lão nghệ sỹ
cất tiếng hát ru ai
một đời đờn ca tài tử
giờ tự ru mình quạnh quẽ hôm mai.

Gò Vấp, một chiều thu.
CÁT SỸ
[Đoàn Thuận]

THỨC HOA

Một bông hồng vương tia nắng mai
nhụy phấn tan ra từ đỉnh gai,
cánh nhung rã tàn dưới lớp bụi,
sắc màu đâu giữ được hương phai.

Từ thuở hồng hoang của đất trời,
cây vạn mùa không mãi non tươi,
dưới mi đêm quỳnh hương trầm thức,
thoang thoảng dịu thơm qua cõi người.

Hạt mai như nhiên nơi sơn khê,
ươm mầm nảy lộc mong xuân về,
đâu biết nơi nao còn mọng dại,
lộc trời phả lạnh khắp bến mê.

Lá thắm tình xanh cùng thuyền quyên,
trôi dạt xa dần chốn lâm tuyền,
khuất mờ lặng lẽ vào cát bụi,
còn chăng sương khói chốn đào nguyên.

La Gi, 1972
CÁT SỸ

Về THẢO ĐIỀN
nhớ RUỘNG CỎ.
[kính tặng Văn Chỉnh]

Nhớ sao Ruộng Cỏ ngày nao,
Nổng xanh cỏ kiểng, ruộng rau, luống cà,
Nhà vườn, ao cá, nương hoa.
Ngoại ô thơ mộng, nhân hòa yên nhiên.

Khi sang tên phố Thảo Điền.
Chung cư, biệt thự, sảnh tiền, lầu cao.
Quốc phòng, thông tấn xã rao.
Đất đai doanh trại chuyển giao lập Phường.

Dân cư bản địa cố hương
đành lòng di tản, tha phương xa mờ.
Dân đen lỡ vận thất cơ
ngờ như khách lạ nơi bờ bến xưa.

Tôi về lầm lủi dưới mưa,
tìm thăm Xóm Trọ mấy mùa thư sinh.
Người xưa đất cũ nghĩa tình
giúp nhau điều kiện tồn sinh với đời.
Nay tôi được gặp lại tôi.

Thảo Điền, 2008

 

NGHĨ VỀ HOA

Cùng hình bóng một loài hoa biển,
buổi chiều tan theo bọt nước mau,
để âm hưởng thủy triều mùa bấc,
rì rào ru làn sóng bạc đầu .

Dưới ánh sáng một ngày mới rạng,
muôn đóa hoa nở đẹp bên trời,
như mộng mơ xuân tình hoa dại,
với nguồn hương thanh khiết đầu đời.

Giữa cuộc sống cỏ cây hiển hiện,
hương mùa xưa ấp ủ trong hoa,
dù màu sắc phai tàn sinh diệt,
nỗi phong sương không thể xoá nhoà.

Nơi sân trường, thư sinh áo trắng,
trang sách thơm hương chữ bút nghiên,
ngỡ chìm sâu trong vùng tâm thức,
phượng vĩ thầm lưu bao niềm riêng.

Đà Lạt, 1967.
CÁT SỸ

Thầy Hoàng Công Bình kính thân.                              .

”Mùa trọ học” là dòng tùy bút ghi lại những ngày tôi học đại học và đi dạy, cách đây hơn nửa thế kỷ, từ năm 1962. Đôi khi, trở lại ngôi trường cũ, tôi như người xa lạ.                           .

HẠT MƯA

TÔI.

Ngày tàn thu hạt mưa rơi lê thê.
Người đội mưa ra đi không thấy về.
Dù hẹn ước chờ nhau nơi xóm học.
Dù tàn phai phượng vĩ bao mùa hè.

Về trường cũ dầm mưa một mình tôi.
Áo trắng xưa thư sinh đã xa vời.
Âm mưa rơi rạt rào lùa tiếng trống.
vào lặng thinh trong ký ức bồi hồi.

Trang lưu bút ngủ quên dưới bụi mưa.
Giọt mắt nhòe màu mực dòng thư xưa.
Nhưng nỗi nhớ một thời đâu nhòa nhạt.
Dù tháng năm ru buồn mưa lưa thưa.

  CÁT SỸ
[Đoàn Thuận]

HOA BÊN SÔNG

Cây vông thắp lửa cuối chiều
ta qua phà Bắc nhớ nhiều kênh Nam
ai  ngồi giặt áo bên vàm
tóc mây thả hết hương tràm một mai
[Vàm Cỏ, 1970]

Lau thưa nghiêng trắng sông dài
con thuyền gác mái bên ngoài hoàng hôn
dòng trôi chia nửa dáng cồn
hoa bằng lăng rụng tím hồn mênh mông.
[Sông Dinh, 1971]


Hoa bần hồng một dải sông
nhị bần bay tím lồng trong cây mùa
cuối vàm một mái chèo khua
giọng hò êm tưởng như lùa hương đi.
[Sông Hậu, 1972]

Quanh co dặm vắng sông quê
lặng trong rêu đá tiếng ve nhạt nhòa
lời buồn yên tĩnh trong hoa
bóng chiều rơi chậm thuyền xa bến Kiều
[sông Kiều, 1973]

Tạnh sông dải lụa ngang chiều
một làn khói mỏng làm xiêu cây bờ
ngờ như chiếc lá bâng quơ
tiếng chim se sẽ chạm hờ vào hoa.
[La Ngà, 1973]

CÁT SỸ

DÒNG SÔNG THÁNG GIÊNG

Tháng giêng đến, dòng sông về xa thẳm
gộp đá xanh hồn nhiên thêm xanh rong
người đã đến tạc thơ vào hồn đá
từng lời chiều thả lạnh xuống hư không.

Tháng giêng đến, dòng sông qua bến đổ
con đò neo chờ khách hẹn sang ngang
chèo gác mái mỏi mòn bao năm tháng.
chỉ lục bình tím ngát trôi bàng hoàng.

Tháng giêng đến, dòng sông dài vẫn chảy
lau trắng bờ hoa dại nở ngàn năm
người đã đến đã quên dòng sông ấy
ta về treo nỗi nhớ dưới bóng râm.

Tháng giêng đến, dòng sông không tiếng sóng
dưới chân chiều sương phả mờ bên đồi
sợi khói mỏng vắt ngang lời đã cũ
thoáng âm buồn chạm nhẹ xuống dòng trôi.

Sông Vàm Thuật,1966
CÁT SỸ

THỜI GIAN

Một đời như thoáng mây bay.
Sóng bạc đầu vỗ tháng ngày mặn môi.
Nắng mưa làm mỏi bước đời.
Tưởng đâu hụt hẩng giữa thời gian thôi.

THỜI GIAN 2

Không người, năm tháng vẫn trôi.
Không thời gian, không ai ngồi chờ ai.
Không sao Hôm, không sao Mai.
Không sầu, không thấu ngắn dài một đêm.

BỤI THỜI GIAN

Bụi thời gian lấp nụ cười.
Trăm năm đâu biết phận người mỏng manh.
Rừng xa lá có còn xanh.
Tóc ta sao cứ từng canh trắng nhiều.

NGOÀI THỜI GIAN

Duyên tiên như thể mộng đời.
Vút bay cánh hạc lưng trời Thiên Thai.
Ngập ngừng nửa bước trần ai.
Người xưa chốn cũ đã ngoài thời gian

ĐOÀN THUẬN

HOA RỪNG LA GI
[kính tặng Thầy Nguyễn Tấn Hưng]

1.
Gò anh đào sông Dinh, truông Mây.
Mõm Đá Chim, rừng dầu Dinh Thầy.
Hồ Núi Đất, Sông Hàn, Động Chú.
Hoa bốn mùa hương ngát cỏ cây.

Rừng hoang vu cây dầu cao xanh.
Cho phong lan tầm cư yên lành.
Cùng cúc dại, muồng vàng, mua tím.
Đầm, đìa sen, láng cỏ lương, tranh.

Hoa dầu bay, hoa bằng lăng rơi.
Mai bên ngàn, sầm sim lưng đồi.
Tràm, nguyệt quế, dã quì, dạ lý.
Hương hoa rừng thơm lựng đất trời.

2.
Qua bao mùa lưu ly tha phương.
Đường hoa mơ đưa tôi về trường.
Sân phượng vĩ Bình Tuy công lập.
Cùng em thơ cấy chữ ươm hương.

La Gi, 10/1972
CÁT SỸ

HẠT MAI NÚI

1.
Hạt mai núi kẹt trong kẽ đá,
bị cát bùn bụi đất phủ đầy,
không bóng nắng, giọt mưa thưa nhỏ,
thân khô gầy theo kiếp cỏ cây.

Ngày nắng gắt, đá hanh hao nóng,
mùa lũ mưa, nước ngập ngụa tràn,
hạt vẫn như dần mòn héo hắt,
trước rừng mai vô tư bạt ngàn.

Nương đất trời vạn hữu sinh sôi
có lẽ nào nhân quả luân hồi,
đã bỏ quên phận mầm hoa cỏ,
để hạt cằn teo tóp bên trời.

2.
Cơn địa chấn chuyển rung sông núi.
Đá tan hoang, sâu chết dưới mưa.
Mùa vần xoay, hạt mai đất cũ,
thầm nẩy mầm ươm hoa hương xưa.

ĐOÀN THUẬN

TÂN SỬU
nhớ
MẬU THÂN

Xưa,
Mậu Thân về, bao người đi.
Người thầm phiêu bạt xa kinh kỳ.
Người vào cát bụi trên Đất Mẹ.
Thôn xóm lệ rơi buồn biệt ly.

Pháo im, súng nổ rền liên miền .
Bàn thờ nhang khói, hương thiêng liêng.
Thay lời cầu nguyện cùng trời đất.
Mong quê Miền Nam được bình yên.

Nay,
Tân Sửu sang, người cách ly.
Phòng dịch, ăn Tết trong thầm thì.
Dân oan Thủ Thiêm vẫn tâm niệm.
Dù đã nát tan chùa Liên Trì.

Thủ Thiêm, 2021
Đoàn Thuận

MỘT ĐÓA MAI

Âm dương đắp đổi bốn mùa trôi.
Cỏ cây hoang sơ tràn núi đồi.
Nhựa nguyên chuyển dịch dòng sắc thể.
Phấn hương ong bướm bay ngang đời.

Hạ bạt mưa giông nắng thu vàng.
Đông xám sương lam lạnh tràng giang.
Móc trắng vương hờ nhành liễu rũ.
Xuân ấm chồi non xanh quan san.

Lá thắm như nhiên lạc bến mê.
Lộc trời buông thả xuống sơn khê.
Cội mai ươm mầm nứt mộng biếc.
Một “đóa vàng thơm” mong én về.

Mùa đi hương nhạt hoa tàn phai.
Bụi lầm hóa thạch lối thiên thai.
Tiên nữ đào tơ dâng Lưu Nguyễn.
Thấp thoáng mây mưa giấc mơ dài.

CHIỀU CUỐI NĂM

Ngày tháng đuổi ta hoài sau lưng.
Ta chạy ta đi, bóng chập chùng,
đò đầy ga xép, tầm đất hứa,
ngoảnh lại, tàn phai sắc núi rừng.

Rượu đế uống suông bên đóa hồng.
Dăm người bạn cũ ngồi cuối đông.
Nhà bên thơm lừng hương nếp mới.
Đáy cốc dần vơi chiều tĩnh không.

Đàn bầu nhịp khúc điệu lam thôn.
Tình cũ nghĩa xưa thấm vào hồn,
dù xa bến nước con thuyền nhỏ,
dù đời lỡ độ tuổi hoàng hôn.

Cát bụi pha mù bóng chiều tà.
Vắng lặng đôi bờ chuyến phà qua.
Đường thôn gió thổi vàng hoa cúc.
Tiếng vó ngựa nhoài chân núi xa.

Thuận Yên,1969
CÁT SỸ

 

CHIỀU ĐA THIỆN

Tôi tựa lưng cây thông trên đồi vắng,
nhìn ánh ngày theo dòng suối trôi đi,
bờ cỏ dại mờ dần trong sương lạnh,
nhành phong lan lơ lửng trên dã quì.

Hương bâng quơ bay ngang không gian tịnh,
khiến lòng như hư ảo mối sầu vương,
nguồn phấn thông hay từ hoa tàn rụng,
từ mùa đi phiêu bạt xa cố hương ?

Chiều Đa Thiện tự thân thầm an ủi,
vẫn bình thường dù sum hợp phân ly,
dù rượu ngọt còn bao nhiêu cặn đắng,
đã mềm môi từ buổi nọ xuân thì.

Tôi lẫn tưởng mùa xanh xưa còn đó,
dĩ vãng buồn như một bóng sương phai,
như bạch hạc soi mặt hồ tĩnh lặng,
đâu biết đời qua bao đỗi dặm dài

Đơn Dương,1967
CÁT SỸ

 

VỀ MỘT BẾN SÔNG

Dù thành phố bao lần thay đổi,
vẫn không quên bến nước đò chiều,
nơi em đã qua dòng sông ấy,
cũng là nơi để lại cô liêu.

Xưa, hẹn nhau tìm về đất trọ,
miền địa lan, một cõi yên nhiên,
hương thanh khiết tịnh không tên tuổi,
xa cách đời dâu bể muộn phiền.

Nếu, em về sang bờ bến cũ,
thì xin đừng gọi chuyến đò xưa,
người đưa đò sớm thành lú lẫn,
và con thuyền mục nát dưới mưa.

Đã khuất nẻo vào hồn cổ tích,
cỏ hoa tàn mê muội dưới trăng,
bao lá chết rụng đầy mấy phố,
cõi hẹn chờ nay đã lạnh băng.

Bến đò Sáu Say, 1968
CÁT SỸ

 

TỰ VÔ CÙNG

Đêm hoài niệm không ai về thắp nến.
Lời nguyện cầu xin gửi lại hôm mai.
Bởi thạch thảo nghìn trùng hương vô lượng.
Dù mộng hồn mòn cũ, lối mơ phai.

Tình đầu đời ngây ngô tựa hoa dại.
Nhựa thanh xuân nhuận thấm màu như nhiên.
Thoáng bụi lầm phả lạnh lên búp nõn.
Sắc mù sa theo sương cõi lâm tuyền.

Người cứ đến dạo chơi đồi hoang tưởng,
Hồ liễu thưa theo nắng cát gió mây.
Ta trót dại một lần hăm hở đến.
Rừng suy tàn khuất nẻo những hàng cây.

Trái đất quay lạnh lùng quanh trục ảo.
Ngày và đêm nối tiếp tự vô cùng.
Đâu cần biết đời treo ngang sợi mỏng.
Chạm mé nào cũng thật mông lung.

Đà Lạt,1967
CÁT SỸ

 

ĐÂU NGÀY THÁNG

những dòng sông mùa đông
mây trắng trên núi không
đâu cần chi ngày tháng
bình thản vào mênh mông.

biển vẫn luôn dạt dào
tìm mãi bờ ngọt ngào
gửi tấc lòng hạt mặn
vào cõi ngàn xanh dâu.

cội mai ngoài quan san
đâu cần mong xuân sang
buông thả hương thanh khiết
theo gió sương bụi vàng.

người đến từ hồn nhiên
cỏ hoa cõi tịnh yên
biết chi lòng ta xót
trước phai tàn vô biên.

La Gi,1968
CÁT SỸ

CỘI MAI XƯA

Trời đông hơi lạnh chờ xuân sang.
Riêng ta lụ khụ còn lang thang.
Xa xôi quê mẹ ngày xế bóng.
Ở trọ xứ người buồn miên man.

Nhớ cội mai xưa sân nhà vườn.
Như thầm đón ta ngày hồi hương.
Nhụy hoa thơm dịu tóc du tử.
Sau mùa phiêu bạt cùng gió sương.

Sân trường phượng vĩ màu tơ vương.
Bụi phấn bụi hồ, lẫn bụi đường.
Lỡ thầy lỡ thợ, đành lỡ độ.
Từ giã cội mai, lại tha phương.

Ta nay lơ mơ phận đồ già.
Bút nghiên bụi bám thêm xót xa.
Con chữ nằm im trang nhật ký.
Lưu dấu cội mai xuân quê nhà.

Thảo Điền,2014
Đoàn Thuận

BÊN TRỜI

Chưa bao giờ, ta từ biệt con đường xóm mạc đã qua
cũng chưa quên, bến thuyền vắng, đêm chia ly sân ga
dù nơi ấy, đâu cớ gì, biết còn ai mong ta trở lại
bởi cõi người, muôn đời, tàn nở những mùa hoa .

Mẹ thôi tựa cửa, mỏi mòn, nhớ đứa con tha phương
mái cũ, đổ xuống hoàng hôn khói lửa, tan tát u buồn
ánh đèn khuya, bếp lửa chiều, cùng mẹ hiền khuất núi
bờ cỏ, giếng thơi nền gạch, tự bỏ dại hoang đường.

Bạn xưa, một thời bắt bướm hái hoa, rong chơi về đâu
mùa mưa rừng, lạnh buốt tuổi thơ, bạt ướt mái đầu
vụng biển xa, bấc thổi, sóng lấp dấu chân ngày bé bỏng
tình ngây ngô, như viên sỏi mắc cạn, bên gành đá rong rêu.

Đất quê, nuôi xanh mùa hoa trẻ thơ, thấm giọt mồ hôi
đời xua ta vào gốc khuất, cô đơn phiền muộn, không lời
nỗi nhớ cố hương, theo từng bước mỏi, gió sương lận đận
thầm giật mình, sao ta còn đây, bâng khâng rong ruổi bên trời.

Sài Gòn, 1970
CÁt SỸ

RẤT CÓ THỂ

Ngày có thể dài như thế kỷ.
Khi người đi ước hẹn vì nhau.
Nơi núi cũ một người cô phụ.
Ôm nỗi chờ hóa đá đã lâu.

Người có thể chẳng còn trở lại.
Nơi quê nhà mẹ mãi mong con.
Câu thơ cũ ru buồn nhịp võng.
Mảnh trăng gầy lơ lửng trên non.

Hoa có thể tàn mau trong tối.
Lá non xanh rụng trước thời gian.
Dăm ngọn nến mờ vào quên lãng.
Hương một thời còn trong mênh mang.

Buồn có thể bào mòn nghị lực.
Nhưng chân trời còn một vầng đông.
Rồi một sớm mai vàng rực núi.
Những mái chèo mang theo dòng sông.

La Gi, 1974
CÁT SỸ

LỐI CŨ

Còn gì đâu con đường xưa quen.
Bao mùa qua liễu rũ bên thềm.
Miền hoa cỏ bóng chiều bên suối.
Tất cả rồi ngày tháng cũng quên.

Màu hanh hao theo hương mùa xuân.
Tình thơ ngây rồi cũng qua dần.
Pho tượng trắng bên vườn phố hạ.
Lá dương đầy trên vai bâng khuâng.

Con đò neo bờ cây liêu xiêu.
Lời bên hoa chơi vơi bao điều.
Đời lữ thứ từng đêm thao thức.
Vòng tay buồn hoang lạnh bao nhiêu.

Thôi bây giờ quê nhà xa thêm.
Bầy chim quen vỗ cánh đôi miền.
Hoa dại nở thản nhiên bên suối.
Ngõ về xưa rêu ngủ tịnh yên.

Rạch Chiếc,1962
CÁT SỸ

Thư gửi:  Tiên Đồng, Chí Nam, Marie Nga, Hélène Tu
Quang Thái, Bích Lê, V.Tường, Lý Hạ,…
và quí Thân Hữu.

Cách đây nửa thế kỷ, đặc biệt trong thập niên 60, tôi có ghi đôi điều khi đi học đi dạy, dưới dạng tạp bút. Quí giáo sư, tôi từng theo học ở Đại học Văn Khoa Sài Gòn trước 1975, gọi những dòng ghi chép này là “Tùy bút Cát Sỹ”. Phần lớn, tôi viết tay vào “sổ tay”,“sổ lưu niệm” của quí giáo sư, quí thầy cô và những bạn cùng cảnh ngộ  với tôi, nên ít người biết
Năm 1995, một nhóm bạn cũ đã sưu tầm vài bài ghi về “mùa gió ” khi tôi dạy học ở Hà Tiên, biên tập thành MÙA BẤC BIỂN với tên tác giả Đoàn Thuận. Nhà xuất bản Văn Nghệ Tp.Hồ Chí Minh cấp giấy phép xuất bản và MÙA BẤC BIỂN được giải Dục Thanh lần I. Từ đó, nhiều nhóm Thân Hữu giúp chúng tôi sưu tầm được nhiều bài “tùy bút Cát Sỹ” đã thất lạc sau 1975.

Đến năm 2014, chúng tôi sưu tầm được 26 tập “tùy bút văn vần” với bút hiệu Đoàn Thuận [từ 1995]. Riêng tập “Mùa trọ học” vẫn giữ tên Cát Sỹ, theo gợi ý của nhiều thân hữu thời thập niên 60.
Dù có giấy phép xuất bản [17 tập], nhưng chúng tôi chỉ in bằng vi tính với số lượng hạn chế, lưu hành trong thân hữu vì không đủ điều kiện phát hành rộng, hơn nữa, hiện nay tôi không ở trong hiệp hội hay câu lạc bộ văn học nghệ thuật nào.
Với thư này,tôi xin phép trả lời chung về câu hỏi:  “Sao không thấy thơ Đoàn Thuận trong các tiệm sách, hay trên văn đàn ?”.

Ngày xế bóng cuối đời, tôi lẩm cẩm nghĩ rằng: dòng “tùy bút ngắn gọn” như dòng “lưu niệm” của chúng tôi, bạn đồng song đồng nghiệp, thời xa xưa. Nhờ những dòng tùy bút cũ này, chúng tôi gặp lại nhau dù đang lưu lạc, lưu vong khắp nơi trên trái đất đầy cát bụi và được làm quen với quí bạn trẻ, qua internet..

Tôi rất NHỚ BẠN.

Bên tách cà-phê ngồi một mình.
Vườn xưa đợi nắng ấm bình minh.
Nghe chim khách hót trên cành trúc.
Nhớ tiếng cười vui thuở học sinh.
Gác trọ chiều mưa câu chuyện phím.
Đường hoa áo trắng mối tâm tình.
Tôi nay tóc bạc còn lưu lạc,
Bạn khuất, thầy xa, chữ lặng thinh.

Gò Vấp, 2021.
ĐOÀN THUẬN

TIẾNG SÁO

Thôi những ngày đó nhớ chi em.
Những ngày đau khổ với ưu phiền.
Hãy quên như cánh bèo trên nước
về cuối sông trôi sóng triền miên.

Vì những ngày đó đã đi qua
Những ngày lo sợ nỗi chia xa.
Tóc em bay rối trong chiều tối,
Cùng hẹn nhau sang một chuyến phà.

Vì những ngày đó trở nên xưa.
Nắng mưa dầu dãi biết bao mùa.
Thương nhau nhung nhớ đâu dám nhớ.
Phận mỏng duyên hờ ai đuổi xua.

Hãy để ngày đó theo khói mây.
Đâu còn xa xót với thở dài.
Em về quê cũ nơi nhà mới.
Tiếng mẹ ru con, tiếng sáo bay.

Mỹ Tho,1969
CÁT SỸ

.

CHIA TAY

Chia tay người ở ga đêm.
Sương khuya mờ bóng cây thềm gạch rêu.
Về mai chân dẫm lên chiều.
Lá bàng mấy phố rụng nhiều lối quen.

.

ĐÊM PHI TRƯỜNG

Người đi về cõi tha phương.
Đêm phi trường lạnh, mưa buồn sân ga.
Tình đời sum hợp tan xa.
Cầm bằng như cánh hạc qua chiều vàng.

.

ĐÊM LẠNH

Điều gì mất ở xa kia
Để mẩu thuốc tắt đêm chia xa người.
Lạnh đêm sương tỏa nơi nơi.
Thèm một đốm lửa ấm môi cười buồn.

CÁT SỸ
[Đoàn Thuận]

Ở MỘT GA XÉP

Con tàu mang nỗi nhớ qua.
Nhớ, ta nhớ cả đường xa phố gần.

Không mong, chiều cũng hao dần.
Không mong, người đã có lần quên ta.
Tàu dừng, tàu lại rời ga
Người đi, người để lòng ta lạnh đầy.

Xưa nơi lũng phả sương dầy.
Bên nhau ấm giấc mộng đầy hương hoa.
Giờ nhìn từng chuyến xe qua.
Lắng chuông chùa cổ, ngẫm ra mơ hồ.

Ngồi buồn ngắm ngón tay thô.
Lanh canh ly đá nghe khô khốc chiều.
Còi tàu xa hút phiêu diêu
Còn đây ga xép ít nhiều bụi bay.  

Ga Sông Phan,1964
CÁT SỸ

GA VẮNG

Ta ngồi đây giữa ga truông
chống tay cằm ngó sương buông ngoài thềm
một đêm này nữa bao đêm
một thân cát bụi đã mềm nắng mưa.

Ga khuya quán lạnh gió lùa
đèn leo lét bóng như vừa chiêm bao
bây giờ những nặng mai nào
nỗi niềm xưa chật hồn bao lâu rồi.

Đường cây bóng đổ chơi vơi
tàu đi còi rúc nhỏ hồi tiếc thương
xuống đây thức suốt đêm trường
một mình phố lạnh, một đường chia ly.

Nghĩ ta bến mộng thầm thì
trót sinh lầm lỡ tuổi chi muộn phiền.

Ga Bình Triệu, 1964
CÁT SỸ

GA CHIỀU

1.
Sương bay nghiêng phố ga chiều
tàu xuôi bỏ dại bóng xiêu bước về
một bờ hoang đá xanh khe
âm u tiếng gõ kiến nghe cuối rừng.

Dã quì vàng suốt mấy thung
người xa buổi nọ chập chùng bao thu
trả cho người phố sương mù
trả cho ta buổi nắng thu mấy trời.

Nỗi buồn ru đến chơi vơi
lặng trong tình cũ một đời xót xa.

2.
Dường như người tiễn đưa ta
về miền đất cũ nhặt hoa phố phường
nụ cười lẫn khuất trong sương
áo bay trắng cuối dặm đường cỏ lau.

Hương mùa thu muộn phai mau
thản nhiên thềm gạch biếc màu rêu phong
tháng ngày tuột xuống mênh mông
bên bờ chiều tạnh tịnh không dấu người.

Bình Triệu,1966
CÁT SỸ

ĐÊM CƯ XÁ

Đêm cư xá Hỏa Xa
mờ nhạt ánh trăng tà,
âm thầm ngoài hiên vắng,
dạ lý thoảng hương hoa.

Con tàu rời sân ga,
tiếng còi vang âm ba,
đường ray vào tĩnh lặng,
tạm biệt người đi xa.

Sau khung cửa nhà ai,
mái tóc trên bờ vai
che nghiêng nửa khuôn mặt
dáng trầm tư u hoài.

Một khúc nhạc không lời,
âm buồn ru chơi vơi,
bỏ lại đôi khoảng lặng,
trong ký ức bồi hồi.

Cư xá Hỏa Xa Saigon,1965
CÁT SỸ

 

LOÀI HOA TRẮNG

Có một dòng suối nhỏ
lặng lẽ dưới chân đồi.
Có một loài hoa trắng
nở mãi trong lòng tôi.

Em là hoa trắng ấy
vương hương mùa thơ ngây.
Tôi như dòng suối vắng
trôi mãi không tháng ngày.

Suối qua ngàn lau lách,
hoa dại tím đôi bờ,
vẫn nguyên màu trắng ấy,
của tình em ngây thơ.

Êm ả chiều vàng xuống
lặng thinh cội thông già
hương phong lan thầm lặng
dòng suối trôi về xa.

Đà Lạt 1964
CÁT SỸ

TƯỞNG NGHĨ
về LA DẠ

La Dạ, mưa đêm rơi,
rơi nghiêng túp lá tời,
rơi lạnh đường rừng vắng,
rơi mù nơi chân trời.

Mương nước đầm đìa trôi.
Ếch kêu như nghẹn lời.
Sấm rền dài đồng lúa.
Điệu nhạc đêm bồi hồi.

Trường La Dạ thôn xưa,
thì thào qua làn mưa,
tiếng học bài cuối hạ
lâm râm giọt âm thừa.

Gió ru cành dã quì
làm nhớ bao mùa đi,
nhớ trường làng xóm học,
bút nghiên buổi xuân thì.

Giờ đây nơi phương xa,
qua bóng mưa nhạt nhòa,
tưởng nghĩ về La Dạ,
bên nhau dưới mưa hoa.

Nancy,1964
CA!T SỸ

LA DẠ XA

Tôi rời miền quan san.
Đường rừng đầy lá vàng.
Tiễn tôi em nhẹ bước.
Sợ điều gì ly tan.

Men theo đôi bờ hoa.
Trường La Dạ dần xa.
Lưu bút xưa khép lại.
Những dại khờ đã qua.

Bên nhau trên đường dài.
Ước mơ về tương lai.
Dù đôi khi cách biệt.
Với bao nỗi u hoài.

Dòng Suối Trong trôi ngang.
Một bờ chờ tôi sang.
Một bờ em dừng lại.
Nỗi buồn như miên man.

La Dạ, 1966
CÁT SỲ

CHIỀU HOANG

Chiều bỏ đi trước trang thư ép hoa
vài con chữ nằm yên, tháng ngày qua
và hạt bụi ngủ vùi trong đất cũ
bên thềm hoang loang lổ sắc rêu nhoà,

Chiều bỏ đi về xa phía chân trời
dòng thư xưa tuột khỏi bờ môi người
tơ vàng mỏng chạm lên ngàn tiếng trúc
một dòng trôi vô tận cõi không lời.

Chiều bỏ đi leo lét đèn sân ga
tiếng gió ru lặng lẽ suốt mùa hoa
đêm quánh đặc bóng bờ cây dương liễu
ai trờ về, ai vội gõ guốc qua.

Chiều bỏ đi con thuyền neo bờ xa
đường bên kia còn lại bóng nếp nhà
ngàn bông cỏ thức chờ trăng lặng tĩnh
phố bên này lẫn khuất giữa sương pha.

Chiều bỏ đi thật xa chỗ tôi ngồi
khói và tro, từ lửa, đã chia đôi
tàn đóm thuốc không đủ soi dòng chữ
chỉ bừng lên khuôn mặt thuở xa xôi.

Sài Gòn 1964
CÁT SỸ

DÒNG THƯ CŨ

Tôi về đọc lại dòng thư cũ
Vẫn thấy em xưa mãi thật gần
Như mới dạo chơi trên đường vắng
Nụ môi còn đọng thoáng bâng khuâng,

Em đã xa tôi mùa mưa ấy
Hoa ép vào thư đã tàn lâu
Mà sao cứ ngỡ vừa đêm trước
Trên lá thư em mực đong sầu.

Em đến đùa chơi rồi đi mãi
Bỏ lại hồn chiều mùa cát bay
Bến xuân dòng nước con đò nhỏ
và lá thư phai theo tháng ngày.

Thư em thuở trước hồn nhiên quá
Kể cả nỗi buồn cũng hồn nhiên
Em đi nước mắt thành mây khói
Tôi với Trương Chi một bóng thuyền.
         
          Lagi, 1968
          CÁT SỸ

 

TRÊN ĐỒI THÔNG

Giữa một đồi thông vắng
giữa một trời sương sa
nhành phong lan thầm nở
hương toả ngát chiều tà.

Nhạc rừng thông dịu lắng
âm buồn ru không lời
hoa lừng hương tóc cũ
nỗi nhớ người xa xôi.

Tôi qua đồi một mình,
cùng cỏ dại lặng thinh
sương vương mờ kỷ niệm
thời áo trắng thư sinh.

Đà Lạt, 1967
CÁT SỸ

DỐC SƯƠNG MÙ

Dốc mù sương kín non xa
Vội người, ta chẳng vội qua từng chiều
Chợt nghe thung dưới đìu hiu
Cánh chim về khuất bóng xiêu lối rừng

Dốc mù bay gió qua bưng
Ngựa nhoài vó, cát bụi chừng ngủ yên
Mây chao bóng xuống một miền
Và mưa nắng gửi ưu phiền lại ta.

Dốc đời còn ở thật xa
Và ta đi mãi chưa qua hết mùa
Nắng đầy lên cánh hoa mua
Thoáng bâng khuâng cũ nhẹ khua trong hồn.

Chuyến xe đổ nhịp về thôn
Đá lên rêu, phố hoàng hôn lên đèn.
Bên đồi một đốm lửa nhen
Ta nghe ta gõ bước quen dốc đời.

Đà Lạt,1968
CÁT SỸ

QUÁN MÙ SƯƠNG

Ngồi bên quán gió đồi chè,
Một mình với tách cà phê đen đường.
Ta như khách lạ tha phương,
Thăm miền thơ mộng phố sương anh đào.

Nhớ lời ước nguyện ngày nao.
Trang thư nét chữ theo màu hoa phai.
Người đi xa khuất dặm dài
Còn đây cõi lạnh mù mây mịt mùng.

Dốc mờ đường tối xuống thung.
Một ta khắc khoải chờ lung linh đèn
Chín chiều một mái tóc quen.
Ta thu ta lại để chèn thêm đau.

Buồn thầm từ nọ về sau.

Đà Lạt,1966
CÁT SỸ

ĐƯỜNG SƯƠNG MÙ

Ngày vừa sang Đà Lạt trời mù sương,
như phấn trắng bay ngang Hồ Xuân Hương.
như mây bạc bồng bềnh quanh mái phố.
Người đi về ẩn hiện bên vệ đường.

Trời đất lạnh, hơi mây như tĩnh không.
Sương sa mù lảng đảng qua vườn hồng.
Đường hoa đào vòng quanh khu biệt thự.
Mờ ảo bờ cỏ dại nơi đồi thông.

Bao nữ sinh áo trắng Bùi Thị Xuân
dáng co ro sân trường lạnh bâng khuâng,
ôm cặp da áp sát vào lồng ngực,
như mong hơi sách vở ấm lên dần.

Nắng mới lên, sương đọng trên đài hoa,
như lệ buồn trên tay ngày chia xa,
như cánh hoa thầm ép trong lưu bút
dù hương xưa theo sương gió nhạt nhòa.

Đà Lạt,1966
CÁT SỸ

ĐƯỜNG CHIỀU MƯA

Mưa rơi mờ đường chiều,
như sương mù phiêu diêu
từ khung trời mây nước,
phả lạnh bờ cô liêu.

Mưa thu hay mưa ngâu
ly tan hoa sầu đâu
nhụy phấn bên cỏ dại
cánh mỏng bay về đâu.

Nhành hoa xoan đong đưa
theo mưa phai hương thừa,
tím tái từng cánh rụng,
tiễn đưa rời quê xưa.

Chia phôi đôi con đường
bờ mi sầu tơ vương.
giọt lệ trời lưu lạc
trên tóc người tha phương.

Rạch Chiếc,1962
CÁT SỸ

ĐƯỜNG GIÓ MƯA

Hoa tàn bâng khuâng rơi,
hương nhu thầm bồi hồi,
phong nhụy mùa xanh biếc,
vàng úa trong pha phôi.

Sương sa mù đồi cây,
đâu hay hương theo mây,
về chân trời xa thẳm,
luyến lưu gì phương này.

Con đường về trường xưa,
đôi khi mờ trong mưa,
thấp thoáng bờ hoa dại,
thoang thoảng chút hương thừa.

Người đi qua đời tôi
chia ly buồn không lời,
cánh hoa ép lưu bút
nhạt nhòa giọt lệ rơi.

Đơn Dương, 1964
CÁT SỸ

MỘT KHÓM HUỆ

Khóm hoa huệ trắng nơi góc vườn
như bị bỏ quên trong gió sương,
bên bờ dậu nát cây râm bụt,
thầm lặng nở hoa thoảng nhẹ hương.

Lá xanh như thể những cánh tay
mỏng manh tự dưỡng ngày thêm dày,
chở che bao hoa trước mưa nắng,
cùng sống bên nhau dưới bóng mây.

Đóa nở cánh đầy màu trắng trong,
hương trầm thanh khiết, nhụy pha hồng,
cội rễ tích tụ nguồn nhựa luyện,
ươm mộng nẩy mầm ra búp bông.

Mùa màng trôi qua theo tự nhiên,
đời hoa tàn nở còn chút duyên,
mộng thầm trụ lại cùng cây cỏ,
dù mầm tươi thắm hay rã riêng.

Búp thức sớm mai ngủ đêm thâu,
cuống non vươn lên, già cúi đầu,
dáng như cầu nguyện với trời đất,
vạn hữu yên nhiên trước bể dâu.

An Nhơn,1964

HUỆ TRẮNG
trước
DÔNG TỐ

Dông tố bão bùng ào ạt qua.
Sấm rền gió hú, trận mưa sa.
Bãi bờ sạt lở, rừng nghiêng ngả.
Thương hải tang điền cõi ta bà.

Lũ quét sóng thần tạt vào đời.
Cỏ cây hoa lá, cành tả tơi.
Nhà tan cửa nát, người ly tán.
Xóm mạc điêu linh, bóng ma hời.

Giữa cảnh tan hoang, đời buồn tênh.
Một búp huệ non mộng nhô lên.
Cánh trắng, nhụy hồng, hương thơm thảo,
Bám đất nương thân, dù gập ghềnh.

Nước nổi bóc hơi thành mây trời.
Lặng trầm cát bụi về xa khơi .
Ân hoa huệ trắng vẫn thanh khiết.
Ngỡ như hương nguyện thầm không lời.

Sài Gòn,1968
CÁT SỸ

CỎ HOA

DU TỬ

Du tử bé con rời quê nhà,
ngu ngơ thơ thẩn dặm đường xa,
lần bước làm quen cùng con chữ,
buồn vui lặng lẽ với cỏ hoa.

Từ xóm tản cư, trong rừng sâu,
về làng quê nghèo, trên lưng trâu,
theo hoa học lóm con chữ đói,
bên thềm lớp bụi mái bích câu.

Trường lá cành nôm cạnh đầm sen,
gác cây hoa xoan, thời sách đèn,
quanh mùa hoa nở hương thơm thảo,
đưa đón đi về như bạn quen.

Nằm trong lưu bút ngày hạ tàn,
phượng hồng, huệ trắng, cúc dại vàng,
mắc cở, sầu đâu, bằng lăng tím,
forget me not, dù ly tan.

Lá sen ngày nao thay tờ thư,
đôi dòng ghi nhớ lời giã từ,
khi xa xóm mạc, lìa đồng ruộng,
lưu niệm mang theo đường phiêu du.

Cù Mi, 1964
CÁT SỸ

GIẤY LÁ SEN.

Chiếc lá sen khô thay giấy bao,
ép phơi dưới nắng vàng bạc màu,
mặt lá nhạt nhòa sắc rêu biếc,
thân còn non nớt dần xanh xao.

Hàng rong bán dạo, gánh loanh quanh.
Lá làm giấy gói sôi đậu nành,
bao quanh bó rau, xấp trầu tía,
bọc túm thuốc rê, gói trà xanh.

Lá như giấy dó của cụ đồ.
ghi câu đối đỏ nét chữ thô,
khắc dòng thư pháp kiểu Việt Hán,
ký tên lưu dấu buổi dại khờ .

Lá sen từ đầm vào chợ trời
đôi khi theo khách về xa khơi,
lá tròn giữ nguyên gói hàng hóa,
cắt thành trang vở nơi trường đời.

Sa Đéc, 1969
CÁT SỸ

LÁ SEN GIÀ.

Ngó sen lên cao ngóng mây trời.
Ngàn năm mây trắng lửng lơ trôi.
đâu hay trong đầm, dưới liễu rũ,
lá sen tàn tạ màu pha phôi.

Bao mùa hanh nắng, mù sương pha,
bão rớt, mưa bay, gió lùa qua,
mặt lá xanh non dần vàng úa,
cằn cỗi nương thân búp nõn nà.

Mặt nước nâng lưng lá tan hoang.
dưới đóa sen hồng hương dịu dàng
bên cọng ngó nghiêng bầu trời rộng
xanh non thơ mộng như xa ngàn.

Lá già khô héo, rụng, rã rời,
tách ra từng mảnh, rách tả tơi,
mảnh chìm đáy nước thành bùn đất,
mảnh trôi mênh mang luôn chuyển dời.

Vạn hữu như nhiên tự phân thân.
Sen, lá tự tàn mụt nát dần
lặn vào lòng nước bên cội rễ.
dưỡng nuôi mầm mộng búp thanh tân.

Hà Tiên, 1969
CÁT SỸ

LÁ SEN NON.

Búp lá sen non trong lòng đầm.
trong dòng nước lạnh trôi âm thầm,
từ giã bùn lầy nơi gốc rễ,
vươn lên nhìn mây bay xa xăm.

Búp nở mặt xanh đón nắng vàng.
Thân tròn chạm nhẹ lớp bèo hoang,
cùng đám rong rêu, lục bình tím,
làm quen hiền hậu với lác bàng.

Đôi khi mông lung giữa đêm trường,
vô tình lá nõn hứng giọt sương,
mềm mại lăn êm khi gió nhẹ,
lá biếc sương lam thoáng vấn vương.

Lá ru sương buồn điệu lắt lay,
bên nhau qua khuya chờ ánh ngày,
nắng mai soi ấm gọi sương thức,
bốc hơi rời lá theo nước mây.

Lá tròn dưỡng dục búp nõn hoa,
thoảng hương thanh khiết bao chiều tà
Ngó nhìn Tim sen lưu tình Hạt,
yên nhiên trầm tích giữa ta bà.

Hà Tiên,1969
CÁT SỸ

LÁ SEN

CÁT BỤI

Một lá sen tròn như nia con,
rời xa đầm xưa, luôn mõi mòn,
trôi nổi bồng bềnh nơi hồ vắng,
mưa dầm nắng quái thêm héo hon.

Qua bao mùa đi đời lang thang,
nước thấm sương pha màu úa vàng,
dần dà thân vướng đầy cát bụi,
phận mềm nặng nợ tình cưu mang.

Gió chướng thổi bay bụi xa vời.
Mặt hồ in bóng vòng rụng rơi,
lặng thầm nhập cuộc vào bùn đất.
trầm ngâm đáy nước, khuất mây trời.

Cát sạch bụi đời, còn lơ mơ
nằm trên thân lá trôi vật vờ,
chờ ngày qua bến bờ dâu bể,
thoát thời phiêu bạt, phận nương nhờ.

Nia sen chở cát dạo quanh hồ.
nước dâng dạt vào rễ cây khô,
ngụ tạm dưới trời, bên rừng đước,
rã rượi lắng vào cõi hư vô.

Kênh Vĩnh Tế,1969
CÁT SỸ

SEN VÀNG

SƯƠNG LAM

Sen vàng khô cong trên dòng kênh,
mang theo sương lam tròn không tên.
bên rìa rừng đước, mùa nước nổi,
gió ru hơi lạnh qua trăng đêm.

Sen cùng sương trôi trong âm thầm,
đường về chân trời còn xa xăm,
cỏ hoa cây lá đầm mưa gió.
mùa đi phận chuyển bóng dương âm.

Màn khuya tan đi, hừng đông về.
Nắng mai soi ấm bến mộng mê
Sen héo, sương tan theo mây nước.
Đôi giọt mưa thừa rơi lê thê.

Sương như hơi mây bay về trời
Sen thầm ẩm ướt nát tả tơi
Phân ly lưu lạc vào đôi cõi.
Sen lắng đất bùn, sương chơi vơi.

Kênh Vĩnh Tế,1969
CÁT SỸ

TIẾNG ẾCH XA

Gác cây đứng cạnh bờ ao,
Chiều yên lắng tiếng rì rào mưa thu.
Vọng về từ cõi mịt mù,
Lời ca ếch nhái, tiếng tu hú buồn.

Dế mèn gáy nhỏ ngoài truông.
Quanh ao nhái bén nhại tuồng hát xa.
Ềnh oang trầm bổng âm ba.
Ểnh ương rền rĩ bên hoa lục bình.

Ngó sen từ đáy ao sình,
ngẩng lên nghe ếch tâm tình trong mưa.
Dưới nhành liễu rũ lưa thưa,
Nhái bầu chẫu chuộc lịu thừa chàng hiu.

Lẫn trong tiếng giọt mưa chiều,
Đàn ca ếch nhái thêm hiu hắt buồn.

Rạch Chiếc,1962
CÁT SỸ

THUYỀN SEN
chở DẾ MÈN

Bờ kênh cho neo chiếc lá sen.
Trên chở xác chết chú dế mèn.
Lá khô cong đậm màu rêu biếc.
Dế nằm úp mặt cánh bóng đen.

Sen như thân phận lá thuyền nan.
Gió lùa vào giữa đám lác bàng.
Bên cạnh lục bình hoa tím ngát.
Bèo dạt cỏ vương chờ đưa tang.

Đắp trên thân dế một lá vàng.
Làn sương mù bay như khói nhang.
Con chim bói cá trên nhành đước
Hót lời tiếc thương âm khàn khàn.

Cá sặc cá trê trong lòng kênh.
Đội đưa thuyền sen vào bồng bềnh.
Bàng lác liu riu thầm tiễn biệt.
Lục bình bèo rong trôi buồn tênh.

Hà Tiên,1970
CÁT SỸ

GIỌT SƯƠNG
trên CHIẾC  LÁ

Chiếc lá vàng khô bên bờ mương.
Nằm trên thân lá, một giọt sương.
Gió hiu hiu thổi lùa cỏ rối.
Lá cong che kín sương đêm trường.

Ôm sương vào lòng, sợ sương tan
thành hơi nước mọng bay mơ màng.
bỏ quên lá úa trong khô khốc,
mù mịt phiêu diêu theo gió ngàn.

Sương lam tròn hạt với lá vàng.
như cùng ru nhau nơi quan san,
cho dù phận sương từ bóng nước,
thân lá lìa cành khi thu tàn.

Giông tố qua đồi, sấm âm vang.
Gió hú mưa rơi rừng hoang tàn.
Lá cỏng sương bay về xa khuất,
vào giấc thiên thu mộng địa đàng.

Thủ Thiêm, 1965
CÁT SỸ

 

LÁ DONG KHÔ

Một chiếc lá Dong khô
lênh đênh trên mặt hồ,
thân phủ đầy cát bụi,
phận trôi nổi vật vờ.

Nắng cong lên thành thuyền.
Mưa bằng ra bè nghiêng.
Cát Bụi dần buông thả
vào hồn mùa như nhiên.

Bụi lắng xuống đầm lầy,
Cát ôm gốc cỏ cây,
chuyển hóa sang bùn đất
theo dâu bể vần xoay.

Dong chia tay Đất Bùn,
rời Cát Bụi mông lung,
bỏ quên hình bóng Lá,
Rừng xưa xa chập chùng.

Bè Dong trôi lang thang,
bạn cùng đám Lác Bàng,
thân với cánh Bèo dạt,
dưới trời mây mênh mang.

Bến Cát,1962
CÁT SỸ

LÁ SẦU ĐÂU

Heo mây chia tay lá sầu đâu,
hiu hiu thu sang phố Bên Cầu,
thả lá xuống chiều xóm Ruộng Cỏ,
bên bờ Rạch Chiếc, cạnh vườn dâu.

Sầu theo mây bay về nơi đâu,
lệ trời rơi ướt mộng ban đầu
nứt mầm lên cây nơi đất nhớ,
lá ủ hình hài trái tim đau.

Cành xanh chồi non chờ đông tàn
nở bông thơm hương mừng xuân sang,
môi hoa chúm chím nụ cười gượng
trong héo, ngoài tươi dáng dịu dàng.

Từng chùm đong đưa theo gió lùa,
tim tím buồn vương màu hoa mua
lá thắm tình xanh dần tàn úa,
rụng vàng cuối hạ dặm đường xưa.

Sầu không nơi đâu, ở nơi đây,
nỗi niềm chia ly qua từng ngày,
hoa tàn lá rụng lìa cành cội,
du tử tha phương, cát bụi bay.

Rạch Chiếc, 1962
CÁT SỸ

Nhớ về TRƯỜNG LA DẠ 

Dưới mái Trường La Dạ,
ban đồng song, đồng hành, 
ghi lưu bút ngày xanh
khi hạ tàn tạm biệt.

Một lần nhớ mải miết,
dù tùy bút không dài,
dù màu mực dần phai,
vẫn còn trang ký ức.

Vẫn nằm trong tâm thức,
của người đã xa trường,
đã phiêu bạt  tha hương,
lưu dấu bao kỷ niệm.

Khoảnh khắc chân trời tím,
tưởng nhớ về dáng hoa,
hiền dịu trong chiều tà,
trên sân trường Xóm Núi.

Tiếng chim rừng bên suối,
hòa âm lời giảng bài,
theo gió rừng thu phai,
một thời Trường La Dạ.

Nancy, 1966
CÁT SỸ

 

CHIẾC LÁ THƯ

Chiếc lá vàng bay ngang đời tôi,
như trang thư xưa chiều xa xôi,
mờ phai màu mực, nhòe nét chữ,
khô héo ngày xanh, mùa đơn côi.

Lá vàng in hình bìa phong thư
nhưng không lưu hương dòng tạ từ,
chiếc lá, tờ thư, dần rời rã.
Chuyện cũ người xưa, đâu thực hư ?

Đôi khi vương thầm trên tóc mai,
lá ướt sương rơi lệ trang đài,
chạm lên nỗi niềm, buồn ly biệt
trong cõi tĩnh không, năm tháng dài.

Lá thắm trôi xuôi theo dòng đời
Bờ hoang, bên kia xuân hoa rơi,
hạ nắng thu mưa đông giá lạnh.
Bến đỗ, bên này một mình tôi.

Tăng Nhơn Phú,1967
Cát Sỹ

LÁ ME NON

Lá me rơi đầy trên mặt bàn,
sau ô cửa nhỏ, trong nhà ngang,
lặng yên như thể quên ngày tháng.
bên trang sách khép mùa hạ tàn,

Đôi lá dìu nhau về muôn phương,
Khi gió heo may lạnh khu vườn.
Cơn mưa rào rạt qua mái ngói.
Lá sầu đâu trọ cạnh bờ mương.

Bút khô chữ đói, ngày nghỉ hè.
Hồn nhiên bụi phủ “trang lá me”,
lấp dấu mùa đi thân bé nhỏ,
bóng cũ hình xưa đã vàng hoe.

Lũ lụt mưa dông, nước ngập sâu,
hoa rụng xuống đời, trôi về đâu?
Chiếc lá me non tuy màu nhạt,
vẫn như lưu niệm đến bạc đầu.

Bến Cát,1962
Cát Sỹ

THỦY MẶC
trên LÁ BÀNG

Ngoài mương, chiếc lá bàng rơi.
Như tranh thủy mặc gió trời chuyển sang.

Màu nền bức họa nâu vàng
In hình cây lạ nhánh tàn lục xanh.
Hoa chùm hồng nhạt cuối cành.
Sương mờ đôi hạt long lanh lệ trời.

Tưởng chừng mây nước pha phôi.
Mây bay về cõi xa xôi không lời.
Phân ly nước đọng mưa rơi,
Thả buông từng giọt xuống đời bể dâu.

Theo tranh sương gió bạc màu.
Lìa cành xa cội Lá đâu còn Bàng.
Chỉ còn lá úa mùa hoang,
Tả tơi rách nát bàng hoàng dưới mưa.

Tăng Nhơn Phú, 1965
CÁT SỸ

 

ĐƯỜNG LÁ BAY

Giữa đời bao nhiêu chiếc lá bay,
tách rời đọt nhánh thân cội cây
tàn tạ héo khô theo mưa gió,
khuất vào cát bụi trong bùn lầy.

Đôi khi non nớt chợt rời cành
gió hát ru đưa vào cỏ tranh,
xa nguồn nuôi dưỡng dần teo tóp
thành ra phân bón dưới rễ xanh.

Lá bay theo gió mây sương mờ,
rong ruổi phiêu diêu không bến bờ.
Chiếc trôi lênh đênh cùng sông nước.
Chiếc mắc vào gai rách xác xơ

Gân may cọng mắn nhờ thời gian,
lá từ tơ lục sang úa vàng
rời rã rụng rơi rồi mụt nát
đâu chờ đông tận hạ thu sang.

Thân lá phận người, một bóng hình.
Ngắn dài còn mất cuộc tử sinh,
Duyên số tuần hoàn theo nhân quả.
Đất trời luân lưu thoáng nghĩa tình.

Gia Định, 1967
CÁT SỸ 

BIỂN NGẢNH
và  RONG XANH

Sóng tạt vào gộp đá,
trắng xóa bờ rong xanh,
nước tràn khắp mặt gành
tung tóe ven triền động.

Bấc biển lùa gió lộng,
xóa dấu vết chân qua,
của người về khơi xa,
cùng bao điều buông bỏ.

Dưới trăng lũ còng gió
se cát lấp biển đông,
ngăn con sóng bạc lòng
trước tình đời dâu bể.

Cành san hô tàn phế
nằm giữa khe đá thô,
như thân phận mơ hồ
chìm vào cõi vô niệm.

La Gi,1960
CÁT SỸ

ÂM MƯA RƠI

Những hạt nước rơi rơi trên mái tôn
Những âm mưa lâm râm trong hoàng hôn.
Như bản nhạc không lời không nhịp gỏ.
Giao hưởng buồn mênh mang điệu tâm hồn.

Người nhạc trưởng, từ trời, dạo khúc nôi.
Đàn cò theo sương gió đệm âm rời.
Giọt long bong, từng tiếng rơi trên nước.
Giữa trường canh, một khoảng lặng mây trôi.

Sấm đì đùng như trống vổ vang rền.
Rừng trúc ru tiếng sáo, mưa lênh đênh.
Dòng suối con róc rách theo đường cũ.
Bồng bềnh trôi cỏ rác bị bỏ quên.

Mây trời xanh thành hơi nước, mưa tuôn.
Nơi núi sông lạnh buốt cánh chim muông.
Gió hú gọi lá vàng bay vi vút.
Làng quê nghèo đọng lại những giọt buồn.

Dĩ An,1968
CÁT SỸ

           

THẦM GHI ƠN

Bàn tay gầy run trên tim mình,
ghi ơn Thủy Tiên cùng Công Vinh
đã về Miền Trung giữa mùa lũ,
cứu người đói rét trong điêu linh.

Vinh Tiên dìu nhau qua mưa rơi,
mang quà thiện nguyện đến từng người,
không sợ lũ quét càn bờ bến,
không ngại cướp ngày, lũ đười ươi.

Tiên ca lời thầm điệu lâm thôn,
Vinh dừng quả bóng bên cầu môn,
dưới trời, lệ thấm lòng Đất Mẹ,
cùng Dân chia sẻ nỗi đau buồn.

Thủ Thiêm,2020
Đoàn Thuận

Tôi
vào ĐẠI HỌC

Tôi từ biển mặn, đồng ruộng xanh,
một trẻ chăn trâu lên tỉnh thành
dò dẫm tìm đường vào đại học,
nhiều năm ở trọ nơi Sài Thành.

Hòn Ngọc Viễn Đông, miền đất lành.
Phương Nam, đậu lại cánh chim xanh.
Văn minh Lúa Nước nền Âu Lạc.
Thoát ly phong kiến sau chiến tranh.

Dù như du tử phận mỏng manh,
vẫn theo nguyên lý sự vận hành,
Nhân bản Dân tộc và Khai phóng,
mở tầm hiểu biết dưới trời xanh.

Ở nhờ ăn đậu sống âm thầm,
tự thân rèn luyện xa mê lầm,
kèm trẻ tư gia, dạy tư thục.
nương tựa vào người có thiện tâm.

Dân quê dân phố nghèo hay giàu,
tình làng nghĩa xóm động viên nhau,
giúp trẻ học hành đến thành đạt,
xây đời an lạc cho mai sau.

Sài Gòn,1963
CÁT SỸ

VƯỜN RAU

Ban sơ xóm ruộng thôn xưa,
dân quê sinh sống bao mùa buồn vui.

Khi no ấm, lúc ngậm ngùi,
tình làng nghĩa xóm, không nguôi lời nguyền.
cầu mong nước Việt mọi miền,
đồng bào Âu Lạc bình yên thiện hòa.

Vườn Rau khai phóng đường hoa,
đón người khắp chốn gần xa tụ về:
di cư di tản xa quê,
tha phương lưu lạc bộn bề gió sương.

Đến đây dựng ấp lập phường:
lời kinh An Lạc, rau vườn Lộc Hưng,
món ăn Cà Láng, Tương Bần
phố nhà Nam Thái, Chấn Hưng, Nghĩa Hòa…

Thăng trầm thế sự trôi qua
Vườn xưa phố mới chan hòa nghĩa nhân.

Phú Lâm,1965
CÁT SỸ

 

LÀNG HOA

Làng Hoa, nắng mới vừa lên.
Hương theo gió sớm bồng bềnh từng không.
Vùng trời Gò Vắp mênh mông.
Cư dân An Hội tận lòng thảo thơm.

Trồng hoa đâu chuyện áo cơm.
Những mong đem lại hương thơm cho đời.
Bán hoa đâu phải chơi bời.
Sắc màu hình dạng thay lời hân hoan.

Tóc tiên tầm gửi phong lan.
Hải đường dạ lý cúc vàng lưu ly.
Quỳnh ngâu dương xỉ dã quì.
Mai mơ sứ huệ sung si sen hồng.

Sống đời vạn thọ xương rồng.
Cảnh hoa Hòn Ngọc Viễn Đông, Sài Gòn.

An Hội,1964
CÁT SỸ

BẾN CÁT

Đường về Bến Cát trông xa mờ.
Mây thả sợi mưa nhuyễn như tơ
liu riu trên lá hoa vắp trắng,
hương trời thơm thảo bay mơ hồ.

Thôn cũ mái xưa bên vườn đồi
Bờ hoa, luống cải, rạch bèo trôi
Lá úa rụng đầy trong lặng tĩnh.
Mây lạnh lửng lơ lưng chừng trời.

Hang Trong Hang Ngoài bao lối đi.
Gò cao gò thấp bao hoa quì,
như mong du tử về quê mẹ
cho khô giọt lệ mùa chia ly.

Bến Cát thuyền neo dưới mưa đêm,
dưới tàng hoa vắp hương dịu êm.
Sông trôi mấy độ bên bờ liễu.
Hạnh Thông thơ mộng đời êm đềm.

Hạnh Thông Tây, 1962

*

DƯỚI BÓNG HOA VẮP

Đường cây vắp Gò con
đưa tôi về thăm Đoàn,
nơi xóm nghèo Bến Cát
làm nhớ mùa hoa xoan.

Một hàng cây vắp già
che lối nhỏ về xa,
đôi bờ hoa cỏ dại,
hương thơm thoảng chiều tà.

Đôi nhành vắp la đà
đong đưa những đóa hoa
với nhụy hồng cánh trắng
búp non dịu nõn nà.

Lối đi về quanh co
ẩn hiện dưới chân gò
những nương rau luống cải
vài túp nhà lơ thơ.

Mái cũ dưới tàng cây
hoa vắp trắng rơi đầy,
nhưng người xưa khuất bóng
cõi nào nơi chân mây.

Hạnh Thông Tây, 1960
CÁT SỸ

Về LA GI
dạy học

Xa Mẹ từ nhỏ, sống tha phương.
Đi học đi dạy tại nhiều trường.
Nay từ Hà Tiên về quê cũ.
Thầm lặng buồn vui ngày hồi hương.

Những ngày lưu lạc buồn lê thê,
ước mong Đất Tổ được quay về,
dù ở làng chài hay xóm rẫy,
dù phải đối diện với não nề.

Giờ, chuyển nhiệm sở về La Gi
Dạy trường Công lập tỉnh Bình Tuy,
Dạy tư Vinh Tân, Chùa Quảng Đức.
Gặp lại bao người từng chia ly.

Đất xưa hội ngộ Nhóm Tứ La,
thân hữu chăn trâu thời tuổi hoa,
nay cùng tìm hiểu về nguồn cội
Huyền thoại Dinh Ông với Đảo Bà.

Về bên ba má bên mẹ già,
thân bằng quyến thuộc nơi quê nhà,
cùng gia đình nhỏ sống êm ấm.
Giấc mộng ngày nào như nở hoa.

La Gi, 1973
CÁT SỸ

ĐẾN TRUNG HỌC HÀ TIÊN.

Con đường Tô Châu rợp bóng dương,
bờ dậu cây xanh lẫn quỳnh hương,
đàn chim se sẻ trên mái ngói,
như đưa tôi đến một sân trường.

Cổng vào dưới tán cây phượng già.
Cuối hạ còn vương đôi đóa hoa,
đong đưa cuối nhành lá non biếc.
Làm nhớ trường xưa nơi quê nhà.

Quanh sân huệ trắng từng khóm dài,
như lặng yên nghe tiếng giảng bài
tiếng rơi bụi phấn bên bảng viết.
lời văn âm lạc ra hiên ngoài.

Thư sinh áo trắng chăm học hành
Nghiêng trên sách vở mái đầu xanh.
Ghi nhớ bao điều được giảng dạy.
Lặng tĩnh trầm tư về mộng lành.

Trung học Hà Tiên, tôi đến đây,
trong tình thân thiện của cô thầy,
với dòng văn chương Chiêu Anh Các
Hà Tiên Thập Cảnh thơ mộng này.

Hà Tiên,1969

 

RA TRƯỜNG ĐI DẠY

Ra trường đi dạy trong lặng thinh.
Giã từ đèn sách thời thư sinh.
Xuôi về Miền Tây nhận nhiệm sở.
Xa quê, tự lắng tiếng lòng mình.

Vào đời, tôi nguyện cùng cộng đồng
học hành tu tập đạo cha ông
Nhân bản Dân tộc và Khai phóng,
Từ nền văn hiến dòng Lạc Hồng

Ngẫm tôi như sậy trước gió sương.
Thân phận mỏng manh lắm đoạn trường.
Dăm con sâu dữ luôn rình rập.
Đôi đóa hoa xinh dịu dàng hương.

Thế thời lùi lại trong bóng đêm.
Nhìn ra ánh sáng soi ngoài thềm.
Dò dẫm tìm về chân thiện mỹ.
Tự dưỡng tâm an, trí tỉnh êm.

Sai Gòn,1969
CÁT SỸ

GÁC TRỌ CŨ

Gác trọ mùa hạ sang,
sách vở đầy bụi vàng
nằm im bên nghiên bút
nhìn ra nhành cây xoan.

Ngày nao trên gác cây,
bao lần hoa xoan bay,
ước nguyện yêu thương mãi,
dù cay đắng đọa đày.

Lưu bút ngày em đi,
mực tím màu chia ly
ghi lại bao kỷ niệm
bên nhau buổi xuân thì.

Đường mòn còn mình tôi
mắt mờ nhớ lệ rơi
chỉ thấy hoa tàn rụng,
hương lặng tĩnh bồi hồi.

Vườn hoang vắng người về,
liễu biếc rũ lê thê,
bên ao sen chiều muộn
lòng buồn thêm tái tê.

Hạnh Thông Tây, 1965

GÁC TRỌ MƯA

Mưa thu bay mù nơi đường xa
Lâm râm rơi rơi ngoài hiên nhà.
Vô tình tạt nước vào bàn viết.
Ướt đằm sách vở bóng nhạt nhòa.

Trang thư em trao khi ra đi.
Bao ngày nằm im trong phong bì.
Nay gió thổi rách phơi dòng chữ.
Tôi thầm nhận ra lời biệt ly.

Tương phùng ly tan điều bình thường.
Hoa xinh khi tàn phôi pha hương.
Em đến với tôi cùng nguyện ước.
Dù chỉ bên nhau một đoạn đường.

Hồn nhiên mưa rơi đầy vườn hoang.
Rì rào đong đưa nhành cây xoan.
Gác trọ mình tôi bên đèn sách.
Buồn nhìn mưa loang lớp bụi vàng.

Rạch Chiếc, 1962

 

MÙA TRỌ HỌC

Bao mùa trọ học đất Sài Gòn
giúp tôi dần xa tầm trẻ con,
với phận quê mùa sống khép nép,
lủi thủi nương thân giữa mất còn.

Ngày đầu lưu lạc nơi phồn hoa,
trọ lại thôn nghèo ngoại ô xa,
đường đi nước bước còn lạ lẫm,
bạn với sương khuya với chiều tà.

Người có thiện tâm như xót xa,
thương kẻ bơ vơ không cửa nhà,
sẻ chia cơ hội vào đại học.
nhường phần kèm trẻ tại tư gia.

Giấc mơ Kiến Trúc rồi phai nhòa,
đành chọn văn chương với Văn Khoa,
theo Ban Việt Hán vào Sư Phạm,
một mai nối gót ông đồ già.

Thập niên 60 hồn nhiên trôi,
Sư Phạm tiễn tôi về xa xôi,
Trung học Hà Tiên, nhiệm sở mới,
từ giã Văn Khoa lòng bồi hồi.

Đất trọ Sai Gòn như quê hương.
Một tôi du tử lại tha phương.
Kỷ niệm buồn vui trong lưu bút.
Hành trang mang theo chỉ gió sương.

Sài Gòn, 1969
CÁT SỸ

 

GÁC NHỎ

Hẻm sâu xóm nhỏ miền quê,
U già bạc tóc, bốn bề lặng yên.
Gác cây, một góc muộn phiền.
Mái tôn gió nhịp, bóng nghiêng ngoài chiều

Cây xoan già tự cô liêu
Tím buồn rụng xuống bao nhiêu khung đời.
Bút nghiên đèn sách hoa rơi.
Tôi cùng ngày tháng bên trời tha phương.

Trường xa khuất mấy cung đường
Cũng xa hút bóng phố phường phồn hoa.
Đi về lối cỏ sương pha.
Dã quì sen ngó hương trà đón đưa.

Bà Rịa,1960
CÁT SỸ

 

GÁC HOA XOAN

Chiều buông hoa xoan rơi hiên ngoài.
Hương vương bên thềm như mong ai.
Gác trọ bụi vàng trang lưu bút
Lời em từ biệt thêm ưu hoài.

Ngoài xa trên cao mây lang thang
Đôi cành xoan khô lơ thơ tàn.
Còn đôi sợi nắng sau khung cửa.
Nỗi nhớ về nhau thêm mênh mang.

Hoa xoan bao mùa rơi lê thê.
Vườn xưa hoang sơ đường đi về.
Không em côi cúc đời hiu quanh.
Tâm tình thơ dại tựa giấc mê.

Sum vầy ly tan điều vô thường.
Như hoa khi tàn khi thơm hương.
Nhưng sao chuyện cũ đâu quên lãng
Vẫn mãi u buồn mãi nhớ thương.

Rạch Chiếc,1963
CÁT SỸ

 

NƠI TRỌ HỌC

Gác cây dưới tán hoa xoan,
nơi tôi trọ học ngổn ngang sách đèn.
Vì đời trôi nổi bao phen
thân như bèo dạt ao sen đầm lầy.

Chốn này hoa thoảng hương bay
từ bờ cúc dại, từ cây xoan già.
Cõi kia phố thị phồn hoa,
nhà hàng cửa hiệu quán ba vũ trường.

Hạ sang phượng thắm pha sương.
Em xưa từ giã sân trường lệ rơi.
Người đi kẻ ở bồi hồi.
Tuổi thơ hoa mộng một thời sang trang.

Tôi nơi gác cũ vườn hoang,
bạn cùng cây cỏ cùng trang sử vàng,
lời xưa nghĩa cũ mênh mang,
âm thầm suy niệm giữ an tâm mình.

Rạch Chiếc, 1962
CÁT SỸ

GÁC CÂY

Đường cát bụi ngờ như còn hoang sơ
đưa tôi tìm nơi trọ miền ngoại ô
bờ Rạch Chiếc, bên này xóm Ruộng Cỏ
xa phố phường sang trọng giữa thành đô.

Một gác gỗ dựa lưng cây xoan già,
tại gốc vườn bỏ hoang đầy cỏ hoa,
bên nhà gạch rêu phong mái ngói cũ,
nơi trú chân bao người không cửa nhà.

Sinh viên nghèo xa quê sống bơ vơ,
ngày đi học, đêm dạy kèm trẻ thơ.
Gác yên tĩnh, tôi mong tâm an tịnh,
bớt u hoài, bớt mê muội mộng mơ.

Nhành xoan tím đong đưa trong chiều tà,
làm nhớ lắm đồi sim tím quê nhà,
lan đất tím, hoa mua, bằng lăng tím.
Như tím buồn biệt ly khi chia xa.

Rạch Chiếc,1962
CÁT SỸ

ĐƯỜNG
qua
ĐẤT TRỌ

Sương mù nhòa bóng hàng cây,
đường qua đất trọ ngập đầy cỏ hoa,
bên bờ rạch nước bến phà,
vài chòm lau sậy la đà hắt hiu.

Gió đưa xa tiếng sáo diều
còn đây xóm nhỏ quạnh hiu ngoại thành,
vườn cây luống cải rau xanh,
đồi nương ruộng cỏ nằm quanh ruộng mùa.

Cuối đường gần khóm hoa mua,
gác cây rung lắc mái khua âm buồn,
ngờ như gió thổi bụi tuông,
ru nhành xoan tím rơi buông hoa tàn.
bao ngày vườn cũ bỏ hoang,
nay mong giúp sức tôi an sách đèn.

Nơi này đâu biết ai quen,
đi về bạn với hoa sen dã quì,
đời người sum hợp phân ly,
buồn vui tôi chỉ thầm thì với tôi.

Rạch Chiếc,1962
CÁT SỸ

 

Từ QUÊ
lên PHỐ.

Sau ngày đình chiến năm mươi tư,
bao người tản cư đã giã từ,
xa quê xóm mạc, miền hoang vắng,
lên thành tìm nơi chốn định cư.

Trước mắt, đường nhựa chạy ô tô,
vĩa hè lát gạch tận cửa ô,
xích lô, thổ mộ chuyển hành khách,
hàng hóa giao thương nhờ xe thồ.

Nhà hàng, cửa hiệu, tiệm cà phê,
phòng trà, rạp hát, rạp xi nê,
sạp báo, hàng rong, chợ chồm hỗm,
quán cóc, xe mì, gác cho thuê.

Lộ chính phố sang nhà cao tầng,
biệt thự cung đường cỏ mượt sân.
Người nghèo trú ngụ trong hẽm cụt,
ở nhà vùng ven xóm bình dân.

Từ quê lên phố lo làm ăn,
không nghề, không vốn, sống khó khăn,
cửa nhà tạm bợ nơi đất lạ,
long đong khốn khó đủ mọi đằng.

Nhưng người cũ mới tương trợ nhau,
không vì danh lợi hay sang giàu,
chỉ mong đủ sống, đời yên ả,
nuôi trẻ học hành vì mai sau.

Gia Định,1960
CÁT SỸ

Kính gửi Bác Hai Chôm                             .
và Thân Hữu Tháp Chàm.                                  .

Trừ bài “Miền thơ biếc”, tôi không sưu tầm thêm được bài nào trong “Huyền thoại HB-NÔ”, từ ngày anh Hai Tráng qua đời. Theo yêu cầu, tôi đã đăng lại một số bài “tùy bút” trong tập “La Gi ngàn xanh”.Thực ra ghi chép về La Gi, tôi còn rất nhiều bài, trong đó có tập “Mái xưa” (với giấy phép xuất bản 2013). Đó là dòng ghi chép về Quê Cha Đất Tổ của chúng tôi,trước 1975. Trước 1975, Quê Hương của chúng tôi rất thơ mộng trong lành, bà con tuy còn nghèo nhưng đầy ắp tình làng nghĩa xóm. Một số người ở La Gi,dựa hơi nhóm“Bắc kỳ có lý luận”, kết tôi tội “ca ngợi chế độ Mỹ Ngụy”. Do đó, tôi ngừng đăng những dòng tùy bút về La Gi ở đây và chuyển sang đăng bài về các miền quê  khác. Kính mong quí vị thông cảm.                    .
Còn bạn chăn trâu ở Tân Lý và bạn học thời thơ ấu, sau 1975 lưu lạc khắp nơi, trừ giáo Hiệu ở Dĩ An. Tôi không có tin tức gì về gia đình Bác Tu và anh Tư Ké. Năm 2004, giáo Hiệu giúp tôi mở trang fb này để chúng tôi hỏi thăm về quí thầy cô,quí giáo sư, đã từng dạy chúng tôi. Năm 2016, chúng tôi có trên 5.000 người bạn mới trên facebook, nhưng vẫn bặt tin về Bát Tu, anh Tư Ké và một số bạn thân ngày xưa.Riêng Dovica đang sống bình yên ở Nhật.
Hiện nay, tôi đang cư ngụ trên miền đất cũ Hạnh Thông Tây. Dù đã ngoài 80, nhưng tôi không đau ốm, chưa lú lẫn, chỉ quanh quẩn trong nhà, làm bạn với internet. Được như vậy, có lẽ, tôi nhờ sự hổ trợ của bao người có tấm lòng lương thiện.

Tôi cám ơn Bác Hai, quí Thân Hữu đã hỏi thăm.
Tôi kính chúc quí vị yên vui và xin phép hồi âm.

Xa mẹ từ khi vừa lọt lòng.
Theo đạo Ông Bà dòng Lạc Hồng.
Tha phương cầu thực, sống cần kiệm.
Tự dưỡng tâm an trước bão giông.

Hạnh Thông Tây, 2020.                        .
CÁT SỸ.

 

XÓM MỚI

1.
Vùng đất cũ hoang vu
nằm bên sông Vàm Thuật,
bóng người như xa khuất,
lác đác dăm túp nhà.

An Nhơn đầy cỏ hoa.
nơi đồi cây vắp trắng
qua bao mùa mưa nắng,
thêm ruộng rẫy hoa màu.

Trời cao như đón chào.
Đất đai luôn mong đợi.
Người về lập Xóm Mới,
tụ hội dân du cư.

2.
Sau đình chiến năm tư,
bao người rời đất tổ,
di cư vào Nam Bộ
trú tạm nơi Sài Thành.

Gò Vắp, miền đất lành.
Cánh chim xa vời vợi
bay về đậu Xóm Mới.
thêm mới xứ An Nhơn.

An Nhơn,1962
CÁT SỸ.

 

MƯA NGÂU
trên
XÓM NGHÈO.

Mua ngâu phơ phất xóm nghèo,
với bông vắp trắng gió heo may lùa,
trong chiều tím ngát hoa mua,
lập thu tháng bảy đón mùa Vu Lan.

Bàn thiên bên cội điệp vàng,
am mây lư đất khói nhang hương trầm,
chùa xa tiếng mõ lặng câm,
vẫn như tụng niệm thì thầm kinh đêm.

Ước mong quê Mẹ êm đềm
dù đời sương gió đã mềm nắng mưa,
mặn nồng tình cũ nghĩa xưa,
bà con nương tựa bao mùa bên nhau.

Khai hoang ruộng lúa nương rau,
gò cây hoa vắp, rạch hào đầm sen.
chung tay nuôi trẻ sách đèn
cho dù bão tố bao phen dập vùi.

Người đi kẻ ở ngậm ngùi,
xa quê lòng vẫn không nguôi lời nguyền,
đất trời có lúc đảo điên,
quyết chung thủy với tổ tiên Lạc Hồng.

Hạnh Thông Tây, 1965
CÁT SỸ

 

NƠI HẺM NANCY
[tặng Võ Ngọc Sơn]

Hẻm Nancy nhạt nhòa ánh điện đêm,
trong bóng mưa nặng hạt xuống mặt thềm,
vang theo mưa, tiếng đàn bầu Chín Trích,
nghe nỉ non từng giọt âm dịu êm.

Ngoài trời mưa, chuông xe khua leng keng
Nơi gác trọ, bút nghiên với sách đèn.
Nghiên đọng lại nước hương tóc mây cũ.
Bút ghi tròn nốt “mi” giọt lệ quen.

Mưa tạt vào trang lưu bút ngày xanh.
Màu mực phai, dòng chữ lem vòng quanh.
Nhưng kỷ niệm còn in trong ký ức.
Nước mắt buồn rơi rơi nguyên âm thanh.

Dù tạnh mưa, tịnh yên dưới mái lầu,
vẫn còn lan miên man giọt đàn bầu,
hàng rong rao êm tai khắp phố cũ,
đàn guitar, tiếng hát ru đêm thâu.

Nancy,1963

MƯA
qua
đường NGUYỄN DU

Mưa lâm râm qua đường Nguyễn Du.
Hàng me xanh chưa kịp vàng thu
rơi đầy lá bên thềm gạch cũ.
tràn mui xe, chạm nhẹ cánh dù.

Khách trú mưa quán cốc vĩa hè
nghe nhạc nhẹ, nhâm nhi cà phê,
với âm thanh rì rào mái phố,
cùng thầm thì chuyện phiếm đê mê.

Đôi tình nhân dìu nhau đội mưa,
vai kề vai không một âm thừa,
chậm bước về cung đường phố vắng,
dưới bóng cây, nước rụng lưa thưa.

Bao sinh viên trong làn mưa thu,
xe đạp con, theo đường Nguyễn Du,
vào Đại học Văn Khoa, thư viện,
tìm “chữ tài chữ mệnh”, “chữ nhu”.

Gió vi vu đưa lá me bay.
Lời Tố Như ru trang tháng ngày
”Cõi người ta” trong cuộc dâu bể.
Như lệ mùa buồn vương áng mây.

Đại học Văn khoa Saigon, 1964
CÁT SỸ

DÒNG ĐỜI

Đời người sinh tử khoảng trăm năm.
Thế sự vần xoay luôn thăng trầm.
Thời gian bình thản trôi mải miết.
Vạn hữu luân lưu dưới bụi lầm.

Gió chuyển mùa màng qua núi sông.
Mây mang hơi nước mưa tầng không.
Lũ tràn sóng vỗ gào giông tố.
Ruộng dâu hóa bể, biển lấn đồng.

Tương phùng ly biệt, người mơ màng.
Sớm nở tối tàn, hoa cỏ hoang.
Một thoáng trầm hương nương theo khói.
Mất còn nhân quả lẽ tuần hoàn.

Nổi buồn niềm vui như sương mờ.
Duyên mỏng phận bèo tựa giấc mơ.
Dòng đời trong đục xa bến giác.
Lá thắm thiên thu trôi lững lờ.

Văn Khoa Saigon,1965
CÁT SỸ

TIẾNG RAO ĐÊM

Biết bao người không quên lời ngọt ngào
của hàng rong báo dạo đã từng rao,
dù người rao kiếm ăn qua ngày tháng,
nhưng với lòng đồng cảm người khổ đau.

Hàng rong rao lương khô thức ăn phôi,
với giá bèo, giúp người đói cầm hơi,
khách tha phương qua ngày nơi đất trọ.
cùng phế nhân, góa phụ, trẻ mồ côi.

Sách báo dạo đưa tin từ nhiều nơi,
đến bạn đọc, dân phiêu lưu ven trời,
vừa giải trí, vừa mở rộng hiểu biết,
về tương quan chằng chịt giữa cõi đời.

Tiếng rao đêm, rao ngày mỗi sớm mai,
khi ngân nga trầm lắng, lúc vang dài,
theo lời ăn tiếng nói, giọng Nam Bộ
giúp lương dân vững bước về tương lai.

Văn Khoa Saigon, 1964
CÁT SỸ

BÁO DẠO

”Báo nóng hổi vừa thổi vừa coi.…đây”.
Đêm chưa qua, báo mới rao đầu ngày.
Dân hẻm phố chờ người bán báo dạo.
Tùy túi tiền, tùy thích, chọn báo hay.

Đọc tin nóng trước cửa cho nhau nghe,
xem báo cọp nơi quán cóc vĩa hè.
vừa tán gẫu, vừa thổi cà phê đĩa,
chuyện nắng mưa, thế sự, đủ mọi bề.

Bán báo dạo, rao qua nhiều cung đường,
tận ngõ ngách, xóm nghèo, cổng nhà thương,
đến bạn đọc, thợ thuyền, phu khuân vác,
người cần lao sinh sống khắp phố phường.

Người bán dạo sách báo hay hàng rong,
kiếm miếng ăn chỗ ở giữa cộng đồng,
nuôi đàn trẻ quê hương được ăn học,
cho xứng danh con cháu giống Lạc Hồng.

Văn Khoa Saigon,1964
CÁT SỸ

HÀNG RONG NƠi XÓM TRỌ

Xóm trọ thường nghe hàng rong rao,
”Ai khoai đậu…bắp”. “Ai su…hào”.
Âm thanh nhỏ nhẹ tựa lời Mẹ
ru con thơ dại một thuở nào.

Người bán hàng rong như Mẹ già,
mong con ăn học theo tinh hoa,
thành người tài đức, có kiến thức,
giúp ích cho đời, cho quốc gia.

Bao gánh hàng rong rao đêm ngày
kiếm thêm thu nhập, thoát nợ vay
hàng bán giá rẻ, biếu gia vị,
giúp người lỡ độ sống đủ đầy.

Người già bưng xách, trẻ gánh gồng
đôi khi long dong, chưa thong dong,
nhưng luôn tương trợ cùng vui sống,
tình làng nghĩa xóm thêm mặn nồng.

Nghe rao, tôi mơ điệu lâm thôn,
du dương dịu lắng trong tâm hồn
nỗi niềm phiêu bạt ngày xa xứ,
gác trọ sách đèn bao hoàng hôn.

Hạnh Thông Tây, 1964
CÁT SỸ
[Đoàn Thuận]

HÀNG RONG

”Ai bánh bèo”. “Ai bánh ướt….bánh dày”.
”Chè đậu xanh nước dừa đường cát.…đây”.
Người rao bán hàng rong như đã hát
điệu lâm thôn dân dã dưới trời mây.

Nghe lời rao, chưa nhấm, tự ngon lành.
Ngọt ngào hơn đường cát chè đậu xanh.
Dân xóm mạc nuốt vị âm vui sống.
Dù phận nghèo kiếp sống còn mong manh.

Đời trầm luân nhịp bước luôn vui buồn.
Hàng rong rao vẫn nguyên điệu quê hương.
Đủ sắc thanh, giọng Miền Nam, tiếng Việt.
Khi ngân dài lúc trầm bổng du dương.

Thời gian trôi, gánh hàng rong long đong.
Nhưng lời rao làm ấm áp tấm lòng.
Cùng nương tựa trong tình làng nghĩa xóm.
Tìm đường đi nước bước trước bão giông.

Hạnh Thông Tây, 1964
CÁT SỸ

ĐIỆU RU ĐÊM

Hàng rong rao bâng quơ
như lời ru mơ hồ,
giọng trầm trong xa vắng,
Mẹ ru thời ngây thơ.

Đêm bầu trời đầy sao
Khuya khoắt rụng xuống lầu
Sương bay ngoài phố hạ.
Lời ru về mai sau.

Đêm rất dài tịnh yên.
Lời ru đầy ưu phiền
Lặng trong tình non nước
Lặng vào cõi vô biên.

Lời ru trôi với người.
Lời ru vào xa xôi.
Lời ru ôm phố tối.
Ru ru nỗi lòng tôi.

Gia Định, 1965
CÁT SỸ

”KHÔNG” trên LÁ

Đường đời mênh mông, phố xá đổi thay, người càng ngày càng thêm đông, càng lạ lẫm, biết tìm ai thật lòng thân thiện, tôi đành nói chuyện với chính tôi, qua cỏ hoa, qua con chữ. Trên lối về xóm cũ, trước mặt tình cờ rơi chiếc lá vàng khô, âm thanh vang nhẹ khi thả xuống mặt đường. Trên mặt lá, con sâu không tên đã chạm nên một vòng tròn. Vòng tròn như số không, báo tin “không bạn”, “không em”, “không ai quen” nơi phố xưa. Tôi nhặt chiếc lá ép vào giữa hai trang lưu bút như ép vào trang giấy một khoảng lặng, nhưng không ép được âm thanh lá rơi. Thời gian thản nhiên trôi, người say sưa rót chén ly bôi. Tiếng rơi giọt rượu hòa cùng tiếng rơi nước mắt, tiếng rơi chiếc lá như rơi giọt buồn..

Trên mặt chiếc lá mơ,
một vòng tròn đơn sơ
tựa số “không” mờ ảo
do sâu chạm tình cờ.

Vòng tròn như loan tin
tôi nay còn một mình
”không bạn” thời đèn sách
”không em” về tâm tình.

Lá nhắc tôi “không quên”
lệ chia ly buồn tênh
như mưa rơi hoa rụng.
như sương mờ bồng bềnh.

”Không ai” chờ một mai
đường xuôi ngược còn dài
tôi vẫn nhớ lời nguyện
dù đời bao u hoài.

Đa Kao, 1963
CÁT SỸ

BÈO XANH LÁ ÚA

Bèo xanh chở lá úa vàng
xuôi dòng kênh đước lang thang dưới trời.
Sông trôi, bèo dạt, hoa rơi.
Thân mềm, phận mỏng, mệnh đời phiêu linh.

Trầm luân mông muội sắc hình,
hoa tàn sen khuất vào sình lãng quên.
Bọt bèo rong ruổi lênh đênh
theo mùa nước nổi buồn tênh mọi đàng.

Lìa cành theo gió bạt ngàn,
”cuộc tình” lá thắm úa vàng ly tan,
với bao cát bụi mênh mang
bay đi “đắp mộ” tràng giang xa vời

Đâu ngờ trong cõi pha phôi
béo xanh lá úa cùng rời bến xưa,
nổi trôi dưới bóng nắng mưa,
bên nhau nương tựa qua mùa gió sương.

Kênh Vĩnh Tế,1969
CÁT SỸ

TRÊN KÊNH XANH

Rừng đước nuôi xanh con kênh,
cho hoa đục bình bồng bềnh,
hồn nhiên theo mùa nước nổi,
cùng bao cánh bèo lênh đênh.

Xuồng con ba lá êm trôi,
đàn bầu đệm nhịp chèo bơi,
điệu hát lâm thôn dạ cổ,
âm buồn du dương chơi vơi.

”Lá rơi đắp mộ cuộc tình”
khi hoa tàn phai phiêu linh,
hương xưa giã từ bến cũ,
bèo dạt nương thân đục bình.

Đồng xa mưa rơi lê thê
cỏ hoang lang thang bốn bề,
đôi khi nép vào chân đước
ướt đầm nước bạc bến mê.

Hà Tiên,1969
CÁT SỸ
[Đoàn Thuận]

TIẾNG TIÊU BUỒN

Lênh đênh xuồng nhỏ trên kênh,
ngày qua chưa hết, trăng lên cuối chiều.
chân trời xa vọng tiếng tiêu,
vi vu như thể sáo diều quê hương.

Âm rời từng nốt du dương,
nghe như tiếng nấc canh trường không tên
vô tình hay tự lãng quên,
đàn tranh sáo trúc buồn tênh giữa đời.

Kênh xuôi con nước về khơi,
sương mờ gợi nhớ lệ rơi giọt buồn.
dù mong phím thứ pha buông,
cho tâm an tịnh trước nguồn si mê.

Hoa trôi bèo dạt tư bề,
Tiếng tiêu hiu hắt, lòng tê tái sầu..

Hà Tiên, 1969
CÁT SỸ
[Đoàn Thuận]

 

ÂM MƯA ĐÊM

Mưa rào qua đêm phố
như một khúc nhạc trời,
thả từng giọt âm rơi
trên mái đàn phím ngói.

Điện tắt cung đường tối
đâu rõ mặt khuôn âm
cùa khoảng lặng lâm râm
tạt ướt bao hoa cỏ.

Sấm rền dần dần nhỏ
ngưng thầm bản nhạc mưa
còn chăng đôi âm thừa
chạm ngoài thềm rêu biếc.

Chạm lên nốt mi tuyệt,
nốt rê buồn lệ rơi,
trên sân khấu cuộc đời,
với trường canh dâu bể.

ĐOÀN THUẬN

HOA
nơi
GÁC TRỌ

Nơi gác trọ sách đèn,
tôi cùng hoa làm quen,
thầm buồn nhìn xoan tím,
thoáng vui với hương sen.

Cúc dại không theo mùa,
chẳng nhuốm màu hoa mua,
luôn với tôi tươi thắm,
đâu mắc cỡ thẹn thùa.

Lan đất bên bờ đường
tiễn chân tôi qua trường
dù đông sầu lạnh giá,
hay thu muộn pha sương.

Dạ lý hương dã quì
cùng tôi thức ôn thi
nhụy cong những dấu hỏi
về bài toán xuân thì.

Giữa mùa hoa lưu ly,
tôi giã từ kinh kỳ,
nhớ cánh xoan tim tím,
dáng sen hồng nhu mì.

Rạch Chiếc,1964
CÁT SỸ
[Đoàn Thuận]

HUỆ TRẮNG

TÔI

Lối sỏi nhỏ vòng qua sân thánh đường,
bên bờ hoa lan đất sát chân tường,
những khóm huệ cánh xanh búp trắng nõn,
màu trinh nguyên êm dịu thoảng nhẹ hương.

Tháng Đức Mẹ, người về đọc kinh đêm.
Trẻ đi quanh, già nua dừng bên thềm,
đóa huệ trắng trong tay cùng cầu nguyện,
mong quê nhà yên ả, đời ấm êm.

Những đêm mưa người vắng, huệ bâng khuâng,
hướng lên trời như ngóng tiếng chuông ngân,
gửi hương nguyện về muôn phương sông núi,
về cỏ hoa hoang dại rừng xa gần.

Bao mùa đi phiêu bạt, sống tha phương,
nơi gác trọ sách đèn, những đêm buồn,
thầm nhớ mẹ nhớ quê, nhớ huệ trắng,
nhớ bạn nghèo thuở nhỏ nơi quê hương.

Nancy, 1966
CÁT SỸ
[Đoàn Thuận]

NGÓ SEN

Ao hồ đầm đìa loang bông mưa.
Ngàn mai phong lan nuôi hoa mùa.
Cỏ cây hoang dại tàn lại nở.
Nhụy sen búp nõn lưu hương xưa.

Anh đào phù dung nơi lâm tuyền.
Bằng lăng lưu li xa đào nguyên.
Dạ lý quế hương thời hoa mộng
Dã quì mắc cở trước tóc tiên.

Tâm sen an nhiên qua xuân thu.
Thân sen luân lưu dù phiêu du,
từng mùa lắng sâu vào cõi tịnh,
tích tụ trầm hương trong hoang vu.

Vườn thiền đài sen hương nhang bay.
như sương lung linh theo ngàn mây.
Tiếng mõ nhịp âm lời tụng niệm.
Sen ngó lên cao, thoát bùn lầy.

Đoàn Thuận

TIM SEN

Hoa sen hồng hoang từ bùn lầy.
Tim sen an nhiên trong hồ đầy.
Rễ non nớt bám vào đáy nước.
Búp nõn theo mùa thành ngó may.

Hương sen lan thầm vào không gian,
không vương mùi bùn nơi hoang tàn.
Đóa nở nhụy vàng cánh hồng thắm.
Lá tròn xanh biếc đọng sương tan.

Đầm hồ bàu bưng nơi thân quen.
Bùn lầy nuôi nương bao cây sen
Mưa nắng nở tàn hương vẫn dịu,
không mang mùi tục, dáng thấp hèn.

Sen nơi ao hoang bên bờ cây,
Thiên nhiên tuần hoàn, mùa vần xoay.
Vẫn giữ hương nhu màu thanh khiết.
Dù đời cát bụi gió sương bay.

Đoàn Thuận

ĐƯỜNG HOA XOAN

Ngày nao đường hoa xoan
hoa đôi khi bàng hoàng
tim tím trong chiều muộn,
rơi rớt khi phai tàn.

Trên đường này em đi,
đôi bờ bao hoa quì
cùng bao hoa mắc cở,
thả lời hương thầm thì.

Đường đưa em qua trường,
bên đồi cây thùy dương,
xoan bay từng cánh biếc
cùng áo tím vấn vương.

Rồi hoa đường hoa xoan
chiều đưa em sang ngang,
tím ngát buồn thương tiếc
tình đầu đời ly tan.

Đoàn Thuận

PHONG LAN

PHONG SƯƠNG

Phong sương miên man ru phong lan.
Hoa lan theo sương, hương bàng hoàng.
khi gió mùa thu đưa mưa móc
phả bụi lưng trời, lạnh rừng hoang.

Phong lan đành lòng cùng phong sương,
nồng nàn xanh tươi hay tang thương,
sương lan luân hồi chung nguồn gió,
số kiếp đong đưa giữa vô thường.

Như tôi long đong ngày tha phương,
bao mùa xa nhà xa quê hương,
phiêu bạt xứ người tìm lối sống,
thân phận cô đơn thêm đau buồn.

Đường trần mưa mây hay pha sương,
mơ màng lưu ly tình yêu thương,
tôi trước hoa xưa thầm nguyện ước,
dù đời bội bạc, vẫn nguyên hương.

Đoàn Thuận

ĐƯỜNG TRẦN

TÔI

Xin đừng hỏi về tôi
sao bơ vơ giữa đời,
như người không cha mẹ,
thân dại khờ đơn côi.

Đừng hỏi tôi vì đâu
khổ nghèo từ lưng trâu,
thành gia sư kèm trẻ,
tuổi xanh sớm bạc đầu.

Đừng hỏi tôi vì sao
tình hoa niên úa màu
thầm niệm lời nguyện ước
phận buồn thêm thương đau.

Mùa đi, quê xưa ơi
con đường bỏ quên tôi,
em cần chi sầu nhớ,
tôi lưu lạc bồi hồi.

Nancy, 1962
Trần Thuận

*

LA GI
[HB-NO]

          “LA GI” là tựa của tập tùy bút về “rừng biển La gi”.                                           .
.
Đầu thập niên 60, má tôi từ Bến Lội ở Bình Châu chuyển về xóm Vinh Tân ở La Gi. Nhờ đó, tôi có dịp về thăm quê nhà khi nghỉ hè. Về đây, tôi gặp lại nhiều bạn thời thơ ấu cùng đi tản cư ở “cánh rừng” Sao Cháy sau 1946, cùng chăn trâu ở “cánh đồng” Tân Lý sau 1954, cùng đi học ở “bến lội” Bà Rịa sau 1956, đặc biệt gặp lại chị Liêu, anh Tư Ké, anh  Hai Tráng, những người đã từng giúp đỡ ba má tôi trong thời tản cư. Anh chị là người Thổ (người Chàm) có họ hàng sống lâu đời tại vùng đất này, đã đưa tôi đi thăm nhiều nơi và giúp tôi ghi lại đôi điều về La Gi trong những năm 60.
Năm 1972, khi về dạy học ở Bình Tuy, tôi thuê nhà của thầy Lượng trong làng Thương Phế Binh, gần nhà anh Hai Tráng, lúc ấy là một thương binh. Trong buổi họp mặt mừng tôi về lại quê hương sau bao năm lưu lạc, chúng tôi lập nhóm Tứ La, để tìm hiểu về xứ sở khởi đầu bằng chữ LA, để giúp con cháu biết về Quê Cha Đất Tổ, vì cuộc đời có quá nhiều biến đổi.                     .
Mùa hè năm 1973, anh Hai Tráng “gom” được nhiều bài và “sắp” thành ba phần:             .
1. LA GI: ghi lại lời kể về nguồn cội của vùng rừng biển bao la từ Tà Cú xuống Cù Mi, từ Đảo Bà lên Dinh Ông. Trong đó, Dinh Ông Đảo Bà là hình tượng do Trời Đất tạo nên để ghi công ơn của Ông Bà (Tổ Tiên).                                  .
2. LA: mô tả những xóm mạc có tên La Ngâu, La Dạ, La Gàn, La Gi.                              .
3. GI: ghi lại sự thay đổi cảnh đời theo bước thời gian trong từng năm.                     .
Mùa hè 1974, nhóm dự định ra Phan Rí, Tháp Cháp tìm hiểu rõ về xứ La, nhưng thời cuộc có nhiều biến động, nên nhóm chỉ lo biên soạn lại tập tùy bút. Tôi gửi thêm cho Nhóm một số bài tôi viết từ 1972. Chị Liêu, anh Ké, anh Tráng viết những bài văn ngắn giới thiệu sơ qua ba phần nói trên. Anh Hai Tráng làm cặp bìa bằng mo cau rất đẹp. Bìa trước khắc lớn chữ LA GI, phía dưới thêm chữ nhỏ HB-NO, viết tắt “Hòn Bà-Núi Ông”. Bìa sau khắc từ trên xuống bốn tên La Ngâu, La Dạ, La Gàn, La Gi.                                        .
.
Tháng 4 năm 1975, ban Quân Quản tịch thu toàn bộ sách báo, tự điển và băng nhạc của tôi, trong đó có 5 tập “tạp bút”. Tôi không còn một trang tạp bút, một dòng tùy bút nào.           .
.            Nhưng “con chữ tùy bút” vẫn ngủ yên trong “lưu bút ngày xanh” của bao người quen thân với chúng tôi trước 1972.                         .
.              Thế rồi, nhóm Ba Lá ở Hà Tiên âm thầm sưu tầm những bài tôi ghi về “mùa gió” để biên tập thành “Mùa bấc biển”, được Nhà Xuất bản Văn nghệ TP.Hồ Chính Minh cấp giấy phép xuất bản vào đầu năm 1995 với tên tác giả Đoàn Thuận và đoạt giải Dục Thanh lần I.                     .
..             Tiếp theo,nhóm Tam La ở La Ngâu,La Dạ, La Gàn lặng lẻ “gom” những bài tùy bút về xứ LA vào tập “La Gi ngàn xanh”, được Nhà Xuất bản Trẻ cấp giấy phép cho in 300 cuốn vào năm 1997,
và được chủ tịch Hội Văn học Nghệ thuật Bình Thuận, ông Bình Sơn, giới thiệu “La Gi ngàn xanh” dưới  nhan đề “Đoàn Thuận, dạy học làm thơ”.
Từ đó, Cát Sỹ Trần Thuận, chủ nhân thật sự của những dòng tùy bút nói trên, như khuất vào bóng tối của “bụi lầm”.                                 .

Tân An, 1998.                                         .
Trần Thuận.

QUÊ MÙA
ngày học Lớp Nhất.

       Khi lên Bà Rịa đi học, tôi gặp phải vài điều kỳ lạ mà đầu óc nhỏ nhoi của tôi không thể nào nhận ra đúng sai hay dở, cứ quanh quẩn bên thân phận quê mùa dốt nát nghèo khổ. Tôi bị vài người chê trách mắng nhiếc như một vật chướng cần gạt bỏ. Từ đó, tôi sống khép nép, làm bạn với con chữ với cỏ hoa, dù rằng vẫn có người thương hại tội nghiệp giúp đỡ.                            

          Nhờ Thầy Thân gửi gắm, tôi được Tu viện Saint Paul cho ở nhờ trong góc một nhà kho. Tại đây, tôi có đủ vật dùng để ăn ở và học tập. Dù vật ấy đã thành phế liệu cũ, nhưng so với vật cùng loại ở quê, nó rất đẹp và quí giá. Chị Nguyên, người dạy tiếng Pháp, hướng dẫn tôi cách sinh hoạt theo đúng qui định của tu viện. Lúc đầu, tôi có cảm giác như bị giam hãm trong một không gian hạn hẹp, cách biệt với người chung quanh. Dần dà, tôi nhận ra một nếp sống khác xa với cảnh sống nơi núi rừng biển cả đồng quê và tự mình làm quen với sự thanh tịnh để tập trung vào việc học tập.

           
             Trường Tiểu học Quí Hạnh, nơi tôi học lớp Nhất, đối diện với Tu viện, sau Nhà Thờ Bà Rịa, gồm những dãy nhà tường vôi mái ngói rất đẹp. Trong lớp, tôi ngồi một mình ở bàn trống cuối cùng. Buổi học đầu tiên, tôi  lúng túng sợ sệt trước mọi người. Về sau, thấy tôi lù khù rụt rè, vài người đến hỏi thăm làm quen, trong đó có anh Tranh,người lớn tuổi nhất lớp. Anh Tranh giúp tôi tiếp cận với các môn học, nhờ vậy, tôi theo kịp trình độ của các bạn, trừ môn tiếng Pháp. Dù chị Nguyên trưa nào cũng đến nhà kho dạy tôi tiếng Pháp, nhưng chủ yếu là dạy nói, vì thế tôi rất kém về bộ môn này. Tuy nhiên, tiếng Pháp không nằm trong các môn thi, nên cuối năm học tôi đậu được Bằng Tiểu Học. Như vậy, nhờ sự giúp đở của tu viện, ước mơ ngày nào trên lung trâu nay đã thành sự thật, nhưng con đường trước mắt vẫn còn mờ mịt. Bao điều lo âu, tôi không biết bày tỏ cùng ai, vì từ ngày nghỉ học ôn thi cho đến khi có kết quả thi, gần như vắng bóng chị Nguyên. Niềm vui vừa thoáng qua, nỗi buồn lại đến.                          .                   

               Trước khi về làng cũ tìm việc làm như dự định trước đây, tôi nhờ chị Hai ở nhà bếp xin phép cho tôi gặp Mẹ Bề Trên. Hôm sau, tại phòng khách, tôi gặp lại chị Nguyên và Seur Augustine. Dường như ba vị đang bàn chuyện về tôi, nên khi tôi định nói lời cám ơn, Mẹ Bề Trên ngăn lại và bảo tôi phải tiếp tục đi học, mọi việc Tu viện sẽ lo. Chị Nguyên gặp riêng tôi, nơi sân trước, nhắc lại những gì vừa bàn và dặn tôi cứ giữ lại phòng kho cho đến lúc có chỗ ở mới. Chị cũng cho biết chị rất nhớ tôi trong những ngày qua. Tôi muốn nói như thế với chị nhưng không dám, chỉ xin phép hôn tay chị thay lời cảm tạ.                              .

Nancy, 1962.                                          .

”PHỐ BÊN CẦU”

        Khi nghỉ hưu, tôi vào lại đất trọ Sài Gòn cũ, tìm vài nơi chốn xưa. Tất cả như khác lạ.                  .

       
         Hỏi thăm Xóm Ruộng Cỏ, chẳng ai biết. Con đường từ Rạch Chiếc, vòng theo bờ sông, ra đầu cầu Sài Gòn, nối liền Xa Lộ, mang tên người lạ lẫm. Gác hoa xoan như khuất sâu sau dãy phố cao tầng. Ngôi nhà ngói cổ của U Già ngày nào, thay bằng bốn căn liền kề, với số nhà mới. Biệt thự Dr. Ann, sát vách một nhà lầu cửa kính, chủ mới là một đại tá bộ đội. Khu La Palace xưa, giờ thuộc “đất quốc phòng”. “Phường Thảo Điền” thay tên cho “Phố Bên Cầu”.

         
          Người bản địa trụ lại rất ít, hầu hết đã di dời di tản khắp nơi. Người mới, phần đông là tướng tá, cán bộ cao cấp thuộc quân đội công an, và ngành thông tấn xã, từ miền Bắc chuyển vào sau 1975. Căn cứ quân sự quốc phòng chiếm môt vùng khá rộng ở bên đầu cầu Sài Gòn, thay căn cứ hải quân giang thuyền cũ. “Làng báo chí” gần như trãi dài theo “Xóm ruộng cỏ” xưa, bên Rạch Chiếc. Nhiều con đường, mang tên nhân vật chính trị miền Bắc, chạy qua những khu phố sang trọng, những biệt thự biệt phủ, những dãy nhà lầu cửa kính đèn màu, những khu văn hóa mới với trường đại học cao đẳng trường dạy tiếng nước ngoài, những chung cư khách sạn nhà hàng cao tầng…Khu “thơ mộng yên tĩnh” ở ngoại thành, bên cầu Saigon, trước 1975, không còn nữa.

            Suốt thập niên 60, “Phố bên cầu” là miền đất trọ thân thiết với tôi, một thời sinh viên áo vải. Ngày mới lên đại học, tôi trọ trên một gác cây cũ, ở “Xóm Ruộng Cỏ”, gần Rạch Chiếc. Dân cư, hiện hữu lâu đời tại đây, sống nhờ vào vườn tược. Những ô vườn rộng với nương rau, luống cải luống hoa, với nỗng cỏ chỉ. Vài đám ruộng lúa nước một mùa, còn lại là ruộng trồng “cỏ kiểng” mượt xanh quanh năm. Dân sống hiền hòa với tình làng ghĩa xóm, tương trợ lẫn nhau. Nhờ vậy, tôi có một nơi ăn ở đi học phù hợp với hoàn cảnh nghèo bơ vơ quê mùa của một “dân ruộng”. Sau này, tôi xin được chỗ dạy ổn định, nên chuyển vào trung tâm thành phố. Dù vậy, tôi vẫn thường xuyên “đi về” nơi đây, nhất là khu La Palace. Sau những ngày đi học đi dạy vất vã, chúng tôi về đây nghỉ ngơi, đọc sách, giải trí, trau đổi đôi điều về“ngôn ngữ văn chương”, vì phần lớn “nhóm Quốc Học” cư ngụ hay trọ học tại khu vực rộng lớn, nằm hai bên đầu cầu Saigon.                .                          
 

           Cuối đời, tôi trở lại miền đất trọ cũ, nhưng người cũ gần như không còn ai, còn chăng chỉ trong ký ức, trong không gian mạng. Với sự giúp đở của Giáo Hiệu, qua internet, tôi liên lạc với thân hữu đã lưu vong khắp nơi qua nhiếu năm tháng. Phần lớn, tưởng tôi đã qua đời sau 1975. Nay gặp lại, trong không gian mênh mông xa vắng, nhưng tưởng chừng đang cùng nhau cắp sách đến trường, cùng soạn bài đi dạy, cùng nhâm nhi cà phê, cùng dạo chơi nơi đường phố vắng, cùng buồn khi xa nhau, cùng vui khi hội ngộ…Biết bao hoài niệm đưa tôi về một thời xa xưa, ngỡ như bị vùi quên dưới cát bụi. Tôi thầm cám ơn trời đất cho chúng tôi còn sống, dù mỗi người lưu lạc mỗi phương.

             Thào Điền, 2008

LỜI GIẢI ĐÁP                                                                .

         Thầy Lê Đình Huân và bạn hữu lưu vong tưởng tôi “đã chết” sau 1975, vì thế, muốn biết thêm về hoàn cảnh “còn sống” của tôi. Những trang tùy bút, trên fb vừa qua, có thể tóm lược trong đôi lời giải thích, như sau.                               

        
         * Sau ngày đình chiến 54, tôi từ quê lên tỉnh đi học, gặp nhiều khó khăn vì nghèo khổ và khờ dại. Nhờ “người thiện tâm” giúp đỡ, nhờ thầy cô dạy bảo, tôi đã theo gần trọn con đường học vấn, từ lớp vỡ lòng đến tốt nghiệp đại học,với nguyên lý giáo dục Nhân Bản-DânTộc-Khai Phóng. Dọc theo con đường ấy, tôi trọ lại nhiều nơi, làm nhiều việc, trong đó có việc kèm trẻ tư gia, dạy học ở tư thục, ở trường công lập. Cuộc sống đôi khi vất vả nhưng yên bình, trong tình làng nghĩa xóm.                                                    

                 * Đến tháng Tư năm 1975, sau khi học tập cải tạo tại chỗ, tôi được Ban Quân Quản “trả quyền công dân” và được cấp “Giấy phép làm thợ hồ”, tham gia “ngành xây dựng”. Ông Vũ Hồng, lãnh đạo giáo dục Tỉnh, yêu cầu tôi tham gia công tác tiếp quản, tu sửa trường lớp để chuẩn bị khai giảng năm học mới. Xong việc, tôi xin phép trở về ngành xây dựng, nhưng Ủy Ban Tỉnh không đồng ý, lại bổ nhiệm tôi làm “Phó hiệu trưởng” trường C3 Hàm Tân.                         .   .                             
         Năm 1982, vài “kẻ dấu mặt” vu khống hảm hại nhiều giáo viên, nhất là giáo viên thuộc Bình Tuy cũ, dẫn đến người bỏ ngành, người đổi đi nơi khác. Tại C3 Hàm Tân, cô Nghĩa, thầy Thịnh, thầy Đoàn Đức ra khỏi ngành, thầy Đào văn Lộc cùng gia đình chuyển về quận Bình Thạnh. Thầy Lê văn Hộ nhận quyết định làm Giám đốc trung tâm Hướng nghiệp Dạy nghề. Chưa kịp ra khỏi C3 Hàm Tân, thầy Hộ qua đời khi tham gia làm thông dịch cho đoàn “kiểm tra hàng hải” trên biển. Giáo viên cũ, ở C3 Hàm Tân, còn một mình tôi, trong tầm ngắm của “kẻ dấu mặt”                   .         
         Mùa hè năm 1994, Ủy Ban tỉnh Bình Thuận điều tôi sang “xây dựng ngôi trường mới” trên nền trường Sư phạm Mầm Non cũ, để mở trường Bán Công Nguyễn Huệ. Tôi nghĩ, Lãnh đạo cấp cao của Ủy Ban Tỉnh thấu hiểu chúng tôi, nên tôi chấp nhận “sự trù dập năm 1999”, và xin phú cho trời đất. Thế rồi, mọi việc được sáng tỏ, tôi vô tội và làm việc bình thường cho đến ngày nghỉ hưu.                     

                                                              
         * Năm 2004, tôi lại xa Quê Mẹ La Gi, vào Thảo Điền sống những ngày cuối đời.                                            

Thảo Điền, 2004                                                .           

 

TÔI KHÔNG SÁNG TÁC.                         .  
                                                           
        
         * Tôi như một “du tử”, xa Mẹ xa nhà từ thuở ấu thơ, lưu lạc đó đây nơi xứ lạ quê nguời. Nhiều lúc, nhớ Mẹ nhớ quê, tôi chỉ biết nói cùng cỏ cây, hay gửi lời buồn theo áng mây trôi. Khi biết chữ biết viết, tôi nguệch ngoạc vài nét mực như lưu lại một nỗi nhớ, trong quyển vở đầu lòng. Con chữ “nhớ” rồi cũng phai mờ theo ngày tháng nổi trôi, rơi rớt theo tuổi thơ phiêu bạt. Từ cánh rừng hoang sơ, từ xóm mạc nghèo nàn, tôi bé con dò dẫm lên  phố thị. Chung quanh đều xa lạ. Tôi khép nép nhìn ngắm, ngại ngần giao tiếp, khờ khạo nhớ quên, lem nhem quệt vài dòng chữ như thì thầm với chính tôi.                   .                                             
             Ngày lên Bà Rịa học đệ thất, tôi nghe thấy nhiều chuyện ngộ nghĩnh, ý nghĩa lờ mờ, đâu biết hỏi ai, nên “vội ghi” vào vở học để tự suy nghĩ. “Thằng mọi”“xí trai” do cha mẹ trời đất tạo ra, không tự đổi thay, tôi chỉ còn biết thản nhiên trước các chàng bảnh bao “chế nhạo”, các nàng xinh đẹp “chê cười”. Tôi “quê mùa”“ngu ngơ” vì đã theo bước chân trâu qua ruộng đồng, lên đồi cỏ, xuống bến sông, nghe tiếng chim ca; do vậy, tôi chỉ có thể khắc phục khi biết nghe lời thầy cô dạy bảo dưới mái trường, qua sách vở. Khi đọc lại “xí trai”, tôi ghi thêm “cần đẹp lòng”. Khi xem chữ “quê mùa”, tôi viết đậm “còn  ngu ngơ” dù qua nhiều mùa học. Hình ảnh không thể được vẽ bằng vài con chữ, nhưng có thể được diễn tả bằng “dòng chữ” theo lối “tùy bút”. Từ ngày vào lớp đệ thất đến khi tốt nghiệp đại học, tôi có trên sáu ngàn “trang tùy bút”, ghi lại những gì nghe thấy trên đường đi học đi dạy, khi bằng văn xuôi, khi bằng văn vần, không phài sáng tác.                     .                             
            Hơn nữa thời tôi đi học, dường như ai cũng có một quyển “lưu bút” để bạn học viết đôi dòng “lưu niệm”, và tôi là một “bạn học” ấy. Đó chỉ là vài “câu chữ” tâm tình ghi vào cuối năm học. Tôi sống tha phương, trọ lại đôi nơi, tham gia cùng “Nhóm Thân Hữu”. Theo gợi ý, tôi thường ghi lại trong “lưu bút” hay “nhật ký” của bạn đồng song đồng nghiệp đồng hành, vài âm tiết cô đọng, đôi nét thư pháp, một bài văn vần, và ký tên Trần Thuận, Thoại Băng, Cát Sỹ. Phần lớn  những trang viết ấy  đã theo quí thân hữu đi muôn phương.                               .                          

         *  Đến tháng Tư năm 1975, ban Quân Quản tịch thu toàn bộ sách báo và băng nhạc của tôi, trong đó có 5 tập Tạp Bút.  Nhiều lần, tôi làm đơn xin lại những tập bản thảo nói trên nhưng Sở Công an Bình Thuận trả lời “không tìm thấy”. Từ đó, tôi không còn “một dòng tùy bút” nào.           .                                                                          
            Nhưng năm 1993, báo Bình Thuận khép tôi vào tội “mơ tưởng đến Sài Gòn, thủ đô chế độ Mỹ Ngụy” mà chứng cứ nằm trong câu:“Đã mấy năm xa Sài Gòn ơi”. Sau đó tôi được biết, một người dấu tên ở báo Tuổi Trẻ về tỉnh Bình Thuận trình một “trang lưu bút viết tay”, ký tên Trần Thuận năm 1972. Sài Gòn 1972 là Sài Gòn. Nhờ thế, sự việc được sáng tỏ, tôi vô tội.                                         
           Thế rồi, năm 1994, nhóm Thân hữu Ba Lá, sợ tôi nghi ngại, nên đã tự ý lặng lẽ sưu tầm những bài tôi ghi về  “mùa gió”, viết riêng trong “lưu bút” của bạn thân, một thời ở Hà Tiên. Nhà xuất bản Văn Nghệ tp. Hồ Chí Minh biên tập thành “Mùa bấc biển” và cho xuất bản với tên tác giả Đoàn Thuận. “Mùa bấc biển” nhận giải Dục Thanh lần 1. Từ đó, nhiều người gọi tôi là “nhà thơ Đoàn Thuận”. Thực sự, tôi không là “nhà thơ” vì tôi không sáng tác, mà chỉ ghi lại những gì tôi thấy cần thiết khi còn sống ở đời này.                                 .
Tiếp theo, các nhóm Thân Hữu tìm cách tập hợp những bài tùy bút của tôi còn lưu giữ nơi bạn hữu một thời trước 1975, ngoài 5 tập Tạp Bút bị tịch thu. Qua internet, Trần Cát Tường tiếp nhận bài vỡ các nơi gửi về, biên tập và xin phép xuất bản. Từ năm 1994 đến năm 2014, có 26 “tập tùy bút” theo thể văn vần (như thơ), trong đó 17 tập được cấp giấy phép xuất bản. Vì không đủ điều kiện, nên sách chỉ được in với số lượng hạn chế, lưu hành trong thân hữu, không phát hành rộng rãi, rất ít người biết đến.                                 .

* Tự nghĩ, tôi không phải “nhà thơ” vì tôi đâu sáng tác mà chỉ ghi lại những gì nghe thấy trên đường đời.

Thảo Điền, 2014.                                                       .
Đoàn Thuận

 

TRÊN ĐƯỜNG VỀ BÌNH TUY.

        Tháng 10 năm 1972, Bộ Giáo Dục đột nhiên gửi Giấy điều động tôi về trường Trung học Bình Tuy dạy Anh Văn, sớm hơn qui định hai năm.                              .   
        Nhóm thân hữu Ba Lá, biết tin, đến chia tay. Chúng tôi thả thuyền dạo quanh hồ Đông, ôn chuyện ngày đã qua.Trang lưu bút riêng ghi lại vài nét chữ, vài dòng tâm tình, vài kỷ niệm. Một lá sen khô, trên miệng hũ rượu đế, trở thành trang “lưu bút nhóm”, mỗi người ghi vài lời và một chữ ký. Long xin giữ trang này vì sắp sang Miên làm việc. Cụng một chén rượu, hát một bài Boléro, theo nhịp gõ trên mạn thuyền, nhóm đi dần về hướng  Rạch Giá.             . .
        Hà Tiên là một miền đất trọ, nơi tôi đến dạy học với tư cách một giáo sư đệ nhị cấp chính ngạch, tại một trường công lập. Nay, tôi  về lại quê mẹ La Gi..

      * Lên Sài Gòn, sau khi vào Nha Trung Học nhận Sự vụ lệnh theo yêu cầu, tôi tìm thăm quí Thầy Cô và nhóm thân hữu Văn Khoa, đã xa vắng nhiều năm. Vũ Đỗ Hải rủ tôi đi một vòng Sài Gòn, rồi vào La Pagode nhâm nhi từng giọt cà phê đậm chất kỷ niệm với Tâm Láng, với Hương Lai, với Hựu Khờ… Hàng cây dọc theo đường Tư Do như còn đổ bóng trên dấu giày của bao “thư sinh áo vải”, một thời đại học. Nguyễn Thế Cường đưa tôi về tư gia, thăm Vân. Cường là bạn thân ở đại học Sư Phạm Saigon, học Việt Hán nhưng rất giỏi tiếng Pháp và rành hội họa. Cường đã sơn dầu bức chân dung Kim Thoa, một kỷ vật theo suốt đời chúng tôi. Tại đây, Cường gợi lại nhiều hình ảnh thân quen từ lớp Việt Hán, mà tôi đã tạm biệt từ cuối năm 1969.

           Sài Gòn là quê hương thứ hai. Tôi đã về đây nhiều lần và trọ tại đây nhiều năm, đặc biệt, suốt thập niên 60 tôi từng đi học đại học, từng đi dạy tư thục. Tôi dừng nơi đây, trong phút giây, trên đường về Bình Tuy, quê Mẹ của tôi.

           * Vừa vào bến xe La Gi, mưa bổng nhiên đổ xuống. Tôi ngồi lại một quán nước, gọi một tách cà-phê, lặng lẽ nhìn mưa. Hạt mưa giọt xuống hiên, tạo thành bong-bóng. Mưa chắc dai lắm. Tôi co ro tìm một thế  ngồi.
     Lagi bây giờ nhiều thay đổi. Miền quê yên tĩnh ngày nào đã nhường cho phố thị ồn ào náo nhiệt. Mọi người như vội vã chạy theo một điều gì không rõ. Hành khách vừa xuống xe đã tất bật về nhà. Một chiếc xe đò vừa rời bến, một chiếc khác “de”vào chiếm vị trí. Lơ xe tòng teng ở cửa sau vớt thêm một người khách do người nhà chở tới. Bà khách la ơi ới vì bị lơ xe lôi nhanh lên xe. Người bán vé  lầm bầm một câu chữi thề. Một chiếc jeep phóng nhanh, trên xe nòng súng chĩa ra bốn phía.                              .
           Mưa vẫn rơi. Trong quán, cô gái trẻ, ngồi bàn cuối, văng tục vì thua một ván sập-sám. Người thanh niên bên cạnh nhét vào khe ngực cô một xấp bạc. Cô gái hét lên một cách thích thú. Nhóm sập-sám tiếp tục chia bài.  Chị chủ quán ốm nhôm đem chiếc thau nhựa bẩn ra hứng nước, vừa xoay chiếc thau vừa nói “mưa quài hốt cứt ăn”. Mấy ông bán vé xe đã vào quán lúc mưa nặng hạt, đang nhậu rượu với xíu quách. Họ cười lớn coi bộ khoái chí nhưng lại nói nhỏ với nhau khi liếc qua cặp đùi dài, quần xăn đến tận háng. Cô gái chơi sập-sám lại rú lên  thích thú.                  
           Mưa không lớn nhưng ngôi chùa đối diện mờ mờ trong bóng mưa. Cây bồ đề rủ xuống và nước ngoài hiên chảy thành dòng như khe suối.Tôi trả tiền, đội mưa về nhà.
         
Lagi, 1972                                               .  

DÂN RUỘNG ĐI HỌC.                                     .                                                                                                     
              *Trong thập niên 60, kẻ mọn ở quê ở tỉnh như  tôi, được dân thành phố gọi đùa là “dân ruộng”, luôn gặp nhiều khó khăn cho việc “đèn sách”. Nơi ăn chốn ở là điều kiện cần thiết nhất để đi học. Việc làm có thù lao, có thu nhập ít nhiều sẽ đáp ứng nhu cầu đó. Ngoài ra, với tình làng nghĩa xóm, với thiện tâm, mọi người chung sức giúp đở con cháu, người nghèo đi học, học càng cao càng tốt.               
             

             * Ngày mới lên đại học, một U Già cho tôi ở trọ tại một gác cây nơi xóm Ruộng Cỏ gần Rạch Chiếc, và tôi nhận kèm một lớp tư gia, do bác sỹ Ann tổ chức trong khu biệt thư Palace, với thù lao khá cao. Nhờ vậy, tôi lấy được chứng chỉ Dự Bị Việt.                                       .                          

              Chị Ann về Paris không bao lâu, tôi nhượng lại cho Huê lớp học tư gia, ở Palace. Huê, cô bạn nghèo ở Cái Bè, vừa lên Saigon tìm cách học đại học, quê mùa lơ ngơ như tôi ngày nào. Dù sao, tôi rất may mắn vì được nhiều người giúp đỡ, còn Huê không quen biết ai ngoài một người thân của Ba tôi ở Lò Heo Mới. Đậu xong Tú tài Toàn phần, Huê tìm được việc làm khá tốt ở Cái Bè, nhưng ba má Huê muốn con gái mình học lên đại học, dù cực khổ đến đâu.                                                                                                 
               Sau khi Huê ổn định mọi việc, tôi chuyển về gác trọ Bà Tám gần chợ Nancy, ở chung với Nhiệm Sơn Khổ, ba bạn thân thời học Châu Văn Tiếp. Về đây, tôi nhận dạy kèm nhóm nữ sinh học lớp đệ ngũ tại tư gia thuộc quán Kem Hà Nội, và một nữ sinh khác thuộc gia đình PharmacieTrang… Người trẻ tuổi lên Saigon đi học ngày càng nhiều, gác trọ Bà Tám ngày thêm đông. Tôi lại nhường chỗ trọ này và hai chỗ dạy nói trên cho hai bạn học cũ, Anh và Đại, cần việc làm để tự túc ăn học.                                                                                                                                  Từ giã Nancy, tôi đến trọ ở hẽm nhỏ đường Nguyễn Thông, nhận dạy lớp Tráng Niên trong Cư xá Hỏa Xa, do Hậu, một sinh viên luật giới thiệu. Tôi ăn cơm tháng tại một quán bình dân gần đó. Bà chủ quán rất hiền hậu, luôn chú ý giúp đỡ những người nghèo khổ. Bà cho hai hoc sinh trung học phụ việc bán thời gian, để kiếm tiền đóng học phí, học tư thục Nguyễn Bá Tòng.                       .                                    .                                                                             
                
              * Trong thời gian ngắn, tôi dời hai nơi trọ, nhượng lại ba chỗ dạy kèm cho những bạn nghèo, dân ruộng, lên Saigon đi học. Đâu khác chi ngày mới lên Gia Định, tôi gần như bơ vơ, đâu quen biết ai. Bác Hân, Nương, chị Ann đã tạo mọi điều kiện thuận lợi, giúp tôi đi học và đã xong một năm đại học. Người có điều kiện giúp người không điều kiện, người đi trước giúp người đi sau, dân phố giúp dân ruộng. Đó là điều hiển nhiên trong nền Giáo dục Cộng đồng, với nguyên lý “Nhân bản, Dân tộc, Khai phóng”.                             .             

            Nancy, 1966

CON CHỮ và TÔI.              

      * Tôi có thói quen ghi lại những gì nghe thấy, từ ngày lên tỉnh thành đi học. Vì tôi là “dân ruộng” quê mùa xấu xí nghèo nàn, nên rất ngại tiếp xúc với “dân phố” sang trọng quyền thế. Khi có điều lo nghĩ, tôi không biết bày tỏ cùng ai, chỉ biết tâm sự với chính mình, qua con chữ nằm im trên trang giấy đầy bụi. Vì đầu óc nhỏ nhoi u mê “cù lần”, trí nhớ mù mờ dễ quên, không dám tin ai, tôi chỉ còn nhờ nét mực chấm phá vài hình ảnh chợt thấy, ký hiệu vài lời nói chợt nghe trên đường đời. Thời gian bình thản trôi, mọi thứ sẽ phai tàn theo, tôi không thể nhớ mãi một nét mặt hồn nhiên thánh thiện, hay suy tư sầu muộn, nhưng đôi dòng chữ sẽ gợi lại đôi điều về dung nhan dáng điệu tính cách của ai đó một thời. “Con chữ” như “đồng hành” bên tôi “rong chơi cùng cát bụi”.                         .                                                                                                                
      Cách ghi chép trên trang tùy bút, đôi khi vụng về thiếu sót, đã gây phiền phức cho vài người.Từng bước, tôi chỉnh sửa rất nhiều, có khi bỏ hẳn một đoạn hay một trang, có khi chuyển từ “văn xuôi” sang “văn vần”, có khi cô đọng trong vài âm tiết. Dù mờ ảo sự thật, nhưng vẫn phật lòng người, nếu ai đó chỉ lướt qua con chữ. Dù đau buồn phiền muộn, vì kẻ dấu mặt mượn câu tùy bút để hảm hại tôi, tôi vẫn lặng thầm cam chịu theo phận mình. Dù nằm trong sọt rác hay thành tro tàn, nội dung tùy bút vẫn sống trong tâm tưởng tôi, vì con chữ như biểu thị một tấc lòng. “Bạo chúa có thể đốt sách treo cổ người viết”, “nhưng không thể cầm tù ý nghĩ thoát thai từ cuộc đời”, không thể giết chết “sự thật lịch sử”. .

      * Tháng Tư năm 1975, Ban Quân Quản tịch thu toàn bộ sách báo của chúng tôi, trong đó có 5 tập “Tạp bút”. Nhưng “con chữ” trên dòng ghi chép vội vàng của tôi vẫn được quí Thân Hữu ru êm trong “lưu bút” hay “nhật ký” ở nhiều nơi.                      
          Năm 1994, nhóm Thân Hữu Ba Lá lặng lẽ sưu tầm những bài tôi ghi về “mùa gió”, viết riêng trong “lưu bút” của bạn thân, một thời ở Hà Tiên. Nhà xuất bản Văn Nghệ tp.Hồ Chí Minh biên tâp thành “Mùa bấc biển” và cho xuất bản với tên tác giả Đoàn Thuận. Từ đây, nhiều người gọi tôi là “nhà thơ Đoàn Thuận”. Cũng từ đây, các “nhóm thân hữu” giúp chúng tôi sưu tầm những “trang tùy bút” ký tên Trần Thuận, Thoại Băng, Cát Sỹ. Với sự hổ trợ nói trên, Trần Cát Tường được Nhóm giao tiếp nhận bài vở, biên tập thành sách và xin phép suất bản.                                   .                                                   
         Nhóm Thân Hữu Haiku [đại học Kiến Trúc Sài Gòn] đã liên lạc qua internet, tìm lại được nhiều bức “thư pháp”, nhiều câu “ghi chú” của tôi, theo thể Haiku, khi tiếp cận với các “Quẻ” trong “Kinh Dịch”. Nhóm Haiku cũng đã giúp Trần Cát Tường biên soạn thành “Mùa thạch thảo”(nxb Văn Học, 2013) và “Giọt mùa”(in vi tính, 2014).                     

         Nhóm Thân Hữu Quốc Âm [đại học Văn Khoa Sài Gòn] từ 1996 đến 2014, đã tập hợp những dòng Lục Bát Đoàn Thuận và biên tập thành “Lời chiều”, “Lửa đầu non”, “Tạ ơn đời”,“Thơ thiền Vương Duy”, “Đường Thi”(thơ dịch), và “Mây Mưa”(truyện thơ).                                   .                                                   
        Nhóm Thân Hữu Tam La [La Gi, La Dạ, La Gàn] nhờ người quen lục tìm được một số bài viết về La Gi, và đã xuất bản tập “La Gi ngàn xanh”(nxb Trẻ,1997) và “Mái xưa”(nxb Văn học, 2013).

        Nhóm Giáo Chức Tha Phương [quí Thầy Cô cùng tôi đi dạy trước 75, lưu lạc xa quê hương] sau nhiều năm hỏi thăm tìm kiếm, đã hổ trợ Trần Cát Tường xin phép xuất bản các tập: ”Tượng”, ”Lửa đêm mưa”, “Khoảng lặng của hoa”, “Dưới hoa”, “Sắc Phượng”, ”Búp sen”, “Đời sậy”, “Rong chơi cùng cát bụi”, “Đất và Người”, “Sài Gòn và tôi”. Còn nữa, bao điều tâm tình, không thể in thành sách.

                            
      * Tôi cứ tưởng “con chữ”, từng đi học đi dạy cùng tôi trước 75, đã bị vùi nát dưới bụi lầm. Nhưng không, nó vẫn yên nhiên bên cạnh bao Thân Hữu Kính Yêu, vẫn mong ngóng gặp lại tôi, thì thầm lời ru xưa.    

Hạnh Thông Tây, 2018.                                                .
Đoàn Thuận.                    

                                                     

 

TẾT XA NHÀ

Một lần nữa, tôi lại ăn tết nơi quê người.        .
Liêm, Hồ, Hài đã sang Phú Quốc đi máy bay về quê tuần trước. Thầy Trần Cao Thu và tôi đã ba lần trốn dưới đò xuôi kênh đều bị giử lại, vì đường bộ sang Rạch Giá vẫn bị đắp mô. Nghèo khó và chiến tranh buộc tôi ở lại Hà Tiên, ăn Tết xa nhà.                                      .

Nhà Bác Tám nhộn nhịp, con cháu về chuẩn bị đón xuân. Tôi nằm riêng trong phòng đọc sách. Nhóm bạn của Tòng Hiếu đến thăm và tặng quà tết với một cây thuốc con mèo đỏ, bánh lạt, beurre, café, bốn đòn bánh. Điền cho năm búp huệ trắng, rất thơm. Ngọc Tuyết sắp xếp lại phòng trọ và ngồi bó gối buồn cho người thầy ăn tết tha phương. Thật ra, trong thập niên 60, đôi lần tôi ở lại gác trọ một mình chờ năm cũ trôi qua. Giờ đây, tuy tôi ăn nhờ ở đậu trong nhà, nhưng Bác Tám coi tôi như người thân, hơn nữa, những “thư sinh” hồn nhiên luôn quay quần bên tôi, lại có Cao Thu cùng chung cảnh ngộ. Xuân như nhiên vẫn đến, dù xa nhà.

Cao Thu đề nghị một cuộc dạo chơi cuối năm trên núi. Chúng tôi đi bộ qua rừng dâu Thuận Yên lên núi Voi. Thiếu mai vàng, nhưng hoa thơm, cỏ mượt rất nhiều. Từ một gộp đá nhìn ra biển, Cao Thu như một bức tượng lặng câm. Tôi bắt gặp một điều gì vấn vương trong gió. Bấc tháng giêng chăng? Nhà tôi xa tít phía chân trời. Tôi cũng nhớ đôi điều về Sài Gòn đầy ắp kỷ niệm của một thời sinh viên, của những mùa xuân lưu lạc. Chiều xuống đã lâu. Chúng tôi lang thang dọc theo bờ biển về lại Thuận Yên, trong tiếng pháo nhà ai nổ dòn.                              .

Chiều mồng Một, nhóm thân hữu Ba Lá đến chúc Tết và mời tôi đi thăm nhà thi sỹ Đông Hồ, rồi cùng nhau thả thuyền lênh đênh về kênh Vĩnh Tế, mừng Bác Hẹ tròn tám mươi tuổi. Xuồng “ba lá” lắc lư theo điệu Boléro, muỗng nhịp trên chén rượu nếp trắng, nhóm chúng tôi đón xuân sang nơi quê hương thơ mộng Hà Tiên. Một mùa xuân tha phương, còn mãi trong ký ức tôi.                                    .

Hà Tiên, 1971
CÁT SỸ

Cô TRỊNH THỊ NGHĨA và tôi.            .

* Tôi quen với cô Trịnh Thị Nghĩa tại Cours Pascal, bên thềm Trường Bồ Đề Quảng Đức. Thực ra trước đó, tôi đã gặp cô, nhưng không biết tên, tại trường Trung học Bình Tuy, khi đến trình sự vụ lệnh với thầy Vũ Đán Bình. Sau giờ dạy đầu tiên, trời chợt đổ mưa, tôi đứng lại bên thềm chờ mưa tạnh. Bất ngờ, một cô gái trẻ với áo dài trắng, từ trong lớp, ra đứng nhìn mưa. Tôi tưởng đó là một nữ học viên, vì Cours Pascal là “lớp đêm” giành cho những tráng niên. Lặng thinh một hồi lâu, chúng tôi mới dám hỏi thăm về nhau và quen biết từ đây.
Nhờ Cô Nghĩa, tôi làm quen với nhiều thầy cô dạy học ở Bình Tuy, đặc biệt với thầy Nguyễn Tấn Hưng. Thầy Hưng là người sáng lập ra Cours Pascal, giúp những tráng niên thi lấy bằng tú tài. Thầy rất có tâm huyết đối với nền “giáo dục cộng đồng” ở miền Nam. Tại Cours Pascal, Thầy muốn tạo điều kiện cho người lớn tuổi tự nâng cao trình độ học vấn. Nhiều người không nhận ra điều đó. Riêng cô Nghĩa rất kính phục thầy Hưng vì thấy được “thiện tâm”, cùng “tài năng” dạy Toán của Thầy. Tự nghĩ, tôi rất may mắn được quen biết với Thầy Hưng và Cô Nghĩa. Chúng tôi chẳng những là “đồng nghiệp” cùng đi dạy, mà ít nhiều cũng “đồng điệu” trong suy nghĩ.  Khi Thầy Hưng chuyển về Saigon, Cours Pascal dừng lại, Cô Nghĩa đề nghị tôi thay Thầy Hưng để duy trì lớp “tráng niên”này. Tôi không dám nhận và đề nghị ngược lại, vì tôi “đã có gia đình”, bận bịu nhiều việc. Cô cười, như nhớ ra, đã từng cho biết, cô “chưa lập gia đình” vì muốn được tự do đóng góp cho ngành giáo dục, giống Thầy Hưng, dù đã lớn tuổi. Từ đó, chúng tôi thường trau đổi đôi điều liên quan đến vấn đề “đi học, đi dạy”.

* Đầu năm 1975, thời cuộc có nhiều biến động,  người rời khỏi La Gi càng ngày càng nhiều và tôi không dám tiếp xúc với ai, kể cả những người cùng đi dạy với tôi, trước đó.                        .
Mùa hè 1975, tôi có giấy triệu tập đi học tập đợt hai, cùng với quí Thầy Cô ở trường cũ. Nhóm Khoa học Xã Hội đã đi Đà Lạt, nên tôi phải theo nhóm Khoa học Tự Nhiên ra Nha Trang, để sáng hôm sau lên Đà Lạt. Tại Nha Trang, tôi gặp lại thầy Đào văn Lộc và cô Trịnh thị Nghĩa. Ba chúng tôi ôn lại chuyện đi dạy ở Cours Pascal. Qua đó, Cô Nghĩa cho biết thêm về hoàn cảnh của nhiều thầy cô thuộc Sở Giáo dục Bình Tuy cũ. Người vượt biên, người đi học tập cải tạo, người đi kinh tế mới, người ra khỏi ngành lưu lạc khổ đau. Như vậy, tôi rất may mắn vì Ban Quân Quản cho phép “làm thợ hồ” tại La Gi. Cô Nghĩa rất mong tôi được ở lại ngành, khi được đi học tập cải tạo lần nũa.                                 .
Kết quả khóa học ở Đà Lạt, tôi được xếp vào loại “giáo viên lưu dung”, nghĩa là “giáo viên Ngụy” được “tha thứ để dùng lại”, nhưng không rõ “lưu dung” ở đâu, nên tôi về lại La Gi làm thợ hồ, theo giấy phép của Ban Quân Quản. Trong khi đó, Cô Nghĩa là “giáo sư tư nhân dạy giờ” nên ở lại trường cũ làm “giáo viên”, đi dạy theo “giáo án” của “giáo viên chi viện” từ miền Bắc vào.      .
Gần đến ngày khai giảng năm học 1975-1976, Bác Sáu Danh cùng Cô Nghĩa đến Chợ Cá Biển đưa “Giấy giới thiệu 2” của Trưởng phòng giáo dục Trần văn Bản, yêu cầu tôi trở lại trường “làm việc”. Bác Danh về, Cô Nghĩa ở lại nói chuyện với tôi, bên quán nước gần Bến Đò. Theo Cô, “làm việc” gì cũng được, nhưng nếu làm việc ở trường học sẽ góp phần “giúp đỡ lớp trẻ học hành”, cho dù mục đích giáo dục có khác. “Chỉ cần hướng dẫn bước đi ban đầu, còn đường về chân lý, mọi người tự do chọn lựa”. Tôi cũng nghĩ như thế, nhưng ‘kế hoạch 75” không cho phép một “sỹ quan biệt phái” như tôi được ở trong biên chế. Nếu có trở lại “làm việc”, cũng chỉ ở bước đầu, khi không cần nữa, trường sẽ đạp tôi ra khỏi ngành bằng mọi cách, theo kiểu “vắt chanh bỏ vỏ”. Chúng tôi, buồn lặng, nhìn dòng nước sông Dinh trôi về biển.  .

Sau đó, tôi lên trường C3 Hàm Tân, trình diện Hiệu trưởng Lê Đăng Cử và được phân công làm “trưởng ban lạo động”, hướng dẫn học sinh toàn trường đi lao động nhiều nơi trong huyện. Cô Nghĩa và nhiều phụ huynh cũ vừa mừng vừa lo cho tôi, khi tôi trở lại “làm việc”.                                      .

* Bổng dưng, Cô Nghĩa và tôi bị vu khống tội “vượt biên hụt”. Cô Nghĩa ra khỏi ngành. Tôi bị buộc ở lại vì Tổ chức Tỉnh khẳng định tôi vô tội, dù tôi xin được về “làm thợ hồ. Lần cuối, chúng tôi gặp nhau, bên bờ Sông Dinh, lại buồn lặng, nhìn dòng nước trôi về biển.    .


La Gi, 1978.                                                 .
CÁT SỸ.                                     .

Tiếng Việt thời “định hướng”.


Xưa kia, Chị Liêu, một Thổ dân, đã dạy tôi “đọc” và “viết” chữ A đầu lòng. Chị cũng dạy tôi “đánh vần” với “sáu thanh tiếng Việt” êm đềm. Từ Bưng Tràm, từ thuở bé thơ, tôi men theo dòng đời lưu lạc nghèo khổ, khép nép qua các lớp học, vào đại học Sư phạm Saigon, ra dạy Việt văn, “Tiếng Nước tôi”, ở Hà Tiên. Tại đây, dù rất nhiều người Minh-hương, người Khờ-me cư ngụ lâu đời, nhưng “Sắc thanh Tiếng Việt” vẫn lưu mãi trong điệu Lâm Thôn, trong câu Vọng cổ, trong lời ăn tiếng nói Dân dã của Đồng Bào Miền Nam.                 .                               

         Trong thời “định hướng”, tiếng Tàu tiếng Chệt bành trướng xuống sáu tỉnh miền Bắc, tràn vào Thủ Đô xóa nhòa tiếng Hà Nội xưa, lên giọng lớn tiếng trong các đài truyền hình VTV1, VTV2,..như muốn đồng hóa Tiếng Việt với tiếng Bạch Thoại Quảng Đông. Tôi thầm nghĩ:


1.

Xưa, chí sỹ đã từng dự báo
”Tiếng Việt còn thì nước Nam còn”.
theo lẽ thường đạo nghì Nho giáo.
Lời muôn dân theo Nước sắt son.

2.
Nay, Tuyên giáo trung ương chỉ đạo
”Chế độ còn” thì “sổ hưu còn”
”Còn đảng còn mình”, còn đất bán,
Việt Trung còn, liền biển liền non.

Bộ giáo dục dạy “phần chính trị”,
”phần chữ viết” đã có Bùi Hiền,
bỏ đánh dấu, phụ âm thu gọn,
theo chương trình Ngữ Viện Hán Nguyên.

”Phần phát âm” theo Hồ Ngọc Đại
dùng “vuông, tròn , tam giác” từng ô,
nhịp thước kẻ đều lên bảng viết,
lùa chữ vào đầu óc trẻ thơ.

3.
Giờ, Tiếng Việt lai nhiều giọng Chệt,
đâu còn nguyên thanh sắc Rồng Tiên,
ngôn ngữ nghèo,văn hóa rối loạn,
khi Bắc Phương dần đọat chủ quyền.

Nancy,2008
Đoàn Thuận.

CON CHỮ ĐẦU LÒNG.                                              .

           * Khi Pháp trở lại chiếm đóng La Gi, Má tôi bị bắt, Ba tôi cùng bà con chạy dạt vào cánh rừng phía Nam. Gửi tôi ở lại với Bác Tu, Ba và anh Lành chạy giặc tiếp về xa. Nơi ở của gia đình Bác Tu là một chòi lá, gác trên những nhánh cây cổ thụ, khuất sâu giữa Bưng Tràm. Thường ngày, cả nhà đi làm rẫy ở gần đó. Khi có tôi, Bác Tu bảo chị Liêu ở nhà “giữ Bé”. Chị Liêu là con gái duy nhất của Bác Tu,đã từng ở nhờ nhà Ba tôi đi học. Bác Tu và Ba tôi rất thân. Chị Liêu, coi tôi như em ruột, gọi tôi là ” Bé” .                                                                                                                     
               Sợ Bé té xuống bưng, nên đi đâu,Chị cũng dẫn tôi theo. Một hôm, Chị dạy Bé học chữ A. Trên góc tờ giấy, chị viết lớn chữ A làm mẫu, chỉ vào chữ A, Chị đọc và bảo tôi đọc theo. Chị cầm tay tôi nắn nót viết y chữ A mẫu, từ lớn đến nhỏ dần. Rồi, Chị úp tờ giấy cũ, đưa tờ giấy mới, bảo tôi lập lại những gì vừa làm.Tôi nắn nót viết chữ A mẫu, rồi đọc nhỏ dần với những chữ viết tiếp theo. Chị hôn tay Bé và dắt Bé ra trước chòi. Nhìn những bông Tràm đong đưa, tôi reo lên: “A”, đẹp quá!Tôi nhớ mãi nụ hôn của Chị, như lưu dấu một điểm son, một lời khen của Cô Giáo dành cho đứa học trò bé con. Đối với tôi, hôm ấy là buổi học đầu tiên và chữ A là “con chữ đầu lòng”trong đời.           

         Chị tiếp tục dạy từng chữ cái sau A và dạy chữ nào “được” chữ đó. Dạy trò Bé nói viết được chữ “A in” và “a thường”, Cô giáo Liêu dạy tiếp chữ Ă, chữ Â. Tương tự như vậy, khi dạy U,Ư và O,Ô,Ơ…Chị thường dùng hình ảnh của sự vật cụ thể, để dễ nhớ. Chẳng hạn, khi phân biệt ba chữ O, Ô, Ơ, Chị dùng một câu lục bát:“O tròn như quả trứng gà, Ô thời đội nón, Ơ già có râu”. Một chiều, ở dưới bếp, Chị chỉ vòng miệng tròn của một nồi đất, hỏi tôi giống chữ gì, tôi nói O. Chị úp nón lá trên chiếc dừng, tôi nói Ô. Chị để cái muỗng một bên miệng tô, tôi nói Ơ. Chị hôn trán tôi và nói “được lắm”.Cứ như thế, tôi học được cách bỏ dấu trên những vần đơn. Tôi viết được  tên bác TU, anh ẤN, mà chưa viết được tên chị LIÊU.       

          * Hơn một tháng sau, Ba đến đưa tôi về Cù Mi. Khi từ giã, Chị dặn tôi “ráng học để viết được tên chị”. Chị Liêu là Cô Giáo đầu tiên trong đời tôi, Cô dạy tôi đọc được “con chữ đầu lòng”.                       .                                      .                                                                                   

Cù Mi, 1972.                                                                                    
CÁTSỸ.                                                                                                             [Đoàn Thuận]

 

THẦY LÊ VĂN HỘ và TÔI.                                          .
[kính tặng Đỗ thị Hồng Sương].                                                  .

*  Khi được gọi đi học tập chính trị, tôi lên trường trễ, nên đoàn Khoa học Xã hội đã đi Đà Lạt. Tôi theo đoàn Khoa học Tự nhiên, do thầy Đào văn Lộc làm trưởng đoàn, ra Nha Trang. Hôm sau lên Đà Lạt, tôi đến trình diện trưởng đoàn Lê Văn Hộ, lúc này, chúng tôi mới biết tên nhau. Trước đó, bác Đỗ Đơn Thơ cho Ba tôi biết, Bác có một cháu rể tên Hộ dạy học ở Phan Thiết. Tôi thầm hỏi “người ấy có phải là thầy Lê văn Hộ ?”.                                        .

Đúng vậy,vì năm 1972, khi tôi về Trung học Bình Tuy, thầy Hộ dạy ở Trung học Phan Bội Châu, Phan Thiết. Tháng Tư năm 1975, Thầy về Trung học Bình Tuy, thì tôi làm thợ hồ ở xóm Chợ Cá Biển. Do đó, Thầy và tôi không biết nhau cho tới lúc gặp mặt ở Đà Lạt. Thầy Hộ dạy sử địa nhưng am hiểu về văn học nghệ thuật, lại lịch lãm nên  bạn hữu rất đông. Ngày nào, cũng có người mời Thầy đi giải khát hay đàm đạo về một điều nào đó. Bạn của Thầy, người nào cũng đạo mạo trí thức. Vì vậy, tôi tự thấy khó gặp Thầy, dù rất muốn                                   .        .

Vào năm học mới 75-76, người về trường khá đông, nhưng xa lạ với tôi, dù trước đó có quen mặt vài người.Thầy Hộ làm việc bên chuyên môn, còn tôi làm bên lao động, chỉ chào nhau, khi có dịp.Năm cô Trịnh thị Nghĩa bị cho ra khỏi ngành, thầy Lê Đăng Cử chuyển về Hòa Đa, vì bị nghi ngờ đã bao che cho tôi. Tôi ở lại, dạy rất it giờ, tập trung lo cơ vật chất, gần như xa dần chuyên môn, nên dịp gặp Thầy Hộ hàn huyên rất thưa thớt. Năm 1982, tôi rời khỏi tổ ngoại ngữ, còn dạy một lớp Văn, Thầy Hộ găp tôi chúc mừng, bằng một buổi cà phê phin rất đậm. Cà phê mừng, nhưng chúng tôi rất buồn. Nhâm nhi từng giọt cà phê đắng, nhưng chúng tôi thầm thì từng lời chia sẻ ngọt bùi, về thân phận của một “giáo viên lưu dung” nơi C3 Hàm Tân. Chúng tôi được “tha thứ để dùng lại” như một công cụ, như người giúp việc, sai đâu làm đó, kiếm sống qua ngày… Còn biết bao điều nữa, chúng tôi chỉ nói nhỏ với nhau, đâu dám bày tỏ với ai. .

 

              Nhân vụ kế hoạch 72, tôi bị Sở “đình chỉ công tác, chờ kỷ luật”, Thầy Hộ rủ tôi đi chúc Tết anh Ba Nghị, ở xã Phước Thiện. Ba Nghị, tức Ba của trò Nghị, có ngôi nhà vườn rất đẹp. Tại phòng khách, treo một bức thư pháp, vói bốn câu thơ ngũ ngôn tứ tuyệt của Lê văn Hộ. Câu chuyện đầu xuân từ đây rôm rã với rượu Whisky trắng. Tôi cạn một ly, mặt bừng đỏ. Ba Nghị sợ tôi say ngừng lại, Thầy Hộ lại rót đầy. Ba anh em cụng ly thứ hai, tiếp tục luận bàn về văn chương, trong khi mặt tôi dần tái. Ba Nghị liền chuyển sang chuyện đổi màu. Một tên hiệu phó uống rượu mặt đỏ dần sang tái, nhưng không tái mặt khi bị ai đó phất cờ đỏ, định kỷ luật, đưa từ “nhà trường sang nhà giam”. Đâu phải một lần, mà ba lần bị vu khổng để tống “văng” ra khỏi ghế “hiệu phó”, thế nhưng không chịu “văng”, còn tới đây “nâng ly rượu mừng”.Thấy Ba Nghị thọt lét tôi, Thầy Hộ đưa ý kiến đổi ‘’Văn Thuận” thành “Văng Thuận”. Ba anh em cạn ly, đồng ý lập nhóm”Ba Nghị-Văn Thuận-Lê Hộ”,để kỷ niêm một sự kiện”ba lần đề nghị tống văng tên Thuận, nhưng nhờ trời đất ‘hộ vệ’ nên hắn vẫn ‘lê gót’ trên đườngđời”.                                                                                                                                                                                                                                          Dường như nhờ trời “hộ vệ” để tôi vẫn tiếp tục “lê gót” qua trường hướng dẫn học sinh lao động, khi Sở Công An Bình Thuận yêu cầu Sở Giáo dục và Đào tạo rút lại công văn “đình chỉ công tác” tôi, vì đó chỉ là sự vu khống. Một lần nữa, trời lại “hộ vệ” để tôi “lê gót” qua phố làm thợ hồ, khi Sở Công An khẳng định không hề có việc “đảng dân chủ nổi dạy”. Lê Hộ và Ba Nghị thường khuyên nhủ Văn Thuận hãy an tâm vì không ai thoát khỏi luật nhân quả, khi thấy tôi gửi rất nhiều đơn xin phép Ủy Ban Tỉnh cho ra khỏi ngành. Sau khi Cô Nghĩa ra khỏi ngành, Ba Nghị về Long An, Thầy Lê Văn Hộ là đồng nghiệp duy nhất còn lại trên quê hương La Gi, đã từng an ủi giúp đở tôi vượt qua những khó khăn, khi lao động ở C3 Hàm Tân.


Đầu năm 1994, Ủy Ban Tỉnh Bình Thuận giúp chúng tôi ra khỏi C3 Hàm Tân. Thầy Lê Văn Hộ có quyết định làm Giám đốc Trung tâm Hướng Nghiệp Dạy Nghề Hàm Tân. Tôi cũng được chỉ định xây dựng Trường chuẩn Quốc gia trong khu vực trường Sư phạm Mầm Non cũ. Cả hai chúng tôi đều chờ Tỉnh giải phóng mặt bằng để xây dựng cơ sở mới. Trong khi chờ đợi, Thầy Hộ tham gia làm thông dịch cho đoàn Kiểm tra Hàng hải trên biển và Thầy đã qua đời khi thi hành nhiệm vụ. .                                    .

               * Mỗi độ xuân về, với ly rượu nhỏ, tôi thầm biết ơn và thương nhớ những người bạn tôi kính mến một thời.

.
Hạnh Thông Tây, 2019
Đoàn Thuận.

.

VẮNG BẠN
[để tưởng nhớ thầy Lê Văn Hộ]

Xuân này thôi bạn đã xa
Môt ly rượu nữa hoàng hoa nhớ người.
Sông Dinh đưa nước về khơi
Bấc tháng giêng thổi phương trời liễu dương.

Ai tri âm hề một phương
Vườn xưa cúc đã phai hương lâu rồi.
Ai tri âm hề ly bôi
Giấc chiều nghiêng bóng ta ngồi với ta.

Biết trăng rồi có lúc già
Ngày trôi còn lại bóng tà dương thôi.
Biết người có lúc xa xôi
Bổng dưng có lúc tôi ngồi lặng thinh.

Sao rơi như một vô tình
Vàng thu lắng một sắc hình vào hoa
Chừng như thoáng một hương trà
Và tôi nát một canh gà nhớ thương.
.
La Gi,1996
Đoàn Thuận

NƠI THÔN DÂU.                           .

              *  Nơi Thôn Dâu, dưới mái nhà xưa, đôi lần tôi tự ngẫm về cuộc đời mình. Bao mùa gió sương như nhiên trôi qua, hoa tàn hoa nở, mơ màng sắc hương. Xóm mạc ruộng vườn rừng núi xanh tươi yên bình,  bỗng chốc, trở nên phường phố nhộn nhịp ồn ào náo động. Người đến người đi, sum họp phân ly, có khi vĩnh biệt. Nhưng, tôi vẫn một tôi, khép nép dò dẫm đường về cát bụi.                                 .                                            

               Ngày hưu trí, lúc tịnh yên, tôi  tự nhớ lại đôi điều ước mơ đã từng lỡ độ. Thời lưu lạc tha phương, tôi mong mỏi “được ở bên Mẹ”.  Những năm học ban tú tài, tôi ước gì “được làm kiến trúc sư”, trong ngành xây dựng. Lúc đầu, tôi không dám làm thầy giáo vì tôi cảm thấy tôi không đủ tư cách, nhưng rồi qua sự rèn luyện ở Đại học Sư phạm Saigon, tôi mong ước “được góp phần xây dựng nền Giáo dục Cộng Đồng” với nguyên lý Nhân bản, Dân tộc, Khai phóng. Thế mà, số phận lắm lúc dẫn tôi đi ngược chiều mơ ước.                      .                                                                                                     

              Tôi xa Cha Mẹ, từ khi chưa đầy tháng tuổi, theo Ba Má nuôi đi tản cư qua núi rừng hoang vu. Sau ngày đình chiến 54, về Tân Lý thăm Mẹ, tôi nguyện cầu được ở lại quê, đi chăn trâu mướn, để giúp Mẹ dựng một mái lá, trên nền nhà cũ của Cha tôi. Đơn giản thế thôi. Nhưng chị Đỗ biết tôi học xong lớp nhất, nhờ tôi giúp bạn chăn trâu mù chữ  “đọc a b c, ráp vần, đặt câu”. Tôi đâu dám nhận, vì chả biết gì cả. Chị Đỗ giải thích, trong nền “giáo dục cộng đồng”, “người biết một giúp người chưa biết một”, chứ không phải “đi dạy” hay “làm thầy”. Tôi thầm nhớ lại ngày mới vào rừng tản cư, chị Liêu ở Bưng Tràm cầm tay tôi nắn nót từng chữ, chú Năm Bán ở Xóm Chài, dùng nan mực, chỉ tôi làm toán cộng, toán trừ. Chị Liêu đâu phải cô giáo, chỉ là Thổ dân làm rẫy. Chú Năm Bán là một ngư phủ, chuyên “đánh cá”, chỉ khi biển động mới dạy “đánh vần”. Với tình làng nghĩa xóm, người người giúp nhau khi có điều kiện, để học hỏi cách sinh sống. Nhờ vậy, trong chín năm tản cư, tôi học xong lớp nhất. Nhờ nhớ lại ngày ấy, tôi nhận lời chị Đỗ, giúp bạn tôi “ê a” học vần, tại lớp học “Láng Đá”. Thế rồi gần hai năm sau, Ba tôi bị đầy ra Côn Đảo, tôi xin Mẹ, xuống Láng Găng ở với Má tôi.  Xa Mẹ, xa quê, xa bạn, tôi rất đau lòng, vì đất trời như chẳng thấu hiểu lời cầu nguyện của tôi.                                     .                

                 Từ cuối năm 1956, tôi lưu lạc nhiều nơi, được nhiều người giúp đỡ điều kiện ăn học. Cuối cùng, tại Đại học Văn Khoa, Đại học Sư Phạm Saigon, tôi được rèn luyện thành Giáo sư Trung học Đệ nhị cấp. Với tấm lòng thương trẻ, tôi mong trẻ nghèo được đi học đến nôi đến chốn, nên đã tham gia “kèm trẻ tư gia”, dạy phụ “lớp tráng niên”, dạy chính ở vài tư thục, nơi Gia Định Chợ Lớn, suốt thập kỷ 60 và tiếp theo hai năm ở Trung học công lập Hà Tiên.        

                 Năm 1972, tôi được thuyên chuyển về Trung học Bình  Tuy. Về lại Đất Tổ Quê Cha La Gi, sống gần Mẹ, gần Ba Má là niềm hạnh phúc lớn đối với tôi. Hơn nữa, về đây tôi có dịp hổ trợ những Bạn Trẻ, những Thư Sinh Áo Trắng, tiếp xúc với nền Giáo dục Cộng đồng, để rèn luyện thành người có đức có tài giúp ích cho quê hương. Ngoài ra, Lê Tráng đưa tôi đi thăm đôi xóm mạc, nơi Cha Ông chúng tôi từng trú ngụ, từ Suối Nhum, Núi Cú, Mũi Kê Gà đến Hồ Tôm, Xóm Rẫy Phò Trì, Làng Chài Cù Mi, Thôn Rừng Dầu Bắn. Chúng tôi gặp dân bản địa kỳ cựu để tìm hiểu cội nguồn của La Gi, La Dạ, La Gàn, một vùng núi sông trời biển mênh mông và ghi lại trong tập  tùy bút “Huyền thoại Hòn Bà Núi Ông”. Đối với chúng tôi, “một ngày đi dạy ở Bình Tuy, một đời nhớ mãi”.                                              .                                                                                                  

                 *  Đầu năm 1975, chiến sự bùng nổ ở Cao Nguyên Miền Trung, nhiều cuộc di tản vội vã ra khỏi La Gi. Trường Trung học Bình Tuy gần như đóng cửa, và tôi không còn làm giáo sư trung học đệ nhị cấp nữa. Nối nghiệp Ba, tôi từng bước tập sự vào ngành xây dựng,  đúc bia mộ tại nhà, theo chú Tư Dẹo đi xây nhà cửa ở khu Chợ Cá Biển La Gi. Thế nên, tôi được Ban Quân Quản cấp “Giấy phép làm thợ hồ”, sau khi được trả quyền công dân, vào tháng Tư năm 1975. Tôi quay lại “ước mơ được làm kiến trúc sư”, đã bỏ lỡ khi mới vào đại học.          .  

                  Từ tháng Tám năm 1975, tôi trở thành “giáo viên lưu dung”, giúp việc cho ngành “giáo dục sau giải phóng”. “Phụ trách lao động” tại C3 Hàm Tân. “Tu sửa trường lớp” trong khu Sư Phạm Mầm Non cũ, để tùng bước thành lâp trường Bán công Nguyễn Huệ, theo thiết kế ngôi “Trường chuẩn Quốc gia”.   Dù, tôi đã nhiều lần xin ra khỏi ngành giáo dục, về “làm thợ hồ” theo giấy phép do Ban Quân quản cấp vào tháng Tư năm 1975.    

        

                 * Năm 2003, chính thức từ biệt trường học, rời xa Quê Mẹ La Gi, tôi lại lưu lạc tha phương nơi xứ người.                       

VƯỜN.                                                                                                       

             * Năm 2003, tôi từ biệt trường Bán công Nguyễn Huệ, về lại mái xưa nơi Thôn Dâu, trên Đồi Gió. Những Bờ Dâu, những Xóm Học không còn nữa. Nhà cửa thấp cao che khuất những vườn rau, luống cải, ô hoa. Hàng dương liễu xanh, trước sân trường Bình Tuy ngày nào, như chìm sâu vào quá khứ. Nhưng Gió ngàn phương vẫn lộng thổi qua Đồi, vẩn vi vu trong tâm tưởng lời học bài của bao lớp thư sinh, nơi quê hương tôi.                              

          + Ngày về vườn, tôi để lại sau lưng biết bao nỗi buồn đau. C3 Hàm Tân ở gần, nhưng tôi ngở như xa xăm, đã hơn mười năm chưa một lần trở lại. Vài người nhìn tôi như một tên tội đồ của chế độ, dù tôi đã từng lao động ở đây gần hai mươi năm, kễ từ tháng 7 năm 1975. Tỏi chỉ biết ước mong gió đồi Tân An thổi bạt điều vu vơ về chân trời xa.                .                                                                                                                    

           + Tóc nay đã bạc, mắt đã mờ, nhin thấy đâu trang bài soạn mực nhòe từ thập kỷ 60, nhìn thấy đâu bóng áo trắng thư sinh một thời, trên đường đầy cát bụi. Đầu óc mụ mẫm ngu ngơ, khiến tôi tưởng tôi như cụ đồ già.          .       
                                         
Đôi khi tôi muốn tìm một đệ tử.                                     .
Theo kiểu cụ đồ xưa.                                             .
Để truyền dăm ba chữ.                                  
.
Dạy một thế võ.                                            .
Dặn đôi điều nắng mưa.

Nhưng nhịp đời không cùng nhịp trái tim
Một đô la có lắm người xu phụ.

Tôi về gõ cửa đền đài mơ ước
Tự biết mình ngu ngơ.
   

           * Bạn hiền lưu lạc tha phương, ít người gặp lại.                     
           +  Lê Tráng, bạn chăn trâu thời niên thiếu, đã rời động Tiên Sa, từ giả Xóm Lưới, yên nghỉ nơi Đất Thánh Tân Lý, bên Rừng Dầu, cạnh Bưng Ngang. Ước hẹn cùng bạn hữu về thôn La Dạ, lên Núi Dinh, thả bè mây xuôi La Ngà, như mờ dần dưới bóng trăng huyền thoại “Hòn Bà Núi Ông”. Bài hát Đò Chiều, cung điệu Boléro, cùng gió bay xa theo Trúc Phương, vì Bến Cá Tân Long và  những con đò ngang, đâu còn nữa. Giờ đây, bên tách cà phê đêm, tôi một mình nhâm nhi nỗi nhớ.                                    .                                                                                                                                         

            +  Huỳnh Thanh Trúc, từng học Anh văn với tôi một năm, giờ cũng đã về trời, bỏ tôi lại cõi bụi.  Ngày tôi nhận quyết định xây “ngôi trường quốc gia” trên khu Sư phạm Mầm Non cũ, Kiến trúc sư Huỳnh Thanh Trúc đã giúp tôi “thiết kế” ngôi Trường Chuẩn Quốc gia này, và phác thảo nhanh để tu sửa hai dãy nhà cũ, kịp thành lập Trường Bán công Nguyễn Huệ, vào mùa hè năm 1994. Những ngày tôi gặp lận đận, nhóm Thư sinh Huỳnh Thanh Trúc đã giúp chúng tôi nhiều điểu, trong đó có vẽ một ngôi “biệt thự vườn”, trên nền nhà cũ của Bác Năm Lá, khi tôi mới về đây. Nay về hưu, tôi muốn dựa vào thiết kế của Trúc, lập một “vườn tượng hoa” để lưu lại một chút gì của quê tôi.                 .                                       

             +  Trong thiết kế “biệt thự vườn”, Trúc phác thảo một “Thư Phòng”, nơi lưu giữ những “kỷ vật” của gia đình tôi, và treo những bức “thư pháp”, “ký họa”, đặt vài bức “tượng chân dung” do tôi chạm từ những loại đá đặc biệt trên Đất Mẹ La Gi. Năm 1972, khi tôi về lại quê Mẹ, Lê Tráng và tôi thường đi thăm đôi nơi mà Cha Ông của chúng tôi từng trú ngụ. Đến đâu, chúng tôi thường ghi lại vài đặc điểm của phong cảnh và tình người, nhặt vài rễ cây cổ thụ, vài cục đá đậm màu bản địa, nhẵn bóng thời gian. Tôi dùng lưỡi đục, đã từng đục chữ trên bia mộ, để chạm khắc hình ành Cha Mẹ, Ba Má và người thân của tôi.  Tôi không là nhà điêu khắc, chỉ là người cầm phấn, cầm bay, cầm đục, ghi lại vài nét còn lưu lại trong ký ức buồn vui của tôi.               .      

 
                 +  Nơi mái xưa, nhìn lại không còn gì. Tượng chân dung đã cùng thân hữu lưu lạc đâu đó, kể cả bức ký họa. Còn chăng, một cội mai già trên trăm tuổi, mà Hựu ở Phong Điền tặng tôi, vào ngày chia tay đi Paris. Do đó, ý định lập “vườn tượng hoa”, chỉ là một ý định mơ hồ. .                             .                                         

                * Năm 2005, Thoa rời trường Tiểu học Tân An, lui về hưu trí.  Chúng tôi tạm biệt La Gi vào Thảo Điền, sống những ngày cuối đời.                                  ..                                                   
           .

Tân An, 2005.                                                      .
Đoàn Thuận.                                               .

MỘT MÁI NHÀ.                        

* Khi tôi ở trong khu tập thể C3 Hàm Tân, Bác Năm Lá vào hỏi thăm  về chuuyện sinh sống của tôi, vì Bác biết trước đó tôi đã chuyển qua làm thợ hồ, theo Ba tôi đi xây dựng nhà cửa, giờ không nhà không cửa.Thật ra, nhà ba tôi cũng là nhà của tôi, nhưng sau tháng Tư năm 1975, cháu của ba tôi từ miền Bắc về tạm trú khá đông. Tôi ra riêng, mua nhà ông Huệ, nhưng nhà này lại thuộc diện “đi kinh tế mới”, nên tôi phải trả nhà cho ban Quản lý Nhà Đất, theo qui định, rồi lên C3 Hàm Tân, phụ trách lao động, nếu không phải đi kinh tế mới. Thấy thế, lúc đầu Bác Năm bảo tôi vào ở chung vì Bác thường xuyên ở trên rẫy. Nhưng rồi, Bác mua nhà của Bác Năm Mạnh và nhượng lại căn nhà của Bác cho tôi với giá hạ, gần như cho không. Tôi thầm biết ơn Bác đã giúp tôi có một Mái Nhà.                                                                     

          Bác Năm Lá là người bản địa, có dòng họ làm vườn làm rẫy lâu đời ở Thôn Dâu, trên Đồi Gió. Ba tôi quen với Bác Năm từ thời tản cư.  Khi về dạy ở Trung học Bình Tuy, đôi lần tôi vào thăm Bác, khi ghé ăn bánh ướt tại nhà Bác Năm Mạnh.  Ngôi nhà của Bác, nhượng lại cho tôi, nẳm giữa một khu nhà vườn rất yên tĩnh. Chung quanh là nhà Bác Kích, Chú Tư Liên, Chị Hai On, Anh Năm Bình. Về đây, chúng tôi như nương tựa vào sự đùm bọc của thôn xóm.  Tôi cũng gặp lại nhiều bạn trẻ, đã từng ở dưới mái trường trung học Bình Tuy, mà tôi tưởng đã phân ly vì hai nền giáo dục khác biệt, nhất là nhóm thư sinh Huỳnh Thanh Trúc, dù tôi không còn dạy Anh văn như ngày xưa nữa.          .                            

             Tại dây, cuộc sống của chúng tôi dễ chịu hơn. Phần đất sau nhà, chúng tôi trồng mướp, trồng bầu, trồng rau muống hột. Trước nhà, dưới ánh đèn đêm, chúng tôi đúc bia mộ, theo đơn đặt hàng của bà con trong huyện, hay đan lác, gia công hàng mỹ nghệ. Ngoài ra, Bác Năm Lá giành cho tôi một lô đất khá rộng, ở Suối Đĩa, để trồng khoai lang.  Gần như, đây là nguồn sống chính của chúng tôi. Dù vợ chồng chúng tôi đều làm việc trong trường, nhưng lương rất thấp. Khác trước năm 1975, với lương chính ngạch, tôi nuôi đủ một vợ ba con, trong một gia đình đầm ấm yên vui. Tiền dạy thêm, ở các trường tư, tôi phụ ba tôi mua đất, xây một nhà lầu, trước chùa Quảng Đức. Đi lại, tôi có một Lambretta đời mới. Giải trí trong nhà, tôi có dàn Akai với trên một trăm băng ma-nhê đủ loại nhạc. Nghiên cứu giảng dạy, tôi có vạn quyển sách quí, được tích lủy suốt thập kỷ 60, ở Saigon. Giờ, tôi chỉ có vài cánh lan rừng , dăm chậu mai, chậu nguyệt quế.

        Dưới mái nhà này, tôi lưu giữ vài kỷ vật gắn bó với cuộc đời của chúng tôi.                                  .                                                                      
        +  Nhà Bác Năm Lá được sửa lại, nhưng vẫn giữ “nền cũ tường xưa” và cửa sổ mặt tiền, chỉ thay mái tôn xuôi bằng hai mái ngói đỏ. Tôi muốn lưu lại dấu tích ngôi nhà của Bác, dù có thiết kế kiến trúc một biệt thự vườn rất đẹp.                                  .                                                                         
        +  Một bộ sa-long cổ, bằng gõ đỏ.Vật kỷ niệm của Ba tôi, khi buôn cây với Nhật Bản, ở Lagi, thời Pháp thuộc.                                        .                   
        +  Một tủ kính bằng săng-đá.  Má tôi dùng đựng vải, khi mở tiệm may ở Láng Găng, vào năm 1958. Tôi sửa lại để cất những bức tượng nhỏ, do tôi tạc về Cha Mẹ tôi, bằng rễ cây hay đá xanh, nhặt từ huyệt mộ của Cha tôi, khi hốt cốt vào năm 1972, và một bộ tách trà cổ, vài album ảnh của họ hàng, với mấy quyển tùy bút bằng văn vần của tôi.                                                 
         +  Một khuôn hình bằng gỗ quí do Bác Tu ở làng Phò Trì tặng Mẹ tôi vào năm 1960. Khi Mẹ qua đời, tôi dùng khuôn hình này để lộng ảnh Mẹ.                                                                                                                          
         +  Một bức tranh sơn dầu họa chân dung Thoa, do Nguyễn Thế Cường vẽ tặng vào năm 1972, khi chúng tôi từ Hà Tiên về Bình Tuy, ghé thăm gia đình Cường tại Saigon. Cường là bạn thân của chúng tôi, thời học đại học.                   .           .                                                          
         +  Một bàn viết mặt mê-ca dày, mang nhãn “Blue Boston”, do trường Trung học Bình Tuy tặng vào tháng 10 năm 1972, khi tôi về dạy học trên
Tân An,1980
CÁT SỸ

[Đoàn Thuận]                                            

SỰ THẬT KHÓ TIN.                                                                                   

             * Trang tùy bút “C3 Hàm Tân và tôi” làm phật lòng một số người vì cho là điều “khó tin”. Nhưng đó là sự thật và “sự thật làm phật lòng người” đưa đến “khó tin”, hay “không muốn tin”, như ông bà ta thường nói.                                          .                                          

            * Tôi xin phép được nói rõ hơn về vài điều “khó tin” liên quan đến cá nhân tôi, khi về “lao động”, không phải “dạy học”, ở C3 Hàm Tân.                                . 
      
            +  Cuối tháng Tư 1975, tôi và nhóm “thợ hồ” của chú Tư Dẹo lên trường “tu sửa trường lớp” và lập “khu tập thể”. Thật “khó tin”, một giáo sư trung học đệ nhị cấp, dạy dưới chế độ Mỹ Ngụy trên mười năm, giờ “buông phấn cầm bay” Nhưng ông Vũ Hồng,  ban Quân Quản, bà con chung quanh trường Bình Tuy cũ, nhất là bác Kích, biết rõ điều ấy.    
                                    
            + Khi hiệu trưởng Lê Đăng Cử đưa tôi quyết định phân công làm “trưởng ban lao động”, tôi đã hướng dẫn học sinh toàn trường đi “lao động”. Khắp Huyện Hàm Tân ai cũng biết, chì có vài người “không muốn biết”,”không muốn tin” câu nói của Lê Duẫn, “trồng bo bo, không lo nghèo đói”, khi thấy học sinh trồng bo bo ở Tân Hà, trong đó có Phan Dương Thi, ”sáng đớp khoai lang, tối khoai mì”.              .                                                               
                         
            +  Cô Trịnh Thị Nghĩa và tôi bị tố “vượt biên hụt”. Cô Nghĩa bị đưa ra khỏi ngành. Thầy Lê Đăng Cử và tôi gặp cô Nghĩa an ủi. Tôi nói thật với Cô:”Tôi bất hạnh, phải ở lại ngành”. Vì tôi đã khai rõ với Ban Quân Quản tôi là “công chức Ngụy, sỹ quan biệt phái”,”không vượt biên”, “không muốn ở lại ngành giáo dục”chỉ mong được sinh sống bằng một nghề tự do. Và ban Quân Quản cấp cho tôi “Giấy phép làm thợ hồ”. Thật “khó tin”, nhiều người muốn “đi dạy”, một tên “Ngụy được trả quyền công dân”, lại chỉ muốn “làm thợ hồ” Nhưng đó là sự thật, Ông Trần văn Bản, và nhiều cán bộ cao cấp ở Phan Thiết, Phan Rang biết rõ.                               .
                                                
                + Thật “khó tin”. Một “giáo chức tư sản Ngụy” lại “khai man lý lịch” là đi “chăn trâu”, đề được Ủy Ban Tinh tin là giại cấp vô sản, cho làm “trưởng ban lao động” tại “nhà trường cách mạng”. Lại càng “khó tin” hơn, khi Bí thư Đoàn trường cùng công an Huyện cất công về Tân Bình điều tra, thì ông Năm Cận và ông Hai Tứ  khẳng định “Thuận đã chăn trâu cho chúng tôi” Đó là sự thật” cả làng Tân lý, Tân Long ai cũng biết    .                          .                           

                  + Thật khó tin ! Một phó hiệu trưởng phụ trách lao động “vi phạm nghiêm trọng Kế hoạch 72” bị các “tổ trưởng chuyên môn trường C3 Hàm Tân tố cáo” và bị Sở Giáo dục “đình chỉ công tác chờ kỷ luật”, nhưng chính Trưởng ban Kế hoạch 72 khẳng định tên “hiệu phó” ấy đã “thực hiện nghiêm túc Kế hoạch 72”và Sở Giáo dục phải rút lại công văn “đình chỉ công tác”. Lại càng “khó tin”, một khối tổ trưởng chuyên môn được Sở Giáo dục hậu thuẩn mà không tống được một tên “phụ trách lao động” ra khỏi C3 Hàm Tân, để giành “ghế phó hiệu trưởng”, mặc dù hắn đã làm nhiều đơn “xin ra khỏi ngành giáo dục”.    .                                                                  

                    +  Thật khó tin ! Chi bộ cùng Đoàn Thanh niên với Công Đoàn trường C3 Hàm Tân, tố thầy Đào văn Lộc và tôi là “đảng Dân chủ nổi dậy”, nhân vụ một nhóm giáo viên tố Hiệu trưởng tham nhũng. Sở Công an Bình Thuận đã vào cuộc và khẳng định “đảng Dân chủ không liên quan gì đến hai hiệu phó”. Thầy Đào Văn Lộc bỏ C3 Hàm Tân, chuyển toàn bộ gia đình về quận Bình Thạnh. Tôi xin phép Ủy Ban tỉnh Bình Thuận ra khỏi ngành. Tỉnh không chấp thuận, vì tôi đang tham gia bồi dưỡng Học Sinh Giỏi ở Phan Thiết. Đầu năm 1994, tôi tự bỏ C3 Hàm Tân về làm thợ hồ, và không trở lại, dù một lần.                 .    
                             

                     * Bao điều nữa “khó tin”!                                    .                 
                     + Khi xây dựng xong “khu tập thể”, tôi từ giã Ngôi trường Trung học Bình Tuy xưa, Ngôi trường của quê hương, cùng bao thế hệ thư sinh, trên Đất Mẹ La Gi. Một lần dạy học ở đây, muôn đời nhớ mãi.       
                                   
                     + Thật lòng, tôi mong được làm thợ hồ nối nghiệp ba tôi, được sinh sống tự do, và muốn tìm lại ước mơ đã bỏ dở khi vào Đại học Kiến Trúc Saigon. Nhưng số phận đẩy đưa tôi vào “lao động” nơi C3 Hàm Tân, dù nhiều lần tôi xin ra khỏi ngành . Để rồi tại đây, tôi bị vu khống nhiều điều, chừng như C3 Hàm Tân không phải là ‘nhà trường”.Tôi muốn chính danh ra khỏi ngành, không muốn bị giam hãm.                                                             

                       + Từ biệt C3 Hàm Tân, cô Trịnh Thị Nghĩa về với đất trời từ tội danh “vượt biên hụt”. Thầy Trần văn Thịnh thôi “dạy học”, đi “làm vườn”, để tránh kế hoạch 75. Thầy Đào văn Lộc rời Hàm Tân trở lại quê nhà Bình Thạnh, sau lần bị vu khống “đảng Dân chủ nổi dậy”. Thầy Lê Văn Hộ đột ngột vào cõi vĩnh hằng, bỏ tôi lặng thầm trên đường cát bụi, với bao nỗi nhớ thương. Thôi, vĩnh biệt C3 Hàm Tân.                                                                       

Hạnh Thông Tây, 2019.                                             .
Đoàn Thuận.                                                .

CẤP 3 HÀM TÂN và TÔI.                                         .

          * Tháng Tư năm 1975, sau khi “học tập cải tạo tại chỗ”, tôi được  cấp “Giấy phép làm thợ hồ”, theo nghề của Ba tôi. Hôm sau, Ban Quân Quản giao tôi “tu sửa trường lớp” ở Trung học Bình Tuy cũ.          .                       

              Tôi lên trường nhận việc. “Nhóm thợ hồ” chúng tôi nhận tu sửa dãy phòng học cũ làm “khu tập thể” gần cổng sau, và xây mới “bếp ăn tập thể” cùng bốn nhà vệ sinh. Khi xong việc, tôi đến trình Bác Kích, bác bảo vệ trường. Bác nói với tôi “trước cầm phấn, giờ cầm bay”. Như vậy, từ đây tôi không còn đi dạy nữa, dù đã dạy học ở  quê nhà La Gi gần hai năm. Tôi úp bàn tay phải lên trụ cổng sau và thầm từ giã  trường Trung học Bình Tuy, với nỗi buồn không lời.                               .                                                                                                  

           * Sau khi học tập đợt 2 ở Đà Lạt về, tôi mua nhà của ông Huệ gần cầu Tân Lý, đối diện nhà Huỳnh Thanh Trúc, để tiện làm thợ hồ. Đêm tôi đúc bia mộ theo đơn đặt hàng, ngày tôi theo chú Tư Dẹo xây nhà ở Bến Cá La Gi. Tôi quyết định theo ngành xây dựng, dù nhiều người khuyên tôi trở lại ngành giáo dục, trong đó có nhiều cán bộ cao cấp ở Phan Thiết, Phan Rang.                                                .                                            

           Tôi làm “thợ hồ” được vài tuần, Ban Quân Quản cho biết nhà tôi đang ở nằm trong diện “đi kinh tế mới” và thu hồi “Giấy phép làm thợ hồ”, yêu cầu tôi lên trường cũ làm việc theo giấy “Giới thiệu số 2” của trưởng Phòng Giáo dục Trần văn Bản. Tôi đành lên trường trình diện Hiệu trưởng Lê Đăng Cử.                                    .                      

          * Trường được thay tên bằng Trường Cấp 3 Hàm Tân. Tôi bước vào bên trong đất cũ nền xưa Trung học Bình Tuy, chỉ thấy người xa kẻ lạ dép râu nón cối, áo ngắn quần nhăn, khuất mất áo dài. Tôi như lạc giữa “khung cảnh cách mạng”, ai cũng thuộc “giai cấp vô sản”, chỉ riêng tôi sặc màu “tư sản”, với sơ-mi trắng đóng thùng, đồng hồ Rolex không cửa sổ. Tỏi định bỏ về, bất ngờ, một nông dân đặc sệt lôi tôi vào phòng hiệu trưởng. Thì ra người ấy là thầy Lê Đăng Cử.                         .                                        

            Thầy Cử dường như biết nguyên nhân khiến tôi không muốn đi dạy, và biết cả chuyện Ủy Ban tỉnh Thuận Hải điều tôi về giúp Thầy ổn định trường lớp, để kịp khai giảng năm học mới. Trước sự chân tình ấy, tôi chấp nhận ở lại “giúp việc” theo sự chì bảo của Thầy. Thầy trao quyết định phân công tôi làm“trưởng ban lao động”. Tôi chuyển nhà lên “khu tập thể”, nơi tôi đã tu sửa, trước đó.                                     .                                                                     

             Đầu tiên, tôi dẫn học sinh toàn trường đi trồng bo bo ở Tân Hà, trồng mì ở Tân Hải, trồng lang ở Sơn Mỹ, đào mương “dẫn thủy nhập điền” từ đập Đá Dựng vào đồng Tân Thiện, đào ao cá Bác Hồ, và một số công trình lao động khác. Về sau, chỉ còn lo “vệ sinh trường lớp”, nên tôi được giao dạy tiếng Anh tiếng Việt, chỉ vài lớp.                      .                                        
         
            Khi trường tương đối ổn định, giáo viên càng ngày càng đông, cô Trịnh thị Nghĩa và tôi bị tố “vượt biên hụt”. Tổ chức Huyện khẳng định từ cuối 1974 đến tháng Tư năm 1975, tôi chỉ ở trong nhà Ba tôi, không đi đâu cả. Cô Nghĩa ra khỏi ngành. Thầy Cử chuyển về Hòa Đa. Với thân phận “giáo chức Ngụy dạy tiếng đế quốc Mỹ”, tôi chấp nhận mọi hoàn cảnh, miễn được làm việc, học hỏi bên những “bạn trẻ”của quê tôi.                .

          * Khi tôi được nâng từ “trưởng ban” lên “phó hiệu trưởng” phụ trách lao động, vài “kẻ dấu mặt”, dựa lưng quyền thế, tìm cách tống tôi ra khỏi C3 Hàm Tân. Tôi thầm mong mưu kế của họ đạt hiệu quả, để giúp tôi “ra khỏi ngành”, làm thợ hồ, tự do sinh sống.                   .                                                               

              Sau vụ cô Nghĩa, tôi bị tố tội “khai man lý lịch”, rằng “tư sản lại khai chăn trâu ”, “Ba họ Nguyễn khai con là Trần Văn Thuận”,“học Ban Việt Hán khai láo để dạy tiếng Anh”….Hiệu Trưởng gọi tôi lên cho xem đơn tố cáo và bắt tôi khai lại. Tôi yêu cầu Trường căn cứ vào việc “khai man lý lịch”, lập văn bản gửi Tổ chức Tinh, đề nghị “kỷ luật cho tôi ra khỏi  ngành”. Tôi lặng thầm chờ tin.                                                             

             Và tin vui đã đến. Sở Giáo dục có công văn “Đình chỉ công tác” chờ kỷ luật tôi với tội “Vi phạm trầm trọng kế hoạch 72, căn cứ vào đơn tố cáo của các “tổ trưởng chuyên môn trường C3 Hàm Tân”. Nhưng sau Tết, Giám đốc Sở và Trưởng ban Kế Hoạch 72, về trường họp Hội đồng, rút lại công văn “đình chỉ công tác”, vì tôi “thực hiện nghiêm túc Kế hoạch 72”, căn cứ vào hai lần kiểm tra kỹ nhà tôi. Không rõ, quí tổ trưởng chuyên môn nghĩ gì về tôi.

               Tiếp theo, thầy Đào văn Lộc và tôi bị vu khống “đảng dân chủ nổi dậy”, nhân vụ một nhóm giáo viên tố thầy hiệu trưởng tham nhũng. Sau đó, thanh tra khẳng định thầy Đào văn Lộc và tôi không liên quan gì đến đảng dân chủ. Thầy Lộc về làm hiệu trưởng trường Nhà Bè ở thành phố HCM, còn tôi xin làm giáo viên bình thường, vì lúc ấy tôi đang tham gia bồi dưỡng Học sinh Giỏi, ngoài Phan Thiết. Người thay thế chúng tôi là ông Nguyễn Phi Thảo và Phan văn Bảng.                  .                                          

              Năm 1993, báo Bình Thuận khép tôi vào tội “mơ tưởng đến Sài Gòn, thủ đô chế độ Mỹ Ngụy” mà chứng cứ nằm trong  mấy câu:

Đã mấy năm xa Sài Gòn ơi.              .
Gót giày mê mải một phương trời.                            .
Tôi như du tử nhớ quê cũ.                                .
Đốt lửa chiều lên ấm đôi môi.    

             Phòng Văn hóa Thông tin và Công An huyện Hàm Tân, nhiều tuần, gọi tôi đến làm bản kiểm điểm, tự khai về tội nói trên. Tôi gần như bị đình chỉ công tác. Sau đó, một người ở báo Tuổi Trẻ về tỉnh Bình Thuận trình một “trang lưu bút” viết tay bốn câu thơ nói trên, ký tên Trần Thuận vào 1972. Sài Gòn 1972 là Sài Gòn. Tất cả lặng thinh.   .                                                      

            * Tôi tự ghi nhớ.                                             .
            Cuối tháng Tư năm 1975, với tư cách “một thợ hồ”, tôi cầm bay xây “khu tập thể” để “cán bộ lãnh đạo”, “giáo viện chi viện” có nơi ăn chốn ở, và “tu sửa trường lớp”, để chuẩn bị mở trường C3 Hàm Tân, theo lệnh của Ban Quân Quản.                                       .                                                                         
            
             Sau đó, Tỉnh điều tôi về C3 Hàm Tân làm “trưởng ban lao động”, “giúp việc” cho lãnh đạo, lo về cơ sở vật chất, để phục phụ  cho giảng dạy và học tập. Dù được tha thứ để dùng lại, như một “giáo viên lưu dung”, nhưng tôi chỉ dạy vài lớp tiếng Anh tiếng Việt, khi có yêu cầu. Có lẽ vì vậy, tôi bị vu không nhiều “tội ngiêm trọng”, tưởng như từ “nhà trường”sang“nhà giam”.Nhưng nhờ Trời, tôi vẫn bước đi giữa đời.                                                                                              
             
              Đầu năm 1994, tôi rời bỏ C3 Hàm Tân và không trở lại nữa.   

                

Tân An, 2004.                                                              .
Đoàn Thuận.

 

GHẾ và “KẺ DẤU MẶT”.

  *           Sau đình chiến 54, quí thầy cô ở Bình Châu rất lo cho tôi khi đưa tôi lên Bà Rịa đi học, vì Ba Nuôi đang ở tù Côn Đảo. Thầy Thân nhờ tu viện Saint Paul giúp đỡ để tôi tiếp tục đi học. Mẹ Bề Trên dặn tôi không được đi đâu, không được tiếp xúc với người ngoài tu viện. Nửa tháng sau, Soeur Augustine đưa cho tôi tờ “Thế vì khai sanh”, trong đó thay đổi họ, năm sanh và nơi sanh. Gần như tôi không liên hệ gì đến người tù Nguyễn văn Bản, với quam niệm “cha làm cha chịu, con làm con chịu”. Nhờ đó, tôi tự do chọn trường học, và tôi đã học từ tiểu hoc lên đại học, vào học nghề sư phạm ra trường đi dạy.

            Ở miền Nam, nền giáo dục Cộng Đồng nhầm đào tạo người có đức có tài, có ích cho Tổ Quốc, theo nguyên lý “nhân bản, dân tộc, khai phóng”. “Đạo đức nhân bản” là trên hết theo phương chăm “tiên học lễ, hậu học văn”, chứ không chỉ “học tập theo gương… ai”.  

   .                   

            Hơn nữa, người thiện tâm giúp trẻ nghèo có đủ điều kiện đi học đến nơi đến chốn. Người học xong, có nghề, được quyền chọn lựa nơi làm phù hợp với khả năng. Xã hội có trách nhiệm xử dụng nhân tài đúng người, đúng chỗ, đúng năng lực, và trên hết phải có đạo đức nghề nghiệp. Không có tình trạng “lớp ba lớp bảy bỗng chốc thành tiến sỹ”, dựa lưng lý lịch “gia đình có công cách mạng”, làm “thái tử đỏ” ngồi trên ‘hòm kim cương” trong “biệt phủ”, vu khồng tồng đạp ‘người thấp cổ bé miệng” vào trại giam để chiếm “ghế vàng”.                        .  
                                        

*

               Tháng Tư năm 1975, Ban Quân Quản cấp “giấy phép làm thợ hồ”, điều tôi đi “tu sửa trường lớp” ở trường Bình Tuy cũ, rồi thu hồi “giấy phép làm thợ hồ” buộc tôi lên trường C3 làm “trưởng ban lao động”. Dù tôi có dạy vài lớp tiếng Anh, nhưng “lao động” là chính.    .                                

                Sau khi, tôi được nâng lên “hiệu phó phụ trách lao động” tôi bị tố nhiều tội danh, và hai lần bị đình chỉ công tác, chờ bị kỷ luật. Rồi mọi việc đều được làm sáng tỏ. Tôi đã  gửi Ủy Ban Tỉnh nhiều đơn “xin ra khỏi ngành”. Đầu năm 1994, tôi đành từ biệt trường C3 Hàm Tân, dù Tỉnh không chấp nhận.                                                                       .                                     
 
               Mùa hè 1994, Ủy Ban Tinh lại điều tôi đi xây dựng “ngôi trường chuẩn quốc gia”,và chỉ đạo tôi sửa gấp hai dãy nhà cũ thành những lớp học để kịp khai giảng năm học 1994-1995. Chờ mãi không thấy vị “hiệu trưởng do Sở Giáo Dục bổ nhiệm” trước đó 3 năm, nên Tinh yêu cầu tôi kiêm nhiệm.                                  .          .
       
              Đầu năm 1995, tôi đặt viên gạch đầu tiên để xây “trường mới” theo “Mẫu Kiến Trúc 2”. Trước sau, tôi chỉ là người “làm thợ hồ”, ngưới “tu sửa trường lớp” người “phụ trách lao động”, người “xây dựng”, dù được xếp loại “giáo viên lưu dung”, còn ghế “hiệu phó”  “hiểu trưởng” không phải là đồ vật tôi cẩn, là chỗ ngồi của tôi, mà do Ủy Ban Tỉnh ra lệnh, tôi phải chấp nhận . Điều tôi cần nhất là Tình Người.                                                                       

               
             Năm học 1999-2000, trường phát triển lên 44 lớp C3 và đang triển khai xây dựng giai đoạn 2. Nhưng “kẻ dấu mặt” tố tôi nhiều tội. Sở Giáo Dục, Sở Tài Chánh, Sở Công An về thanh tra trường, và điều tra thân nhân tôi, ở nhiều nơi. Cuối cùng, tôi không sai phạm một điều gì.         

*
Năm 2003, tôi từ biệt trường Bán công Nguyễn Huệ.                                     

Trường Nguyễn Huệ và tôi.                                      .                                    

           Đầu năm 1994, tôi tự rời khỏi trường C3 Hàm Tân, dù nhiều lần làm đơn xin ra khỏi ngành, dù Ủy Ban Tỉnh Bình Thuận yêu cầu tôi ở lại.
                   
*         
           Tháng 3 năm 1994, Tỉnh điều tôi đi “xây dựng một ngôi trường mới”, để thành lập trường Bán công, trong khu vực trường Sư Phạm Mầm Non cũ, khu đất thuộc làng thương phế binh Bình Tuy trước 1975, với thỏa thuận “sẽ cho tôi chuyển ngành khi trường xây xong”.         .                                                                                   
          Khi vào khu đất để tìm lại căn nhà thuê của thấy Lượng trước 1975, tôi bị một số người phản đối kịch liệt, vì khu đất định xây “ngôi trường mới” chính là khu “nội trú” của công nhân viên chức và giáo viên, do trường C3 Hàm Tân quản lý. Riêng, Phó chủ tịch huyện Huỳnh Công Ly cũng phản đối việc sử dụng lô đất mặt tiền sát đường Nguyễn Huệ, nơi tọa lạc phòng Văn hóa Thông tin. Căn cứ vào sự phản đối này, tôi gởi Ông Huỳnh Công Ly lá “Đơn từ chối” quyết định điều động tôi đi xây ngôi trường mới, với lý do tôi không đủ khả năng, kèm theo mọi hồ sơ liên quan.                               .      
            Ngay sau đó, Tỉnh về hợp triển khai kế hoạch mở trường Bán Công và yêu cầu tôi tham dự. Trong phiên hợp này, Tỉnh nêu nguyên nhân, ba năm trôi qua, mà Huyện vẫn chưa mở được trường bán công, dù Sở đã bổ nhiệm một “đảng viên ở C3 Hàm Tân” làm hiệu trưởng bán công. Vì Tỉnh quyết định bằng mọi cách phải mở cho được trường bán công trong năm học 1994-1995, nên hợp để bàn cách thực hiện. Phó chủ tịch Tỉnh chất vấn tôi vì sao “bỏ ngành”, vì sao “từ chối quyết định điều động của Tỉnh”. Tôi nói thẳng “không thích làm thầy, thời buổi này”. Thầy Nguyễn Hiền, trưởng phòng giáo dục Hàm Tân cho biết, “thời này” học sinh không vào được trường công rất đông và khuyên tôi ở lại ngành. Nhiều người cũng khuyên tôi như thế, và tôi nhận lại “quyết định điều động” của Tỉnh.                                                             .

*  

            Theo qui chế của trường Bán công, chỉ có hiệu trưởng và kế toán là người trong biên chế, còn lại là hợp đồng. Khi nhận quyết định thành lập trường, chỉ có một mình tôi vào tiếp nhận khu đất. Hôm sau, rất nhiều người tự động giúp tôi ở nhiều lãnh vực, trong đó có cán bộ Tỉnh Huyện, quí thầy cô, quí phụ huynh, và đặc biệt là những bạn trẻ.       .                                
             Ông Lê Thanh Mười, Phó chủ tịch huyện Hàm Tân, đã tổ chức “giải phóng mặt bằng”, nhất là lô đất mặt tiền sát đường Nguyễn Huệ, để tránh trở ngại do sự phản đối dữ dội của nhiều người, để sớm bàn giao cho trường. Ngoài ra, Ông còn giúp chúng tôi giải quyết nhiều vấn đề liên quan đến hồ sơ thủ tục.                        .                               

              Kiến trúc sư Huỳnh Thanh Trúc đã phác thảo ngay một ngôi trường theo “yêu cầu trước mắt” của Tinh, bao gồm dãy văn phòng,  và tám phòng học, với đầy đủ bàn ghế, bảng đen, phục vụ cho giảng dạy. Tiếp theo, Ông thiết kế một “ngôi trường chuẩn quốc gia” trên sáu mươi phòng học, cùng dự án phát triển trong tương lai.

             Thầy Nguyễn Hiền, Trưởng phòng Giáo Dục Hàm Tân, cho trường mượn một “kế toán trong biên chế”, và giới thiệu một số giáo viên nhân viên họp đồng, từ bảo vệ đến giám thị và nhân viên văn phòng, mà trường rất cần ở giai đoạn đầu.

             Thầy Mai Hữu Cường, trưởng phòng tổ chức Sở GD&ĐT Bình Thuận, nhanh chóng bổ dụng đội ngũ cốt cán. Nhiều giáo viên, không ngại trường “bán công” mới thành lập còn “lôi thôi nhếch nhác”, đã về phụ trách đủ các bộ môn.                                 .
             Nhờ thế, Trường Bán Công Nguyễn Huệ đã khai giảng năm học 1994-1995, đúng kế hoạch.                                  .

*

             Từ mùa hè 1995, trường Bán Công Nguyễn Huệ chuyển sang “Giai đoạn 2”.Tiếp tục giải phóng mặt bằng, để bắt đầu xây dựng “Trường chuẩn quốc gia” theo “Mẫu Kiến Trúc 2” và “Dự án Phát triển” đã được phê chuẩn.                                                                   .                                     

            Về cơ sở vật chất, xây mới hàng rào và cổng trường, xây mới dãy lầu gồm 15 phòng học và 3 phòng giáo viên, xây mới sân trường trước dãy lầu, nhà để xe sau dãy lầu, sửa phòng Văn hóa Thông tin cũ thành phòng Hành Chánh, phòng Phó Hiệu trưởng và phòng Hội Đồng.                                                        
             Về Bổ túc Văn hóa, trường mở 3 lớp Bổ Túc, dạy chương trình phổ thông trung học, cho cán bộ công nhân viên chức trong huyện Hàm Tân. Sau 3 năm, có gần 400 người có bằng Tốt nghiệp Trung học Phổ thông. Ngoài ra còn có một lớp đêm về vi tính, cấp chứng chỉ  “Computer A”.                                    .                         
                Về giáo dục phổ thông, trường phát tiển từ 8 lớp cấp 3 ở năm học 1994-1995, lên 44 lớp cấp 3 vào năm học 1999-2000, liên tục đạt danh hiệu thi đua “Trường Tiên Tiến.            

*
                Vào mùa hè 1999, trường  thực hiện “Giai đoạn 3”, tiếp tục xây dựng phần còn lại của “Mẫu Kiến Trúc 2”.                               .
                Sau khi, Sở Giáo Dục đưa Công ti Cổ phần Saigon 2 vào triển khai kế hoạch, có “ai đó” tố tôi ăn hối lộ lập quỷ đen, đưa công ty ngoài Hàm Tân vào làm. Công an Huyện vào điều tra và tôi yêu cầu Sở trả lời. Lại  có”ai đó” trong chi bộ phát biểu “hiệu trưởng C3 phải là đảng viên, không phải “sỹ quan biệt phải”, và một đảng viên nói thẳng với tôi trong một phiên hợp “ đây là chỗ của chúng tôi, không phải của ông”. Dường như Tinh biết điều này, nên khuyên tôi bình tĩnh  ở  lại làm việc, thực hiện đúng thỏa thuận.

                Để trả lời trước công an, Sở về trường kiểm tra nhiều ngày, nhưng kết luận trường “không sai phạm”. Thế rồi, Sở Công an và Sở Tài Chánh về thanh tra trường, điều tra thân nhân tôi, trong 30 ngày, nhưng không phát hiện điều gì sai trái.                                  .
                  Năm 2001, thầy Mai Hữu Cường thấy lương tôi rất thấp, nên đề nghị Tỉnh cho tôi hưởng lương “chuyên viên loại 1” để chuẩn bị nghỉ hưu.                                   .                
                                                                     *                                                            
                  Năm 2003, tôi từ biệt trường Bán Công Nguyễn Huệ về hưu, và có lẽ chẳng bao giờ trở lại.                       .                               

La Gi, 2003.                                                                 .                            
Đoàn Thuận.        

 

ĐỒI GIÓ TÂN AN.

.
         Tháng Chín là mùa tựu trường. Học sinh áo trắng khắp nơi tề tựu về Xóm Học, khởi đi từ xóm đạo Đồng Tiến, vòng qua ty Giáo Dục, lên Đồi Sim, xuống Suối Đó. Trung học Bình Tuy, như một tâm điểm giáo dục, nằm đầu Dốc Tỉnh, giữa trung tâm hành chánh của tỉnh lỵ Bình Tuy.                                          .
 .          Dốc Tỉnh từ ngàn xưa mang tên Đồi Gió. Gió Nồm ru hạt mưa rơi trên những khu vườn cây xanh nương đồi ruộng rẫy, những xóm mạc bình yên. Gió Bấc hiu hiu thổi từ biển xa, qua bờ dương liễu về Núi Nhọn Mây Tào.Từ đỉnh Đồi Gió, bao cánh chim bay muôn phương.                                         .   

.            Từ Trung học Bình Tuy, từng lớp trẻ, với đôi mắt thanh xuân vầng trán thông minh,  theo bước cha ông, đi cấy trồng những mùa xanh trên Đất Mẹ La Gi.                                         .

Tựu trường tháng chín về đây
Hồn nhiên áo trắng hàng cây sân trường.

Tân An đón gió ngàn phương,
Một đồi nắng, một đồi hương đất trời.
Một đồi cao trước biển khơi,
Một đồi xanh, giữa muôn nơi xanh màu.

Xanh non, Núi Nhọn Mây Tào.
Sông Dinh xanh, nước đổ vào biển xanh.
Xanh bờ, dương liễu cuối gành.
Xanh vườn, xanh ruộng, rừng xanh bạt ngàn.

Những đường liên tỉnh qua ngang
Nối khu Hành Chánh với làng thôn xa.
Vườn cây ẩn hiện xóm nhà.
Quanh năm khí hậu ôn hoà đất quê.

Xuân sang mai nở bốn bề.
Thu mưa, hạ nắng, đông se lạnh trời.
Mưa, vào ruộng rẫy nương đồi.
Nắng, làm mỹ nghệ, mộc phôi, đủ nghề.

Tình quê hương níu dân về,
Bên nguồn xưa vọng lời thề nước non.
Sâu trong nỗi mất và còn,
Giọt hồng máu thấm trong hồn đất đai.

Sóng xanh vỗ mộng bãi dài.
Rừng thiêng ôm giấc hình hài anh em.
Mẹ ngồi ru bóng trăng đêm.
Đồng quê bông lúa ru mềm Suối Sâu.

La Gi, 1974
CÁT SỸ
[Đoàn Thuận]

 

SẬY DẠI
trước
GIO! MÙA.                                                                                                                                       

            Đời tôi luôn chênh vênh giữa ước mơ bình yên và thực tiển hiểm nghèo. Nhiều người nghi ngại tôi như kẻ gây ra bất hạnh cho đời họ và tìm cách làm tiêu hao sức sống của tôi, đẩy tôi vào góc khuất khép kín cô đơn lặng thầm. Từ trong bóng tối, tôi thấp lên tia sáng, soi tìm sự thật, soi lại chính lòng mình và tự nhắc nhở hãy an nhiên với số phận. 
                                                                                                                           
 *

            Sau đình chiến 1954, Ba tôi bị tù Côn Đảo nên tôi gặp nhiều trở ngại, khi lên Bà Rịa đi học.  Một số người coi tôi như một tội đồ, và gọi tôi là “vẹm con”, nặng lời khinh ghét tôi. Từ đó, tôi thu hình sống lủi thủi khép nép, không dám bày tỏ với ai điều gì, ngoài những trang tùy bút đầy cát bụi. Ai nghĩ gì về tôi cũng được, ai hại tôi cũng được, tôi xin phú cho trời đất. Thấy vậy, tu viện Saint Paul giúp tôi mọi điều kiện để đươc đi học, trong đó có việc làm lại khai sanh. Trong khai sanh cũ, cha là Nguyễn văn Bản, con Nguyễn văn Thuận sinh 1940. Trong “thế vì khai sanh” mới, cha  là Trần văn Ngự, con là Tần văn Thuận sinh 1943. Do đó, “thằng mọi” Nguyễn văn Thuận, “vẹm con” của tù nhân Côn Đảo Nguyễn văn Bản đã mất, chỉ còn cậu học trò Trần văn Thuận lần mò từng bước đến trường, từ tiểu học lên trung học, vào đại học rồi ra đi dạy.

              Năm 1972, tôi được điều động về trường Trung học Bình Tuy. Mới về, tôi ở chung với Ba Má, trước chùa Quảng Đức. Ba tôi làm thợ hồ, đúc bia mộ, xây sửa nhà cửa, sau khi ra tù. Tại đây, tôi được biết Ba tôi đang bị quản thúc, hàng tháng phải lên đồn cảnh sát Tỉnh để trình diện, đi xa phải xin phép. Trước đó, gia đình thuê nhà ở đâu, đều có sỹ quan hiến binh hay sỹ quan quân đội ở chung nhà, theo dõi. Tôi cảm thấy có điều gì bất an.          .                                   .
              Để tranh phiền phức, tôi thuê nhà của thầy Lượng trong làng Thương Phế binh, gần trường Bình Tuy. Nhiều vị công chức và giáo sư trung học ở các dãy nhà trước, nhìn tôi với ánh mắt thiếu thiện cảm, nên tôi phải ra ngõ sau, đi bộ qua trường. Vào cổng, tôi đến thẳng lớp dạy. Giờ nghỉ, tôi ở lại lớp, chờ chuông reo sang dạy lớp kế tiếp, không xuống phòng giải khát, vì ngại gặp quí giáo sư đạo mạo. Nhờ thế, tôi có dịp tiếp xúc với một số bạn trẻ, trao đổi thêm về những gì còn thiếu xót quanh bài dạy, bài học. Tôi cũng nhận ra đôi điều không có trong sách vở, chỉ có trong ước mơ của người trẻ tuổi. Những đôi mắt thanh xuân, những vầng trán thông minh để lại trong tôi một niềm tin yêu vô bờ..                            
             Tôi dạy ở trung học Bình Tuy chưa tới hai năm học, phụ trách ít lớp, không quen thân với ai trừ thầy Nguyễn Tấn Hưng, cô Trịnh Thị Nghĩa và thầy Đào Văn Lộc, trong nhóm Pascal. Nhưng những “bạn trẻ”, tôi tiếp xúc qua giờ dạy, là hình ảnh đẹp nhất trên Đất Mẹ La Gi. .                          

               Tháng Tư năm 1975, sau khi học tập cải tạo tại chỗ, được Ban Quân Quản cấp “Giấy phép làm thợ hồ”. Tiếp theo, qua giấy yêu cầu của ông Vũ Hồng, Ban Quân Quản giao tôi việc “tu sữa trường lớp”. Tôi lên trường Trung học Bình Tuy trình diện, một cán bộ chỉ tôi những nơi cần tu sữa. Nhờ Ba tôi và chú Tư Dẹo giúp đỡ, tôi và nhóm “thợ hồ” đã tu sữa những dãy lớp học cũ thành “khu tập thể”, gần cổng sau trường. Trong thời gian này, người về trường càng ngày càng đông. Môt hôm, khi lên “phòng cán bộ” ký bàn giao công trình tu sữa, một giáo sư người Huế, từng ở trọ trong làng Thương Phế Binh, chỉ vào mặt tôi và mắng “chừ rộ mặt thằng vẹm…” Tôi lặng lẽ từ biệt ngôi trường cũ.                                         .
                 Mùa hè năm 1975, Bác Sáu Danh cho tôi xem “Giấy giới thiệu số 2” của ông Trần văn Bản, trưởng phòng Giáo dục Bình tuy, giới thiệu tôi vào làm việc ở trường học, và hỏi tôi “sao không đi làm”. Tôi chỉ vào căn nhà tôi đang xây, ở gần Chợ Cá Biển La Gi, và nhờ  bác Danh nói với thầy Trần văn Bản, tôi “chỉ muốn làm thợ”. Rồi, Ban Quân Quản gọi tôi đi “học tập đợt 2”, ở Đà Lạt. Sau đợt học này, tôi vẫn tiếp tục sử dụng “Giấy phép làm thợ hồ”, theo chú Tư Dẹo đi xây nhà cửa, giúp Ba tôi đúc bia mộ và mua lại nhà ông Huệ ở đầu cầu Tân Lý để tránh những ánh mắt kỳ thị. Phó công an Huyện cho biết ngôi nhà tôi đang ở thuộc diện “đi kinh tế mới”, và thu hồi “Giấy phép làm thợ hồ”, khuyên tôi nên “đi dạy”. Tôi đành lên trình diện thầy Hiệu trưởng Lê Đăng Cử và được phân công làm “Trưởng ban lao động”. Tôi cũng đành chấp nhận, nếu có ai đó lại mắng tôi “chừ rộ mặt thẳng…”

                  Khi Ban kế hoạch 72 đến kiểm tra nhà thầy Trần văn Thịnh, thầy hiệu trưởng Võ Quang Lộc phân công tôi phụ Ban Kế hoạch 72 kiểm tra riêng loại sách tiếng Anh. Tôi cho đó là chuyên bình thường, vì khi vào kiểm tra nhà tôi, Thầy Lộc đã phân công hai giáo viên giỏi tiếng Anh xem xét tất cả sách tiếng nước ngoài. Xuống nhà thầy Thịnh, tôi ngồi ở phòng khách, nhận đọc vài quyển sách tranh thiếu nhi bằng tiếng Anh và nhận xét “tốt”, rồi tôi về ngay vì thấy thầy Thịnh nhìn tôi không bình thường. Một tháng sau, Sở giáo dục có công văn “đình chỉ công tác”chờ kỷ luật tôi với tội danh “vi phạm trầm trọng kế hoạch 72”, căn cứ vào sự tố giác của các tổ trưởng chuyên môn trường C3 Hàm Tân. Vài người nhìn tôi nói thẳng “đáng đời”, nhưng họ đâu biết tôi tự nghĩ “đáng mừng” vì đây là dịp tốt để tôi rời khỏi C3 Hàm Tân. Vào mùng năm Tết, Giám đốc Sở và Trưởng ban Kế hoạch 72, về C3 Hàm Tân rút lại công văn nói trên và khẳng định tôi “thực hiện tốt kế hoạch 72” vì đả kiểm tra kỹ nhà tôi. Tôi cảm thấy buồn vì phải ở lại C3 Hàm Tân.         .                                                                                                                     
                 Theo kế hoạch 75, sỹ quan biệt phái không được ở trong biên chế nhà nước. Tôi, thầy Trần văn Thịnh, thầy Đoàn Đức và thầy Lê văn Hộ nằm trong kế hoạch này. Đáng lý ra, tôi bị loại đầu tiên, khi các tổ trưởng chuyên môn C3 Hàm Tân tố tôi với tội “vi phạm trầm trọng kế hoạch 72”. Tiếc thay, đó không phải là sự thật, chỉ là sự vu khống để hảm hại tôi, nên trời đất không chấp nhận. Còn thầy Trần văn Thịnh, rất may mắn, vì thầy có đủ điều kiện, tự quyết định bỏ trường bỏ ngành về làm vườn, sống ung dung hạnh phúc, tránh được bao rắc rối sau này. Ngược lại, thầy Đoàn Đức “sanh con thứ năm”, rất nhiều người biết.  Trường C3 lấy sự thật ấy làm cớ để kỷ luật, đưa Thầy ra khỏi ngành, theo đúng kế hoạch 75, không phải do ai đó tố cáo. Sau vụ thầy Đoàn Đức ra khỏi ngành, một số người đổ lỗi cho tôi, thậm chí vài người mắng tôi nặng lời. Tôi im lặng,chỉ biết xin trời đất phán xét.                      

               Năm 1982, một nhóm giáo viên tố Thầy Hiệu trưởng tham nhũng. Chi bộ và Công đoàn C3 Hàm Tân, Tổ chức Sở Giáo dục, họp để kết tội thầy Đào văn Lộc và tôi là “đảng dân chủ nổi dạy”. Tôi không ký biên bản kết luận, và đề nghị Sở Công An làm sáng tỏ. Một tuần sau, Sở Công An trả lời “vụ việc không liên quan gì đến đảng dân chủ”. Thầy Đào văn Lộc về làm hiệu trưởng trường Nhà Bè. Tôi làm đơn xin ra khỏi ngành. Người thay hai chúng tôi là Ông Nguyễn Phi Thảo và Phan văn Bàng. Ủy Ban Tỉnh yêu cầu tôi ở lại giảng dạy, chờ giải quyết.         .                                               
                Cuối năm 1993, báo Bình Thuận đăng một bài thơ trong đó có câu ‘Đã mấy năm xa Sài Gòn ơi” vả  khép tôi vào tội “mơ tưởng đến Sài Gòn, thủ đô chế độ Mỹ Ngụy”. Phòng Văn hóa Thông tin và Công An huyện Hàm Tân, nhiều lần, gọi tôi đến làm bản kiểm điểm tự khai về tội nói trên.Tôi không rõ chuyện gì và khai đi khai lại “Tôi viết mấy câu đó trước 1975”. Sau đó, một đảng viên ở báo Tuổi Trẻ về tỉnh Bình Thuận trình một trang lưu bút viết tay, có câu thơ nói, ký tên Trần Thuận vào 1972. Sài Gòn 1972 là Sài Gòn. Tất cả lặng thinh. Tôi rời khỏi trường C3 Hàm Tân từ đây và không bao giờ trở lại, dù đôi lần tôi đi dọc ngoài tường rêu.   

*
                 Tôi thầm nghĩ, tôi như “cây sậy” trước hai mùa gió, Gió Bấc và Gió Nồm. Gió Nồm thổi qua, gió Bấc thổi lại, khiến Sậy rạp xuống cỏ non. Có khi loài thú núp theo gió mùa, gặm sậy gần tàn tạ, nhưng sậy vẫn bám đất, ngẩng lên trời, làm bạn cùng muôn hoa, yên nhiên trước cát bụi.

          La Gi, 1993
          CÁT SỸ.                                                                                     
         [Đoàn Thuận]

 

ÂN NHÂN.                                         .
giúp tôi vào đại học.                                    .

Tôi xa mẹ xa quê từ nhỏ, sống bơ vơ lưu lạc nhiều nơi. Nhờ sự giúp đỡ của nhiều người có tâm hồn cao quí, tôi vượt qua bao gian khổ hiểm nguy, tồn tại giữa đất trời. Cũng nhờ đó, từ trên lưng trâu, tôi được lên đại học.                                       ­­

Đầu năm thứ nhất, tôi tưởng tôi về với cát bụi, khi bị xe đụng mất nhiều máu. Nhưng, Nương đã đến, đã dìu tôi vào nhà thương thí Ngô Quyền ở Biên Hòa, đưa về căn nhà ngói cổ ở Đakao để dưỡng bệnh, rồi qua các giảng đường đại học Văn Khoa đề lấy chứng chỉ Dự Bị Việt. Bên Nương, tôi biết tôi còn sống. Thế mà, tôi chẳng có gì để tạ ơn Nương, ngoài nỗi buồn thân phận.

Cuối năm thứ nhất, tôi gần như bơ vơ ở Sài Gòn Gia Định, vì người thân đi dần về phương xa, bỏ tôi lại một mình nơi xóm Ruộng Cỏ. Đoàn, em trai kết nghĩa, đã đi lính, biệt tăm. Chú Hoan cùng Bé Lai về Paris. Nương, dường như ra Nha Trang, lặng thinh, dù tôi gửi nhiều thư thăm hỏi, cám ơn. Những người bạn thời trung học, trọ đâu đó trong nội thành, hoặc du học nước ngoài.         .                                                          .

Mùa nghỉ hè năm thứ nhất, chị Ann, bác sỹ gia đinh khu Palace, thường quan tâm chăm sóc tôi. Chị sắp xếp một nơi kèm trẻ tư gia, thù lao khá cao, đủ điều kiện cho tôi ăn ở học tập và dưỡng bệnh.                                  Chị gặp U Già, thuê lại gác hoa xoan cũ, nhờ lo việc ăn uống theo thực đơn riêng để bồi dưỡng sức khỏe cho tôi, nhờ mua sắm bổ sung những vật dùng cần thiết cho sinh hoạt hằng ngày. Tôi về lại nơi xưa, nhưng mọi thứ đều mới mẻ, tiện nghi.
Hằng ngày đến đây, ngoài việc thăm hỏi sức khỏe, chị còn hỏi thăm về hoàn cảnh của tôi. Quen thói e ngại, nên tôi chỉ nói những gì diễn ra trước mắt. Một chiều, nghe chị kể lại cuộc đời mồ côi buồn tủi của chị, tôi nhận ra tôi may mắn hơn chị và nhiều người khác, càng thêm thương quí chị. Từ đây, hai chị em chúng tôi thường tâm sự với nhau nhiều điều, trong đó, có vấn đề thiện ác nhân quả, ở đời.    .
Cuối mùa hè, hết hạn làm việc ở Saigon, chị quyết định trở lại Pháp. Đêm từ giã, chúng tôi rất buồn và ước mong có ngày gặp lại. Chị, Bé Lai và tôi là ba chị em kết nghĩa tại nhà chú Hoan. Chị cũng là ân nhân của tôi, vì đã giúp tôi hồi phục sức khỏe, tạo điều kiện thuận lợi để tôi tiếp tục đi học. Chị về Paris gặp lại Bé Lai. Tôi về Lagi thăm nhà. Hai phương trời cách xa, nhưng tình thân yêu của chúng tôi rất gần.              .                               .

Sống lơ ngơ khờ khạo, có lẽ, do tôi khép kín, ngại giao tiếp với người lạ chung quanh, luôn mặc cảm, từng là trẻ chăn trâu, nghèo nàn, quê mùa, xấu xí, cù lần. Nhiều chàng trai quí tộc giàu sang cười chê, chế nhạo tôi đủ thứ, mỗi khi có một nàng xinh đẹp hỏi tôi điều gì. Tôi không dám nhìn ai, trừ khi ai đó thông cảm vẻ nhà quê lù khù của tôi. Nhiều người xa lánh tôi vì biết ba tôi là tù Côn Đảo. Trong giảng đường, tôi ngồi nơi góc khuất, trước mắt là con chữ, bên tai là lời giảng. Nơi gác trọ, giữa không gian yên tịnh, tôi như lẩn trốn mọi người, tự học hành để xóa dần ngu dốt, tự luyện tập để giữ gìn sức khỏe.         .
Nhưng, nhiều người lương thiện, thấy tôi khốn đốn, lại ra tay giúp đỡ, dìu dắt tôi qua những đoạn đường chông gai gập ghềnh. Có người kề bên, có người ở xa, có người âm thầm, tôi ít hay biết. Tất cả là ân nhân của tôi, tôi chỉ nguyện cầu và tạ ơn trong thầm lặng.                .

Nancy, 1962.

NHÓM PASCAL.                                   .

        Tôi đi dạy ở Trung học Bình Tuy chưa tới hai năm, nhưng có nhiều điều khó quên, nhất là tình thân hữu đồng nghiệp.                            .     
                                                                                                         
        Cuối tháng 10 năm 1972 tôi về lại La Gi. Người đầu tiên tôi gặp dưới mái trường Bình Tuy là thầy Hiệu trưởng Vũ Đán Bình, nhưng người trực tiếp giới thiệu tôi dạy ở tư thục Bồ Đề Quảng Đức và Cours Pascal là thầy Nguyễn Phát Minh, thầy dạy Anh văn tại trường này.   .                         
             

         Cours Pascal, do thầy Nguyễn Tấn Hưng thành lập, nhầm giúp đỡ những người không có điều kiện đi học ban ngày. Tại đây, tôi chỉ dạy vài giờ Anh văn và triết ở lớp luyện thi Tú tài toàn phần. Đối với tôi, điều đáng nhớ là tôi được làm quen với thầy Nguyễn Tấn Hưng, thầy Đào Văn Lộc, thầy Nguyễn Phát Minh và cô Trịnh Thị Nghĩa, quí Thầy Cô đã giúp tôi rất nhiều khi tôi mới về đây. Dần dà, chúng tôi thành nhóm thân hữu, mà nhiều người trong ngành gọi là “nhóm Pascal”.                              

            Thầy Nguyễn Tấn Hưng là giáo sư Toán chính ngạch, nhưng rất giỏi Pháp văn, Anh văn, đọc được cả chữ Hán. Còn tôi đậu Tú tài ban Toán, nhưng vào sư phạm học ban Việt Hán, ra trường lại dạy Anh văn. Tôi tự nghĩ, “con đường học nghề” của tôi hơi ngược chiều, khác với Thầy Hưng. Nhưng khá thú vị, vì khi Thầy giảng về Toán tôi hiểu ngay, và khi tôi nói về Đường Thi hay viết một câu thơ chữ Hán, Thầy nhận ra ý nghĩa thâm thúy của nó. Dường như, giữa Thầy và tôi có điều gì rất “hưng thuận”. Phải chăng, đó là kết quả hiển nhiên của nền giáo dục “khai phóng”? Đâu phải học ban Toán chỉ biết về Toán, Thầy Hưng còn mở rộng sự hiểu biết của mình thông qua sách báo Pháp, Anh, Trung Hoa. Chỉ tiếc một điều, năm 1974 Thầy về Saigon, tôi không còn dịp để học hỏi thêm ở Thầy.                                            .                                                                                                                            
             
            Thầy Hưng rời khỏi Bình Tuy, Cours Pascal dừng lại, nhưng nhóm thân hữu vẫn thân tình như ngày nào. Thầy Nguyễn Phát Minh, cô Trịnh thị Nghĩa và tôi vẫn gặp nhau tại trường Bồ Đề Quảng Đức. Cô Nghĩa là người địa phương, dạy sinh vật nhiều trường ở Bình Tuy, nên có mối quan hệ rất rộng. Nhờ Cô, tôi quen với thầy Đinh Quang Vọng, thầy Mạc Phi Đăng, thầy Phạm Hùng, thầy Trần Minh Đáng, và nhiều thầy khác. Có lẽ, cô Nghĩa là cô giáo duy nhất tôi thân quen trong những ngày dạy học ở Bình Tuy. Tôi không thể quên được những lần cô “chọc quê”, khi thấy tôi lúng túng trước những câu hỏi đặc biệt của ai đó. Khi bản hiệu trường Bình Tuy bị hạ xuống, nhiều người nghi ngại trách mắng tôi đủ thứ, nhưng chính cô Nghĩa nhiều lần khuyên tôi nên trở lại nghề dạy học và Cô đã khóc khi biết tôi chì là “giáo viên lưu dung”, được tha thứ lưu lại làm “trưởng ban lao động” cho trường C3 Hàm Tân. Rồi sau này, cô bị vu khống “vượt biên hụt” nên cho ra khỏi nghành và chúng tôi không dám gặp nhau, dù rất đau xót.  .          .                     

           Khi Cours Pascal đóng cửa, tôi ít gặp thầy Đào Văn Lộc, vì bận dạy nhiều nơi. Thầy Lộc là giáo sư tư nhân dạy giờ, vì có Cử nhân Vật Lý, chẳng những dạy môn Lý ở trường công lập Bình Tuy, mà còn dạy rất nhiều tư thục trong tỉnh. Sau 1975, thầy Lộc làm Phó hiệu trưởng chuyên môn Trường C3 Hàm Tân, còn tôi chỉ là “giáo viên lưu dung” vì tôi thuộc loại “công chức ngụy”,”sỹ quan biệt phái”. Dường như, thầy Đào văn Lộc, sau hai năm, đã giúp tôi chuyền từ “trưởng ban lao động” làm “phó hiệu trưởng lao động”. Năm 1982, thầy Lộc rời C3 Hàm Tân, về làm hiệu trưởng trường Trung học Nhà Bè ở tp.HCM.        

          Từ đó, không còn “nhóm Pascal” ngày nào, có chăng chỉ trong ký ức buồn của tôi, mỗi khi nghĩ đến ngày giỗ của cô Nghĩa.                     .                                                     

 

Trung học Bình Tuy và tôi.                                         .

        Về lại Quê Nhà, nhưng với tôi, Lagi còn nhiều điều lạ lẫm, vì tôi đã xa quê lưu lạc từ ngày bé thơ, dù có đôi lần đi về.                      .           
          Sau đình chiến 54, tôi về thăm Mẹ, và ở lại chăn trâu gần hai năm, nhưng chỉ quanh quẩn nơi cánh đồng Tân Lý. Năm 1960, khi Má tôi chuyển gia đình từ Bình Châu về xã Phước Hội, huyện Hàm Tân, tôi chỉ về thăm nhà vào dịp Tết, hoặc nghỉ hè. 
        Cuối năm 1972, từ Hà Tiên, tôi chính thức chuyển nhiệm sở về Trung học Bình Tuy, gần như trong ngành giáo dục, mọi người xa lạ với tôi. Thường ngày, tôi đến thẳng lớp, dạy xong về nhà, ngại giao tiếp trừ khi cần thiết.                                                                 

        
         Khi ổn định mọi việc, tôi về Tân Lý tìm thăm những người bạn chăn trâu đã cách xa trên mười tám năm. Thôn xóm đồng quê thay đổi quá nhiều. Anh Năm Cận cho biết nhóm bạn chăn trâu ngày nào, giờ chỉ còn lại Tư ở gần đập Đá Dựng, và Tráng ở Tân Long. Ai cũng có riêng một gia đình, nhưng Tráng Tư Thuận có chung một tình thân, thời chăn trâu Láng Đá.                                               .
          Chúng tôi thường gặp nhau tại nhà Tráng, ở Xóm Lưới, dưới chân động Tiên Sa. Một ly bia, một miếng cá đuối nướng, một điệu boléro hòa theo tiếng sóng rì rào nơi bờ cát, như gợi lại bao điều của thời thơ dại. Tư hay nhắc đến mái ngói của trường Bình Tuy, ngày Tư học đệ thất, khác xa bao mái tranh lụp xụp. Chiếc áo dài trắng của nữ sinh không giống chiếc áo vá đầy bụi của chị Đổ, dạy lớp“bỏ túi”Láng Đá.  Tư cũng có một cuốn “Lưu bút ngày xanh” của thời đi học, nhưng bìa là hai tấm mo cau rừng, trên khắc đầy tên bạn chăn trâu, có cả tên tôi và Tráng. Sau này, trường Bình Tuy có thêm một dãy lầu, nhưng bốn “lớp mái ngói” xưa vẫn còn nguyên, như ngày mới thành lâp. Ngày ấy, chúng tôi, đôi khi, nhìn mái ngói đỏ trên nền đá cao, nhìn những thư sinh áo trắng, thầm mơ ước được cắp sách vào Trung học Bình Tuy. .  

                Dường như, chỉ có Tư được ngồi học trong “lớp mái ngói trường Bình Tuy” như ước mơ, còn bạn trong nhóm Láng Đá lưu lạc, xa dần quê hương. Riêng Tráng sớm rời “lớp học bỏ túi” đi lính, rồi bị thương nặng, được giải ngủ trở về, tiếp tục học “lớp tráng niên” trường tư. Khi đổ tú tài một, Tráng xin việc làm, nhưng không nơi nào nhận vì từng bị thương. Thấy vậy, nhiều nhà khá giả nhờ Tráng “dạy tư gia”, luyện thi Trung học đệ nhất cấp. Còn tôi, ngày từ giã các bạn ra đi, chỉ mong có bẵng tiểu học, nhưng nhờ người thiện tâm giúp đở, đã học “đến nơi đến chốn” và đi dạy ở Hà Tiên. Nơi quê hương Đông Hồ, tôi được hưởng “thâm niên nước độc”, chỉ chờ qua bốn năm sẽ có quyền xin về quê nhà La Gi, dạy nơi nào cũng được. Bất ngờ, Nha Trung Học điều động tôi về Trung học Bình Tuy dạy Anh văn. Bất ngờ, ở chỗ dạy Anh văn không phải Việt văn, ở chỗ chưa hết thời hạn bốn năm, ở chỗ về Trường Trung học Bình Tuy chứ không phải “một trường làng”.        

                                                                                                 
                   Mới về, tôi ở nhà Ba tôi gần trường Bồ Đề Quảng Đức. Ban ngày tôi qua trường dạy vài giờ Anh văn, ban đêm tôi tham gia cours Pascal. Tại đây, thầy Nguyễn Phát Minh giới thiệu tôi với thầy Nguyễn Tấn Hưng dạy Toán, thầy Đào Văn Lộc dạy Lý, cô Trịnh thị Nghĩa dạy Sinh vật. Dân dà, chúng tôi thành nhóm “thân hữu Pascal”, giúp đỡ nhau trong giảng dạy cũng như ngoài cuộc sống. Khi thầy Nguyễn Tấn Hưng chuyển về Sài Gòn, Cours Pascal dừng lại, nhưng nhóm vẫn duy trì tình thân hữu mãi về sau này. Cô Nghĩa và thầy Lộc là giáo sư tư nhân dạy giờ,  chẳng những dạy ở Trung học Bình Tuy, mà còn ở nhiều tư thục trong tỉnh. Thầy Đào văn Lộc như trung tâm nối kết giáo sư cũ và  mới, tư nhân và chính ngạch, trong ngành và ngoài ngành. Chính nhóm thân hữu này giúp tôi khắc phục thói xấu sống khép kín và mặc cảm. Đặc biệt, cô Nghĩa thường “chọc quê”, gọi tôi “anh không lời”, khi hỏi đôi điều tôi không thể trả lời được, hay nín thinh khi nhóm gặp nhau..

                  Đầu năm 1973, vì nhà Ba tôi chuẩn bị lên lầu, nên tôi thuê lại một căn nhà của thầy Lượng trong làng Thương Phế Binh, để ở tạm. Tại đây, tôi nhận ra trên Dốc Tỉnh có vài Xóm Học. Học sinh nơi xa về tỉnh học , thường xin ở nhờ nhà bà con, hay thuê tạm một phòng trống trong nhà dân. Đây không phải nhà trọ hay gác trọ, mà là một nơi ở bình thường, dưới mái nhà của phụ huynh bình thường. Đông nhất là Xóm Học Đồng Tiến quanh trường Trung học Bình Tuy và Xóm Học Đồi Sim gần Suối Đó. Vào mùa học, sau khung cửa, nghiêng nghiêng những mái đầu trên trang vở, bên ánh đèn khuya. Đôi khi, tiếng học bài theo gió ru qua bờ hoa, bay vào bao la. Vào hạ, xóm học khuất màu áo trắng, tắt ánh đèn đêm, chỉ còn trong tôi nỗi mong ngóng mùa học mới.       .  
                  Nghĩ hè, tôi tìm gặp các bác phụ huynh cao tuổi, lão ông bản địa, để hỏi han về cội nguồn của La Gi. Nhờ đó, tôi dò dẫm đi thăm những nơi tổ tiên ông bà cha mẹ chúng tôi đã từng sinh sống. Đến đâu, thấy gì, nghe gì, tôi ghi lại những điều tiêu biểu về phong cảnh, về tình làng nghĩa xóm…nơi Đất Mẹ.  Cuối hạ 1974, tôi có 4 tập bản thảo “Trường ca Lagi”, “Lagi ngàn xanh”, “Huyền thoại Hòn Bà Núi Ông”, “Mái trường quê hương”. Tôi dự định vào mùa hạ 1975, về thăm Núi Ông, sông La Ngà, rừng La Dạ,  để bổ sung cho “huyền thoại Hòn Bà Núi Ông”.                               
                  Cuối 1974, thời cuộc lắm biến động, nhiều Thầy Cô rời Trung học Bình Tuy ra đi, tôi cũng trả nhà lại cho thầy Lượng dọn về nhà Ba tôi, trong tâm trạng bất an.                                                   

                 Đầu năm 1975, Trung học Bình Tuy gần như đóng cửa. Dãy “lớp học mái ngói”, tượng trưng cho ngôi trường ngày mới thành lập, là nơi tạm trú cho người chạy loạn.                                                               
            Hè 1975, bản hiệu Trung học Bình Tuy thay bằng Trường C3 Hàm Tân. Tôi đâu còn là “giáo sư trung học”, chỉ là một “phu chữ” không ngừng nuối tiếc về  ngôi trường xưa.                                                             

Lagi,1973
CÁT SỸ
[Đoàn Thuận]

TÔI VỀ BÌNH TUY DẠY HỌC.

            Cuối tháng 10 năm 1972, từ nhiệm sở Hà Tiên, tôi  được thuyên chuyển về trung học Bình Tuy. Trong sự vụ lệnh, Nha Trung Học điều động tôi dạy Anh văn, căn cứ vào chứng chỉ British Languishtics của tôi, dù ở đại học Sư Phạm Saigon tôi theo Ban Việt Hán.            .                     .          Trường Trung học Bình Tuy, được thành lập 1956, bắt đầu từ lớp đệ thất, phát triển dần thành trường Trung học Đệ Nhị Cấp (Secondary School). Nhưng, giáo sư trung học đệ nhị cấp chính ngạch, phần lớn, từ nơi khác chuyển đến, và thiếu hẳn “giáo sư chính ngạch” môn Anh văn. Có lẽ vì vậy, bất ngờ, tôi được điều chuyển về đây, dù chưa hết thời hạn dạy ở Hà Tiên, như qui định.                                                   .
           
              Trường đã nhập học, theo yêu cầu, tôi đến gặp ngay thầy hiệu trưởng Vũ Đán Bình để trình sự vụ lệnh, gặp thầy giám học Phạm Hùng để nhận lịch giảng dạy, và tôi dạy Anh văn sinh ngữ 1 ở ba lớp đệ nhất.           . .             Thầy Phạm Hùng cũng giới thiệu tôi dạy thêm một số lớp ở tư thục Vinh Tân và Bồ Đề Quảng Đức. Tiếp theo, tôi nhận dạy ba buổi tối ở Cours Pascal, do thầy Nguyễn Tấn Hưng tổ chức. Giờ dạy gần như kín trong tuần, trừ chiều thứ bảy và chủ nhật.                          .                                             . .             Ngoài lương chính ngạch, còn có phụ cấp gia đình (“phụ cấp con” còn nhỏ tuổi, “phụ cấp vợ” chưa có việc làm, “phụ cấp nhà” vì chưa có nhà riêng), lại thêm khoản tiền dạy thêm ở các tư thục, nên chúng tôi có một cuộc sống thư thả êm ấm.                                 .                                                  

            La Gi là Quê Nhà, nhưng tôi đã xa Mẹ xa quê từ ngày còn bé.           .           Khi Tây nhảy dù xuống Đồi Dương, chiếm nhà Cha tôi, tôi theo Ba Má nuôi đi tản cư. Tuổi thơ như trôi qua những mái trường, theo cánh rừng Sao Cháy.                                      .   
           Sau ngày đình chiến 54, tôi về Tân Lý thăm Mẹ. Gia đình ly tán, ngôi nhà ngói cổ nát tan. Tôi đi chăn trâu mướn để phụ Mẹ dựng một mái lá trên nền đất xưa. Cuối năm 1956, Ba Nuôi bị tù Côn Đảo, tôi lại xa Mẹ xa quê, về với Má Nuôi ở Bình Châu. Từ đó, tôi lưu lạc nhiều nơi. Vào Bà Rịa học trung học. Lên Sài Gòn học đại học. Xuống Hà Tiên dạy học.                       .             Năm 1972, tôi chính thức được chuyển về quê hương Bình Tuy. Sống gần Mẹ, bên cạnh Ba Má, là niềm hạnh phúc lớn của đời tôi.               .                    
 

            Nỗi niềm buồn vui, qua những ngày tha phương và hồi hương, đâu dám bầy tỏ cùng ai, tôi lặng lẽ ghi lại trong tập tùy bút “Huyền thoại Hòn Bà Núi Ông”, như một lưu niệm trong trái tim tôi, khi về sống trên Đất Mẹ.

        CÁT SỸ
        [Đòan Thuận]

TÔI ĐI DẠY Ở HÀ TIÊN.

          Khi thi tốt nghiệp Đại học Sư Phạm, bài làm về chữ Nôm không đủ điểm, tôi phải thi lại. Trong khi các anh chị tốt nghiệp kỳ 1 đã đến nhiệm sở mới, tôi ở lại Saigon ôn tập để thi kỳ 2. Rất may mắn, tôi cũng được tốt nghiệp, và theo thứ hạng, tôi có thể chọn nhiệm sở Gò Công. Nhưng anh Nguyễn Chí Thành lại cần về đây, còn tôi nơi nào cũng được, miễn có chỗ dạy chính ngạch, vì tôi thuộc loại yếu về tay nghề sư phạm.                 .                                          
         Tôi đến thăm Thầy Đông Hồ, tức thi sỹ Đông Hồ, Thầy khuyên tôi nên về Hà Tiên, quê của Thầy, cũng là nơi sinh ra hệ văn chương Chiêu Anh Các.Tôi quyết định chọn nhiệm sở Hà Tiên, dù cách xa Lagi, quê Mẹ tôi, trên sáu trăm cây số.                                        .                                                                                               
          Biết tôi xuống Hả Tiên, nơi có nhiều người Minh Hương sinh sống, Thầy Giản Chi tặng tôi bộ Đường Thi viết tay trên giấy dó, và dặn dò tôi cách dịch ra tiếng Việt. Thầy cũng đặt tên tự Cát Sỹ cho tôi. Tự hứa với chính mình, tôi sẽ cố gắng hết sức để không phụ lòng mong mỏi của quí Thầy Cô.              .

            Tại trung học Hà Tiên, thầy cô phần lớn là giáo sư trung học đệ nhất cấp, nên tôi chỉ dạy Việt văn vài lớp đệ tam, đệ nhị, giờ trống còn nhiều. Tôi giết thời gian bằng cách chú tâm vào việc sắp xếp những trang tùy bút tôi đã có từ thời học đệ thất, và dịch Đường Thi sang tiếng Việt.                     .                                         
           Đầu năm 1970, tôi kết được năm tập “bút ký” khá dày. Mỗi tập trên ngàn trang bản thảo, chằng chịt chữ viết lẫn những bức ký họa và thư pháp. Tôi giữ nguyên những tờ giấy cũ, mang dấu ấn thời gian, dù nhiều trang đã nhòe màu mực. Tập 1 và 2 có tên “Miền đất trọ”. Tập 3, 4 và 5 có tên “Mảng vỡ thời gian”. Đây không phải là trang sáng tác, đúng hơn là trang “tùy bút”, ghi lại những gì nghe thấy trên đường đời, “thấy sao viết vậy”, “nghe gì ghi nấy”; có khi ghi bằng “văn vần” khi bằng “văn xuôi”. Phần lớn, những bài văn vần ngắn gọn nằm trong “lưu bút” hay “nhật ký” của những người bạn quen thân, trong thời đi học đi dạy. Tôi dự định lưu trữ, chờ khi có điều kiện, sẽ biên tập thành sách.                                          .                                
             Đầu năm 1972, tôi dịch xong tập Đường Thi của thầy Giản Chi tặng, dưới mỗi bài dịch tôi đề tên Cát Sỹ. Trong đó, có hai phần tách riêng dưới nhan đề “Thơ thiền Vương Duy” và “Ánh trăng Lý Bạch”.                       .    
             Ngày mới xuống Hà Tiên, tôi đi nhiều nơi, gặp nhiều người  để tìm hiểu về Chiêu Anh Các, nhưng ít người biết rõ, ngoài “Hà Tiên thập cảnh”. Do đó, sau khi tổ chức lễ giỗ Thi sỹ Đông Hồ, tôi dừng lại việc nghiện cứu về hệ văn chương Chiêu Anh Các, như lời gợi ý của Thầy, năm tôi học chứng  chi Văn Chương Quốc Âm.                                                    .           

             Trong ba năm, tôi dạy học ở đây, gần như không quen thân với ai trong ngành giáo dục, trừ Trần Cao Thu, người ở chung nhà trọ nhưng không chung trường, vì dạy ở  trường Nông Lâm Súc. Cao Thu và tôi cùng họ Trần, nhưng không biết gì về hoàn cảnh của nhau, dù gặp mặt hằng ngày. Tôi chỉ dạy đủ giờ chuẩn, ít khi vào trường, nên xa lạ trước nhiều thầy cô. Có lẽ, do tôi quen thói sống khép kín.                            .                                                                      
              Thời cuộc càng ngày càng nhiều biến động. Đường Hà Tiên sang Rạch giá bị đắp mô, đi lại rất khó khăn, thường xuyên tôi ở lại nhà trọ một mình, kể cả ngày Tết. Dù nhóm bạn học của Lý Tòng Hiếu và Ngọc Tuyết quanh quẩn bên tôi, giúp tôi bớt buồn, nhưng tôi vẫn rất nhớ Mẹ nhớ nhà, khi mùa Gió Chướng thổi qua.                                      .                                           

              Tuy vậy, một số phụ huynh dần dà kết thân với tôi, đặc biệt là nhóm Ba Lá. Nhóm thường thả xuồng Ba Lá ngắm trăng trên hồ Đông. Uống rượu đế với tép rang và đọt so đũa. Khi thì kể một câu chuyện đau buồn của người nghèo khổ. Khi thì vổ mạn xuồng hát điệu lam thôn dân dã, boléro miền Nam. Khi thì đọc một câu thơ tự chế. Trình độ học vấn của nhóm không bao nhiêu, nhưng sự hiểu biết về cuộc sống thăng trầm luân hồi nhân quả thì quá nhiều. Tôi thầm cám ơn nhóm thân hữu Ba Lá, vì đã giúp tôi nhận ra nhiều điều không có trong sách vở, suốt thời đi học.                 .                                                                 

                                           
             Hà Tiên, đối với tôi, là “miền đất trọ” thơ mộng thân yêu, nơi tôi dạy học với tư cách giáo sư trung học đệ nhị cấp chính ngạch.                                             

      Hà Tiên,1972
      CÁT SỸ
     [Đoàn Thuận]

 

TỰ NGHĨ

       Nhiều vị vừa qua lại trách tôi “vô tâm” trước thời cuộc hiện nay, mà chỉ “tào lao” về chuyện “trẻ con” đi học. Nhiều lần, tôi đã nói lý do vì sao có trang facebook này và những bài tùy bút của tôi. Tùy bút là “thấy sao viết vậy”. Trước đây, tôi thường ghi lại những gì nghe thấy trên đường đời, bằng thể “văn vần”. Nay, tôi ghi lại bằng “văn xuôi” theo yêu cầu của thầy Lê Đình Huân. Thầy Huân tưởng tôi “đã chết” sau 1975, nên Thầy thường hỏi thăm về hoàn cảnh sinh sống của gia đình tôi, trong đó có việc “đi dạy”. Bạn thân của tôi,  thời chăn trâu và thời đi học, cũng muốn biết như thế.                         
         Tôi tự nghĩ, tôi “chưa chết” phần lớn là nhờ sự bảo trợ, sự giúp đỡ của “người thiện tâm”, từ lúc bé thơ đến ngày bạc tóc. Khi ghi lại vài bước đi, trên vài đoạn đường chông gai, tôi thầm gửi sự “tạ ơn” đến “Ân Nhân” của tôi. Tôi không sáng tác, tôi không làm thơ viết văn, tôi chỉ ghi lại những gì liên quan đến cá nhân tôi.                                        
          Sự thật đôi khí “khó tin”. Nhiều người không tin tôi đã từng “chăn trâu” gần hai năm ở Tân Lý. Thậm chí, năm 1982, một “tên dấu mặt” vu khống tôi “khai man lí lịch”, để hiệu trưởng C3 Hàm Tân bắt tôi làm kiểm điểm, khai tới khai lui nhiều lần. Công an huyện điều tra hai ông chủ, từng thuê tôi chăn trâu, lúc đó vẫn còn sống ở gần nhà thờ Tân Bình. Chính sự thật được hai ông chủ khẳng định, buộc C3 Hàm Tân giữ tôi lại làm việc trong trường, khiến “tên dấu mặt” nào đó bực tức, tiếp tục tìm cách hảm hại tôi.                                                                    
          Tôi thường tự nghĩ “tôi không đủ tư cách làm thầy”, vì luôn mặc cảm là “ thằng chăn trâu, xấu xí, cù lần quê mùa, nghèo mạt, khép nép, ngại giao tiếp”.  Trong khi đó, Thầy Cô của tôi là “Người có tâm hồn cao quí, có phong cách đạo mạo trí thức, giảng dạy rất hay”. Tôi chưa bao giờ mơ ước làm thầy giáo, dù đã từng đi “kèm trẻ”, đi “dạy tư”. Thay vì, làm việc bằng chân tay để kiếm tiền ăn học, tôi chọn việc “kèm trẻ”, gần với việc “đi học”. Nhiều người, trong đó có Giáo sư NĐT, khuyên tôi nên chọn ngành sư phạm, và tôi đã vào đại học Sư Phạm, dù nhiều lúc ngần ngại.                                                                                               
          Tôi cũng tự nghĩ, nếu “đi dạy”, tôi có điều kiện giúp đở trẻ em nghèo “đi học”, như bao người đã giúp đỡ tôi.

Hạnh Thông Tây
Ngày Nhà Giáo, 2019

TÔI HỌC SƯ PHẠM .  
                           .                   
          Khi thi xong chứng chỉ Ngữ Học Việt Nam và Văn Chương Quốc Âm, tôi dự định lấy sớm cử nhân để đi Pháp học, dưới sự tài trợ của chú Hoan và chị Ann. Nhưng giáo sư NĐT khuyên tôi nên thi vào Đại học Sự Phạm, vì giáo viên chính ngạch mới được miễn dịch, như thế sẽ có nhiều cơ hội để học cao hơn, kể cả việc đi Pháp. Hơn nữa, khóa tới Đại học Sư Phạm không lấy tú tài, mà chỉ lấy chứng chỉ đại học và học trong ba năm, rất thuận lợi cho tôi. Tôi do dự nhiều ngày, cuối cùng tôi ghi danh dự thi và đậu écrit (thi viết).                           .                
           Khi được thông báo kết quả, tôi quyết định bỏ thi oral (hạch miệng), vì nhiều lẽ. Tôi tự thấy không đủ tư cách để làm thầy, dù tôi đã đi “kèm trẻ”, đi “dạy tư”. Mặt khác, tôi đậu hai chứng chỉ ở đại học Văn Khoa, nên tôi được hoãn dịch để học tiếp hai chứng chỉ còn lại của Cử Nhân, và sẽ đi Pháp sớm, theo ước mong của chị Ann.      .                                                            .                                                              
             Một buổi sáng, tôi vào trường đại học Sư Phạm chờ gặp Vũ Đỗ Hải, học lớp Pháp Văn. Bất ngờ, giáo sư Trần văn Tấn gọi tôi vào văn phòng, hỏi lý do “sao không thi oral ?”. Tôi thành thật trình bày những suy nghĩ riêng tư. Giáo sư cho biết đã cùng giáo sư NĐT bàn nhiều điều về tôi và khuyên tôi nên vào sư phạm. .          .            
           Tôi đến thi oral với giáo sư Lê Hữu Mục, và được nhận vào học từ đây. Đỗ Hải, Văn Tây, Quế Hương, Hữu Tâm, Bích Hậu, Chiêu Oanh biết chuyện, nên rất mừng.                              .
           Tuy vậy, tôi vẫn lo âu về ngày mai của tôi. Ước mơ của tôi, từ thời trung học, là được làm kiến trúc sư, không phải là giáo sư trung học. Đường đời luôn luôn chuyển dịch, tôi sao thấy rõ phận mình.                                   .       
                                            
            Để đủ thời giờ học cả hai trường đại học, tôi nhường toàn bộ giờ dạy các trường tư cho ba người bạn nghèo ở quê mới lên Saigon, chỉ giữ lại “lớp đêm” ở nhà bác Đình Hòe, vì Bác cho tôi ở trọ miễn phí tại một “phòng bồi”, trong cư xá Hỏa Xa, rất yên tịnh. Vả lại, học bổng sư phạm khá cao, nên việc ăn ở tương đối ổn định, tôi chỉ còn tập trung vào việc học.       .
Tại lớp Việt Hán, tôi thật may mắn khi được quen thân với quí anh chị, từ miền quê xa về Hòn Ngọc Viễn Đông, cùng chung rèn luyện tay nghề sư phạm. Mỗi người mỗi vẻ, mỗi tài nghệ riêng, dù không phô diễn ra ngoài. Người viết những vần thơ những trang văn. Người cất lên lời ca tiếng hát như ru êm thanh điệu quê hương miền Nam. Người phác họa khuôn mặt dịu hiền giữa khung đời bình yên,  bằng nét cọ sơn dầu tài hoa.    .           .                        .     

              Theo gương những người đi trước, tôi tự nguyện sẽ tập trung học tập và rèn luyện thành người có ich cho đời.                    .                                                 
                                                                                        
              Qua bài giảng của quí giáo sư, dần dà tôi nhận ra bao nguồn tri thức, từ nguyên lý giáo dục đến nguyên tắc dạy học, mà đầu óc nhỏ bé của tôi đâu hay biết.              .                          .               
            Về nguyên tắc, người dạy phải nắm chắc nội dung kiến thức trong chương trình, rồi “soạn bài” theo khả năng riêng để chuyển tải đến người học, không rập khuôn theo mẫu cố định. Cái chính là giúp người học tiếp cận kiến thức của loài người, tùy theo lứa tuổi, trình độ và hoàn cảnh xã hội.         .
Về mục đích, giáo dục phải xây dựng nên người “có đức có tài” cho tổ quốc, theo phương chăm học hành “tiên học lễ, hậu học văn”. Vì thế, mọi người, trong đó có tôi, phải tự rèn luyện thành người hữu ích cho đất nước, theo hướng “lập đức, lập công, lập ngôn”, góp phần xây dựng nền Giáo dục Cộng đồng với nguyên lý “Nhân bản, dân tộc, khai phóng”.                                 .                                         

            Học qua một thời gian theo yêu cầu đào tạo lý tưởng, tôi tự thấy tôi gần như không phù hợp để làm thầy giáo, và muốn quay lại học kiến trúc, dù muộn màng.                 
            Nhưng sau Tết Mậu Thân, chiến sự biến động dữ dội, tôi phải ở lại tiếp tục rèn luyện, để không phụ lòng mong mỏi cùa quí thầy cô, nhất là Giáo sư NĐT và Giáo sư Trần Văn Tấn.               
           Quách Thị Trang có thể cất cao tiếng hát để “gửi gió cho mây ngàn bay”, nhưng gió không thể xóa nhòa trong ký ức tôi, ba năm đầy kỷ niệm, dưới mái trường sư phạm cổ kính.                    .                                                  
            
              Thủ Đức,   
              Ngày nhà giáo, 2004.                                        

GÁC HOA XOAN.                                      .

.         Khi gia đình chú Hoan về Pháp, tôi ở tạm trong nhà chị Ann, vì đang kèm trẻ tư gia gần đó. Thấy tôi có ý định tìm thuê phòng trọ gần Đại học Văn Khoa, chị Ann khuyên tôi nên ở lại khu Palace, để chị tiếp tục chăm sóc sức khỏe cho tôi. Chị đi tìm nhiều nơi, cuối cùng, chọn gác trọ cũ ở xóm Ruộng Cỏ, gần Rạch Chiếc. Chị xin phép U Già tu sửa lại căn gác gỗ cho tiện nghi hơn.Tôi chỉ mong giữ lại hình bóng xưa, dù ít nhiều cũ kỹ.  .

.          .Một mình tôi nơi gác cũ, hoa xoan hồn nhiên đong đưa, hương phong lan thoang thoảng chiều tàn. Đâu còn lẩn trốn, tôi sống cạnh bao người, dù chỉ là hình bóng. Đâu còn tâm an, lòng tôi phiền muộn không nguôi, dù gác vắng, trời yên.                      .
.         .Tại không gian yên tịnh này, tôi từng lưu vào tâm thức cảm giác mềm mại của một bàn tay đã dẫn tôi bước lên từng bậc thềm đại học Kiến Trúc.                                           .
.            .Tại phong cảnh thơ mộng này, tôi để thấm vào ngực áo mình, giọt nuớc mắt hạnh ngộ của Bé Lai, người em gái kết nghĩa, sau nhiều năm xa cách.                                            .
.          .Tại gác hoa xoan này, Nương và tôi ước hẹn dìu nhau qua mọi đoạn đường, dù cát bụi mù trời. Lời thủ thỉ hôm nao như sương đêm rơi xuống bờ hoa. Giấc mơ như ẩn tàng vào màu tím hoa xoan..

.            . “Mọi đoạn đường” đâu có nghĩa là “trọn đường đời”, nhưng sao tôi vẫn nghĩ mãi về “đoạn đường” từ gác hoa xoan, nơi xóm Ruộng Cỏ, đến căn nhà thuê mái ngói rêu phong, cuối hẻm nhỏ phố Đakao.  .  .                             .
.             .Dường như, định mệnh xui tôi gặp Nương tại thềm đại học Kiến Trúc, ngay ngày đầu tôi lơ ngơ đến ghi danh nhập học. Lại thấy tôi lưu lạc bơ vơ, Nương đưa tôi đến khu vườn rau cải, thuê gác gỗ dưới tán hoa xoan, làm nơi trọ học. Tại đây, hai chúng tôi ước hẹn “sẽ bên nhau đi học đến cùng”.                  .           ….
.            .Tiếp theo, khi tôi lâm trọng bệnh, nằm viện nhiều ngày, bỏ lỡ kỳ thi ở đại học Kiến Trúc, Nương giúp tôi chuyển sang học Đai học Văn Khoa, rồi chuyển chỗ trọ đến căn nhà ngói cũ, khuất trong hẻm sâu, rất thuận lợi để tôi dưỡng bệnh và tâp trung ôn tập thi. Cuối năm, Nương lên năm thứ ba Đại học Kiến Trúc, tôi đổ Dự Bị Việt Văn Khoa.                                     .
.             . Nghỉ hè, tôi đưa Nương đến thăm gia đình chú Hoan ở khu biệt thự Palace. Gặp lại tôi, sau bao ngày bặt tăm, mọi người xúc động, Bé Lai khóc nức nở. Chú Hoan đề nghị tôi qua Pháp học. Tôi từ chối, nhưng Nương rất buồn.            .
.               .Về lại Đakao, tôi giải thích mọi việc xẩy ra ở nhà chú Hoan. Nương nhìn tôi muốn khóc, và lặng thinh ra đi..

.              .  Tại gác hoa xoan, đêm tịnh vắng giúp tôi nhận ra chính mình. Nương là người dìu tôi qua đoạn đường khó khăn, suốt năm học đầu tiên, khi lên đại học. Không có Nương, nếu không chết vì bệnh, thì tôi cũng chết tại chiến trường vì phải đi quân dịch. Tôi chỉ dựa vào tâm hồn cao quí của Nương, không giúp Nương được gì, không dìu được Nương qua khỏi nỗi đau từ mối tình đầu. Hoa xoan tím buồn hay nỗi buồn tím thấm vào hồn tôi.                   .
.
Hạnh Thông Tây, 2019.

 .

BỤI ĐƯỜNG.                                    .                                                                  
 
           Sau khi Nương lên năm thứ ba Đại học Kiến Trúc, tôi đậu chứng chị Dự Bị Việt ở Văn Khoa, chúng tôi ước hẹn sẽ bên nhau đi học đến cùng. Nhưng Nương đã lặng thinh xa tôi và chủ nhà không cho tôi trọ nữa. Tôi định về quê nghĩ hè, nhưng gia đình gặp nhiều khó khăn, khi ba tôi từ nhà tù Côn Đảo vừa được bảo lãnh trở về và đang trị bệnh. Sức khỏe của tôi cũng không được bình thường, vì sau cơn bạo bệnh bị mất nhiều máu. Do đó, tôi không đủ điều kiện tự giải quyết việc ăn ở và dưỡng bệnh, đành phãi đến ở nhờ nhà chú Hoan, theo đề nghị của chú.                    .          .                       

          Tại khu biệt thự Palace, tôi được sống giữa không gian thơ mộng, trong sự đùm bọc của chú thiếm Hoan, bên cạnh Bé Lai, và được kết thân với chị Ann, bác sỹ giúp tôi dưỡng bệnh. Tôi cũng có dịp ghé thăm U già ở gác trọ hoa xoan, dạo quanh con đường quen xưa. Dù vậy, tôi vẫn rất buồn và không ngừng nghĩ về Nương, người đã giúp tôi rất nhiều, suốt năm đầu tiên tôi lên đai  học. Chính Nương đã nắm tay tôi dẫn từng bước lên thềm, vào văn phòng làm thủ tục nhập học, khi tôi ngập ngừng, lúng túng trước cổng trường Đại học Kiến Trúc. Chính Nương đã tạo điều kiện ăn ở thuận lợi để tôi dưỡng bệnh và hoàn tất chương trình Dự Bị Việt ở Đại học Văn Khoa. Gần như, lúc nào Nương cũng ở bên tôi, vỗ về an ủi tôi, bằng tình cảm chân thật. Đối với tôi, Nương là một ân nhân cùng trang lứa, bên cạnh những ân nhân cao niên.
          

           Có thể, Nương buồn và trách tôi. Khi Nương nghe chú Hoan nói về dự định đưa tôi đi Pháp học và thấy tình cảm triều mến của Bé Lai đối với tôi, làm sao Nương không buồn và không suy nghĩ. “Buồn và trách” là điều hiển nhiên. Cũng có thể, Nương không muốn làm hỏng dự định của chú Hoan, nên lặng lẽ xa tôi, hy sinh phần mình, dù chúng tôi đã ước hẹn bên nhau đến cùng. Tôi chỉ buồn là Nương không tin tôi, nên không trao đổi với tôi điều này, và ra đi cũng không nói với tôi lời nào, dù là lời từ biệt. Cũng có thể, đó là duyên phận. Sự hy sinh của Nương có thể đưa đến chú Hoan một niềm vui, cũng có thể làm rơi lệ từ đôi mắt đen tròn của Nương, thấm thêm một nỗi buồn vào trái tim tôi. Tôi tự thấy, tôi không thể sánh với Nương. Nương có tâm hồn cao quí, biết lui về với số phận, không làm cản trở cuộc sống của người khác, thầm lặng nhận lấy nỗi đau . Còn tôi, một kẻ lưu lạc, lơ ngơ dưới bụi đường, núp vào lòng từ thiện.

Tôi không thể nào quên những ngày chúng tôi bên nhau. Có khi trong giảng đường, trong thư viện, có khi bên hành lang, bên hiên trường, có khi dọc theo con hẽm vắng, và thường khi nơi gác trọ Đakao. Tôi gần như không đi đâu, chỉ quanh quẩn trong phòng, trừ khi đến trường. Gác trọ riêng biệt, không khác chi một phòng học, với nhiều sách báo, với hai bàn viết lớn. Ngoài những buổi đi học, Nương thường đến đây. Nương nghiên cứu về lich sử kiến trúc, phác họa ngôi nhà trong ước mơ. Tôi đọc thêm sách về văn học nghệ thuật, về ngôn ngữ, vì tôi từ ban toán chuyển sang ban văn chương. Giữa những bài học là những bài ca. Tôi đệm guitar, Nương hát nhỏ, vừa nghe, cho riêng hai chúng tôi. Đôi khi, Nương hát thầm vào tai tôi như thỏ thẻ tâm tình, bài “Ai về sông Tương”. Bàn tay ngón dài nhịp lên ngực tôi, như truyền vào tâm hồn tôi, nhịp tim của Nương.         .

             Giữa khoảng lặng thời gian, chúng tôi thường thủ thỉ lời buồn vui đã qua, thầm thì ước mơ cho ngày sau. Qua đó, tôi biết, Nương chưa quên được mối tình đầu, dù hình bóng cũ đã xa, dù sự lãng quên đang đến gần. Cũng qua đó, Nương biết, trong tôi còn nỗi buồn thầm lặng, vấn vương từ mối quan hệ thánh thiện với Nga, dù chỉ thoáng qua, dù Nga đang trong nhà tu kín. Hoàn cảnh của hai đứa khác nhau xa, nhưng chúng tôi có chung ước mơ, dìu nhau đi qua con đường trước mặt, dù mù trời cát bụi.Trước mặt, giờ đây không có Nương, mình tôi núp dưới bụi đường.                   . .
 
              Hạnh Thông Tây, 2019.                           .
              Đoàn Thuận. 

MỘT KỶ NIỆM BUỒN.                           .                                                           

         Tôi học ở Đại học Kiến Trúc trong thời gian chưa tới bốn tháng, nhưng có nhiều kỷ niệm khó quên.                                  .                                

          Ngày đến ghi danh, tôi đứng lại dưới thềm, ngập ngừng không dám bước lên, vì trước mắt tôi mọi hình ảnh đều xa lạ. Bỗng nhiên, một chị đến nắm tay tôi dẫn đến văn phòng, chỉ chỗ nhận hồ sơ, có lẽ đã đón ra lần đầu tôi đến trường. Tôi quay lại định nói lời cám ơn, nhưng không thấy chị đâu, chỉ còn lại cảm giác mềm mại trên tay tôi.                             .

            Theo thời khóa biểu, tôi đến giảng đường học bài đầu tiên. Khi vào phòng, mọi người nhìn tôi ngạc nhiên. Tôi đi thẳng đến cuối phòng, ngồi vội lên chiếc ghế trống. Một bàn tay nữ đặt lên tay tôi, tôi nhận ra cảm giác mềm mại quen thuộc. Người ngồi bên cạnh cho biết đây là phòng học của năm thứ hai. Tôi đứng lên định đi ra, người ấy kéo tôi ngối xuống, vì giáo sư vừa bước vào phòng.Tôi chăm chú nghe và ghi chép, vì bài giảng rất hay. Một ngón tay nhịp lên cánh tay tôi, như nhắc nhở điều gì. Tôi mong giờ học mau tan, để đi tìm giảng đường của năm thứ nhất. Hết giờ tôi định theo mọi người ra ngoài, nhưng tay tôi được giữ lại. Qua trao đổi, tôi mới biết người bên cạnh chính là người đầu tiên dẫn tôi vào văn phòng trường Đại học Kiến Trúc. Người để lại trong tôi cảm giác mềm mại, tên là Tiểu Nương.                .                                                       

             Hôm sau, tôi đến giảng đường năm thứ nhất. Ngồi tại đây, toàn nam sinh viên, phần lớn thuộc tầng lớp khá giả, thể hiện qua trang phục và dụng cụ để học kiến trúc. Không ai giống tôi, với quần ca ki xanh, áo sơ mi trắng cũ mèm, với giấy bút rẽ tiền. Tôi vẫn còn bóng dáng một học sinh nghèo, quê mùa, khờ khạo, nhút nhát. Lẳng lặng, tôi chọn một chiếc ghế hư, dường như ai đó đã bỏ quên ở góc phòng. Hết giờ, mọi người ra về, riêng tôi vẫn ngồi lại chờ đợi sự yên lặng, vì rất ngại những đôi mắt lạ lẫm. Khi sân trường không còn ai, tôi xuống nhà xe. Nương ngồi trên yên xe solex của tôi, mĩm cười chỉ một chiếc cặp da đang treo bên tay ga, rồi lặng thinh lái vespa ra về. Tôi mở cặp. Một hộp bút chì Gilbert, hai xắp giấy vẽ, một ê-ke, một thước điếu chỉnh độ góc. Tôi nghĩ Nương mua giúp tôi.         .                                        

            Gặp lại Nương, tôi lung túng nói lời cám ơn và định hỏi giá tiền. Nương liền dẫn tôi vào chỗ vắng, đứng sát bên nhau, nắm tay tôi vòng qua eo thon của Nương, rồi vội vã xuống lầu. Tôi không hiểu gì cả, vì không gặp lại nhiều ngày. Dù chỉ đôi phút, tôi vẫn nhớ một vòng lưng êm ái mềm mại, môt thoáng hương tóc. Bất ngờ, Nương nhờ nhân viên bảo tôi đến thư viên. Tại đây, bên cửa sổ, Nương đưa tôi chiếc bị đựng hàng của tiệm may Văn Quân. Tôi nghĩ, hôm trước đứng bên nhau chỉ để “đo chiều cao may quần áo”. Nương đưa bốn ngón tay thon dài lên miệng tôi, như ngăn không cho tôi nói. Lặng yên hồi lâu, Nương hỏi tôi “yêu ai chưa”. Tôi lắt đầu vì không biết thế nào là yêu. Tôi hỏi lại Nương, Nương nói “một nửa”. Tôi tự hiểu “tình yêu một chiều”, nghĩa là bên này yêu, bên kia không, và ngược lại. Đôi mắt đen tròn của Nương hướng về xa xăm.                                                              

               Sau cơn bạo bệnh, bỏ thi kỳ một ở đại học Kiến Trúc, tôi chuyển qua thi chứng chỉ Dự Bị Việt ở đại học Văn Khoa.  Nương thuê cho tôi một chỗ trọ riêng, ở Đakao, thuận tiện cho việc dưỡng bệnh và đi học. Ngoài việc ăn uống bỗ dưỡng, Nương còn tìm tài liệu ôn thi và sách báo nghiên cứu. Thường khi, Nương đến thăm tôi và dạo chơi vào ngày chủ nhật, còn ngày khác đến để học bài, đọc sách. Gần như chúng tôi ít nói đến chuyện tình yêu, nhất là khi Nương cho biết thời trung học đã yêu, và người yêu đã lập gia đình với môt nữ dược sỹ giàu có ở Nha Trang. Tôi hẹn với lòng mình không gợi lại nỗi đau như đã lắng sâu trong tâm tưởng của Nương, dù đôi khi vô tình chúng tôi đụng chạm đến một thoáng riêng tư.

              Sau khi đậu Chứng chỉ Dự Bị Việt, tôi rủ Nương về thăm chú Hoan ở khu biệt thự Palace. Gặp lại, Bé Lai ôm tôi khóc nức nở, vì mọi người không biết vừa qua tôi đi đâu. Nghe chú Hoan trao đổi vài dự định với tôi, Nương không vui. Tại nhà trọ ở Đakao, hai chúng tôi quyết định sẽ bên nhau đi học đến cùng. Nương nhìn tôi như muốn khóc. Nhưng sau đó nhiều tuần, Nương né tránh gặp tôi. Chủ nhà không cho tôi trọ nữa, tôi đành quay về ở nhờ nhà chú Hoan. Tôi rất buồn.                            .                                 

               Hạnh Thông Tây, 2019.                                .
               Đoàn Thuận.                                   .

BÊN KIA TRANG FACEBOOK.                                       .

          Năm 2004, tôi nghỉ hưu ở Thủ Đức. Về đây, tôi có dịp tìm thăm những người bạn đã cùng tôi đi học đi dạy trước 1975. Nhiều nơi thay đổi, nhiều người vắng xa. Dĩ nhiên, tôi có gặp vài người quen, không thân lắm. Tôi lên Dĩ An, gặp Hiền, từng dạy ở trường Thánh Mẫu cuối thập niên 60. Hiền cho biết, nhiều người tưởng “tôi đã chết” và muốn biết tin về tôi. Hiền liền lập trang “facebook đoàn thuận” để làm nơi liên lạc. Qua internet, chúng tôi gặp lại nhiều người bạn cũ, lưu vong ở nhiều nước, trong đó có Thầy Cô đã từng giúp đở chúng tôi.             .
           Ban đầu, chỉ là những lời thăm hỏi, những kỷ niệm một thời. Về sau, tôi nhận cả những trang “tùy bút viết tay” cuả chính tôi với nhiều “tên hiệu” khác nhau, khi thì “Thuận Thẹo”, “Bé Thuận”, “Văn Thuận”, “Trần Thuận”, “Trần văn Thuận”; khi thì “tvt”, “matlys”, “Thoại Băng”, “Cát Sỹ,..(Đoàn Thuận, mãi đến 1993 mới có). Tôi điều chỉnh những bài lưu bút, ghi chép theo thể văn vần, thành bài thơ, với bút danh Đoàn Thuận. Từ đó, một số người biết tôi và giới thiệu tôi trên vài Website riêng, trong đó có Trần Thị Thanh Hương, ở Paris. Thanh Hương giúp tôi xuất bản 3 tập sách: “Đường Thi” “Thơ thiền Vương Duy”, “Mùa thạch thảo”. Ngay sau đó, có ngưới chỉ trích tôi rất nặng nề, liên quan đến uy tín của Thanh Hương, nên tôi dừng gửi bài cho website Đại Học Sư Phạm Saigon và nhạt dần mối liên hệ giữa chúng tôi. Tôi cũng ngưng trang “facbook đoàn thuận”, sau nhiều lời hăm dọa với tội làm thơ “ca ngợi chế độ Saigon cũ”. Tôi nghĩ Thanh Hương trách tôi nhiều lắm, nhưng tôi chỉ biết thầm cám ơn Thanh Hương, không thể nói gì thêm.                              .

         Thân hữu khắp nơi tiếp tục gửi bài, yêu cầu tôi phục hồi trang “facebook” đã bỏ trống nhiều tháng. Trong đó có nhiều tùy bút của tôi ghi lại phong cảnh La Gi, trước 75. Thế mà, một số người chữi tôi “nghe lời cộng sản tuyên truyền ca tụng đất nước tươi đẹp”, mắng tôi “vô tâm” trước vụ Formosa. Thực tế, tôi chỉ “ca tụng đất nước tươi đẹp” và phong cảnh thơ mộng nơi Quê Mẹ của tôi, khi tôi về trường Bình Tuy dạy học, từ 1972 đến 1974. Lúc này, làm gì có cộng sản và tôi chẳng nghe lời ai cả. Tôi cũng không “vô tâm” trước Formosa, vì trong tập tùy bút “Họa hủy diệt” dưới dạng thơ trào phúng, tôi đã ghi lại âm mưu hủy diệt nước Việt của giặc Bắc Phương, ngay khi có vụ Formosa. Tôi không dừng lại ở ngư trường bốn tỉnh Miền Trung bị ô nhiễm, mà đề cập đến toàn bộ môi trường nhiễm độc. Rừng núi biên cương, vụng biển hải đảo, đồng bằng sông ngòi, nước uống lương thực,… Ngoài ra, tôi còn 5 tập tùy bút khác, ghi lại những gì nghe thấy trên đường đời. Trong đó, phần lớn nói về sự biến động toàn cầu, về bản chất của chế độ độc tài toàn trị, về nền giáo dục phục vụ chính trị sau 75, về người nghèo khổ, về sự nổi dậy của dân oan đòi lại đất đai bị cướp,…Những bài tùy bút, dưới dạng thơ trào phúng này, đã được đăng trên vài website ở Mỹ, ở Pháp, ở Đức, .. trong mười năm qua; ở VN với trang Dân Quyền từ hai năm nay….Những lời “mắng chữi” nói trên chỉ ngụy tạo “chứng cứ” để “tiếp tay” với một số người muốn hảm hại tôi. Không sao, con người đâu thoát khỏi luật nhân quả, và sinh diệt chỉ có một lần, trên đời.                                     .       .              

         Thấy vậy, một người bạn chăn trâu của tôi ở Tân Lý năm 1955, cùng nhóm thân hữu Dĩ An, sưu tập rồi biên tập và xin giấy phép xuất bản tập “Mái Xưa”, gồm những bài tôi ghi lại “mái nhà của ông bà cha mẹ”, từ Phong Điền đến Cù Mi, giữa không gian thơ mộng La Gi.  Tiếp theo, chúng tôi đăng những bài nói về cỏ hoa cát bụi trên đường rong chơi môt thời đi học, thay thế những bài tả phong cảnh. Rồi vụ Tư Chính diễn ra, nhóm “thơ đấu tranh” yêu cầu tôi ghi lại đôi điều về lịch sử “đánh giặc Bắc Phương” của dân Việt. Qua bài “kẻ thù truyền kiếp”, tôi nhớ lại công cuộc “chống Tàu” từ thời  Bà Trưng Bà Triệu Ngô Quyền, qua thời Pháp thuộc, thời đất nước chia đôi, đến thời thống nhất lãnh thổ. Liền đó, một số người, như trên, lại “mắng nhiếc” tôi thậm tệ, có người đòi dạy tôi “một bài học”, có lẽ theo kiểu Trung Quốc đòi dạy cho Việt Nam một bài học vào năm 1979; có người hăm bắt tôi vì tội “chống chính quyền”, theo kiểu bắt giam Nguyễn Phương Uyên, khi Uyên rải truyền đơn chống “Tàu khựa chiếm đảo”. Tôi tự biết họ là ai.                                     .                                               

             Thầy Huân ở Pháp, biết tôi còn sống chưa bị bắt, nên hỏi thăm về chuyện đi dạy sau 1975. Tôi thành thật trả lời, sau 75, tôi như “phu chữ”. Tức thì, ai đó chữi tôi “theo cộng sản làm hiệu trưởng, nhét vào đầu trẻ điều độc hại, còn nói làm phu chữ”. Ngược lại, có kẻ mắng tôi “đồ phản động”, “bôi bác chế độ”. Thực sự, nhiều vị lãnh đạo cao cấp ở Thuận Hải biết rõ gia đình Ba Tôi và lý lịch của tôi. Khi học tập cải tạo tại chỗ, tôi được trả quyền công dân, và được cấp “Giấy phép làm thợ hồ”. Khóa học tập cải tạo dài ngày ở Đà Lạt lại thông báo tôi thuộc loại “Giáo viên lưu dung”, nghĩa là tôi được tha thứ, giữ lại làm giáo viên. Chỉ thông báo, chứ không cấp giấy phép, nên tôi về tiếp tục “làm thợ hồ”. Đầu năm học, tôi bị buộc giao nhà cho ban Quân Quản, vì nhà thuộc diện đi kinh tế mới. Tôi trình “Giấy phép làm thợ hồ”, lãnh đạo cho biết có thể “làm thợ” ở trường học. Thay vì đi kinh tế mới, tôi lên trường C3 Hàm Tân trình diện. Trường giao tôi làm “Trưởng ban lao động” hướng dẫn học sinh toàn trường đi trồng bo bo ở Tân Hà, trồng sắn ở Láng Đá, trồng khoai lang ở Sơn Mỹ, đào mương đẫn nước vào đồng Tân Thiện…Vào trường, tôi phụ trách việc tu sửa trường lớp. Tôi, cùng nhóm thợ hồ La Gi, sửa lại dãy lớp học cũ làm khu nhà ở cho giáo viên chi viện, xây mới bếp ăn và khu vệ sinh trong khu tập thể. Tôi được phân công dạy vài lớp tiếng Anh, nhưng không đáng kể, lao động là chính. Hai năm sau, tôi có quyết định làm “Phó hiệu trưởng phụ trách lao động”, tiết dạy còn lại rất ít. Năm 1994, tôi ký với Tỉnh họp đồng “xây dựng một ngôi trường mới”, còn Hiệu trưởng là chức vụ kèm theo để kịp khai giảng trường Trung học Bán Công Nguyễn Huệ. Tại trường Nguyễn Huệ, tôi chỉ dạy 04 tiết văn mỗi tuần, nên tôi như một “Trưởng ban xây dựng” “Trưởng nhóm thợ hồ” hơn là một giáo viên đứng lớp, dù chỉ là “giáo viên lưu dung”. Ngày tôi vào làm trưởng ban lao động trường C3 Hàm Tân, lương tháng của tôi là 16kg gạo. Ngày tôi rời trường Nguyễn Huệ tôi hưởng lương chuyên viên loại một, không phải lương giáo viên. “Rất may” cho ai đó không học với tôi. “Rất tội nghiệp” cho những người cùng lao động bên tôi, vì tôi chẳng mang đến điều gì lợi ích. .              Bên kia trang facebook chỉ còn thoáng hồi ức về một thời đi học. Điều này sẽ làm phiền nhiều vị. Tôi thành thật xin lỗi.     .              

             Hạnh Thông Tây, 2019.                                              .   
             Đoàn Thuận.                    

NỖI BUỒN DỊU ÊM

             

               Mỗi số phận là một câu chuyện dài, và ai cũng có ước mơ. Phận người chuyển dịch trong cõi luân hồi, nhưng mộng mơ tùy theo cảnh ngộ.                                            .                   

              Thời bán cà rem cây trước cổng trường, Tựu mơ được cắp sách vào lớp, học chữ học vần, đọc được câu thơ. Ngày ê a, nơi lớp từ thiện Caritas,Tựu mơ làm “cô giáo” xóm nghèo, giúp trẻ mồ côi có áo mặc cơm ăn. Lối mộng đã đưa Tựu từ mái tôn ọp ẹp, qua đường hẽm quanh co, đến sân ga còi tàu, vào lớp học tráng niên, nay dò dẫm bước dần lên thềm đại học.

              Khi đậu bằng Trung học Đệ Nhất cấp, Tựu rời khỏi công việc chân tay ở sân ga, về dạy tiểu học do Hội Từ thiện Caritas tổ chức. Đúng ra, theo dự định ban đầu, Tựu sẽ thi vào Trung học Sư Phạm, ra làm giáo viên tiểu học chính ngạch, giờ lại dạy tư cho một hội từ thiên. Dù vây, Tựu không rời bỏ ước mơ làm “Cô Giáo” trước đây, mà muốn thi vào Cao Đẳng Sư Phạm. Đó cũng là sự mong mỏi của những người thân quen, nhất là chị Sáu, chị nuôi của Tựu. Điều kiện để thực hiện ước mơ đó gần như có đủ. Chị Sáu, khi chuyển vào làm việc ở văn phòng, lương được nâng lên gấp đôi, có thể bảo đảm mọi sinh hoạt trong gia đình, giúp Tựu an tâm đi học. Hơn nữa, Caritas sẽ tài trợ toàn bộ để Tựu hoàn tất ban Tú Tài. Tựu, một trẻ mồ côi nghèo, chịu khó, chịu nhục, vượt qua trắc trở để tiếp cận với con chữ, tự nuôi dưỡng tâm hồn trong trắng như nhiên, giữa đất trời mưa nắng gió sương. Được như vậy, phần lớn nhờ tự thân Tựu, và cũng nhờ người có lòng thiện bảo trợ.

  
            Từ đây, Tựu thường mặc áo dài trắng, giống môt nữ sinh Gia Long, đi học đệ tam trường Nguyễn Bá Tòng, đến dạy tư lớp Từ thiện Caritas, như đang ở giữa hai ước mơ “học đại học” và “làm cô giáo” chính ngạch. Tựu hiền hậu ít nói, luôn trầm tư suy nghĩ, ngại giao tiếp, không dám làm phiền ai. Nhiều chàng trai tỏ tình với Tựu, nhưng khoảng cách xã hội, sự phân ly luôn mang đến nỗi đau, khiến Tựu từ chối. Riêng Hải có tình cảm sâu nặng với Tựu, lúc Tựu ở tuổi trăng tròn, rồi ngày tháng trôi qua êm đềm ở ngưỡng cửa tình bạn. Khi lên tuổi mười tám, Tựu muốn đưa Hải về lại điểm khởi đầu, để Hải chuyển sang con đường về tương lai tươi đẹp. Tựu xa dần Hải, tập trung học hành để đến trường, soạn bài để đi dạy, và dường như để quên một điều gì. Đôi khi, Hải đi ngang con hẽm trước nhà Tựu, rồi lặng lẽ quay về. Một nỗi buồn chia ly dịu êm lắng xuống tâm hồn của hai người..        

              Hơn mười tám năm, Tựu luôn mơ ước được gặp cha mẹ, dù trong tình trạng nào, nhưng thời gian thản nhiên đưa nỗi nhớ mong vào cõi mịt mùng. Tựu thầm tạ ơn cha mẹ đã sinh ra Tựu, dù đã bỏ quên nơi góc phố đêm. Tựu cũng biết ơn chị Sáu đã nhận Tựu làm em nuôi, trong hoàn cảnh nghèo nàn khốn khổ. Thế rồi, anh Sáu tử trận, khiến cháu Sen lâm cảnh mồ côi cha, chị Sáu ở vậy ru con vào đời. Từ đó,Tựu quyết định không lập gia đình, luôn bên cạnh chị Sáu, và khi có điều kiện sẽ nhận trẻ mồ côi làm con nuôi. Sinh diệt là lẽ thường, nhưng sao tránh được sự muộn phiền của phận người không cha mẹ, nỗi buồn cô đơn dịu êm trong lòng Tựu.

Thảo Điền, 2008
Đoàn Thuận. 

TRONG GIỌT LỆ BUỒN.

          Sau khi đậu Dự Bị Việt, tôi ghi danh học Chứng chỉ Ngữ Học Việt Nam và Chứng chỉ Văn Chương Quốc Âm, trong cùng một năm. Nhưng tôi bận dạy lớp tráng niên ở Cư xá Hỏa Xa Saigon, và kèm hai nhóm trẻ tư gia ở Phú Nhuận, nên thời gian đi học còn lại rất ít..

           Vì thường đến trễ, giảng đường A chật cứng, trong giờ của giáo sư Bữu Cầm, nên tôi đứng ghi bài ở góc cuối. Một hôm, cạnh chỗ tôi có một ghế không ai ngồi, trên đặt chiếc túi da. Thường khi, chiếc ghế như thế đã có người chọn. Thế rồi, một thanh niên, mũi cao tóc vàng, đến xin ngồi. Cô sinh viên kề bên chỉ vào tôi. Thanh niên ấy đưa tôi đến chiếc ghế, bảo tôi ngồi xuống.Tôi tưởng người ấy nhường ghế, nên lặng thinh chăm chú nghe giảng, cuối giờ định nói lời cám ơn. Thanh niên ấy lắt đầu, và chỉ cô sinh viên đang mĩm cười nhìn tôi. Tôi cúi đầu chào, làm quen. Từ đó, cô sinh viên, tên Hằng, luôn giữ chỗ ngồi cho tôi.

         Bên Hằng, tôi cảm thấy như đã biết nhau từ lâu. Dáng điệu và khuôn mặt hao hao giống ai đó trong qua khứ. Có những điều không nói ra nhưng gần như đã hiểu. Theo thói quen, tôi gọi người đồng tuổi là “anh chị”, nên gọi Hằng là Chị Hằng, khi mới gặp nhau. Hằng viết lên giấy năm sinh của Hằng. Tôi tự hiểu, Hằng không muốn tôi gọi Hằng là “chị” và tôi gọi “em Hằng”. Tức khắc, Hằng gọi tôi là “Anh”, như nhắc tôi chỉ gọi Hằng là “Em”. Hằng nhìn tôi triều mến và nhỏ nhẹ nói “chỉ có Anh và Em”. Dần dà, chúng tôi gần gụi bên nhau, khi trong giảng đường, khi bát phố, khi trong quán cà phê Tự Do, Adam. Ngoài “anh em”, còn một điều gì ấm áp thầm kín, khó nói nên lời.

            Qua câu chuyện thường ngày, tôi biết thêm đôi điều về Hằng dù không rõ lắm. Gia đình Hằng thuộc tầng lớp quí tộc, cha làm việc nơi dinh Gia Long, hiện sống trong một ngôi biệt thự lớn, ở khu phố đường Duy Tân. Mẹ hứa gã Hằng cho một sinh viên Võ bị Đà Lạt, nhưng Hằng quyết liệt từ chối, chỉ muốn học xong tiến sỹ, làm giáo sư đại học. Thời trung học, Hằng yêu một học sinh cùng lớp, không rõ do đâu đã chia tay. Một người quen cho biết người thanh niên ấy đang tìm việc làm để học lớp đệ nhị, nếu không, phải đi quân dịch. Nhìn lại những việc đã qua, tôi tự thấy việc tôi quen thân với Hằng có thể đem lại cho Hằng cuộc sống không tốt và tôi cũng gặp nhiều trở ngại. Tôi dự định, dừng mối quan hệ giữa hai chúng tôi ở đây, và nhường lại hai “nhóm trẻ tư gia” ở Phú Nhuận cho người yêu cũ của Hằng, để giúp anh tiếp tục con đường học vấn.

          Như vậy, tôi có đủ thời gian đi học cả hai chứng chỉ, rất thuận lợi cho ước mơ có sớm bằng cử nhân. Đến trường, tôi thành thật nói với Hằng về dự định của tôi.  Hằng ngạc nhiên, với vẻ lo lắng, khi tôi cho biết ba tôi là “tù Côn Đảo”. Hằng buồn bã ra về. Hơn một tuần sau, Hằng thuận ý với tôi, nhưng lại xin làm Anh Em vì không muốn xa nhau. Tôi hỏi Hằng không ngại làm “em” của một thằng “anh” liên quan đến tù Côn Đảo sao. Hằng đưa một ngón tay lên môi tôi, nhưng tôi vẫn nói thêm về hoàn cảnh của riêng mình. Ba tôi là tù Côn Đảo, nên tôi thường bị mắng chữi, bị hăm dọa đủ thứ, bị đánh đập vài lần. Chỉ người có tầm nhìn rộng rãi, suy nghĩ chín chắn mới thấy được bản chất của sự việc, quy luật của cuộc sống. Xã hội nào, chế độ nào, giai cấp nào, đảng phái nào cũng có người thiện kẻ ác. Nhờ người có tâm thiện, mà bao người khốn khó, bị vùi dập vẫn tồn tại giữa đất trời. Nhờ Thầy Thân ở Bến Lội, Soeur Bề Trên ở Tu viện Saint Paul, Thầy Cử Cô Linh ở trường Sỹ Tãi, Thầy Nguyễn Đức Hiếu ở trường Châu Văn Tiếp, Bác Hân ở Gia Định, Chú Hoan ở khu Palace,mà tôi, từ rừng núi, trên lưng trâu, đã đi dần vào cuộc đời. Hằng cho biết Cha của Hằng cũng nghĩ như thế. Thiện ác nhân quả, sum họp phân ly, luôn hiện hữu đâu đó trong cõi âm dương.                                                                 
             Chúng tôi là Anh Em, đang dìu nhau bước lên thềm đại học. Không nhất thiết phải ngồi kề bên trong giảng đường. Rồi đây, có thể, mỗi người một phương, nhưng với tấm lòng chân thật sẽ giúp nhau thực hiện ước mơ của đời mình. Một hôm, tôi đưa Hằng đến Quán Văn, nghe Trịnh Công Sơn đàn Khánh Ly ca. Lời của Diễm Xưa làm Hằng rơi nước mắt. Tôi nhận ra khuôn mặt Hằng hao hao khuôn mặt Nga ngày nào. Trong lệ buồn có một niềm tin.

Thảo Điền, 2004
Đoàn Thuận


LỚP TRÁNG NIÊN

TÔI

  

          Mùa hè cuối năm Dự Bị, tôi nhận dạy một lớp “tráng niên”, trong Cư xá Hỏa Xa Saigon. Học viên phần đông là công nhân, đang làm việc ở Sở Hỏa Xa, được Sở tài trợ học “lớp đêm” để lấy bằng Trung học Đệ Nhất Cấp.                                        .              

          Mọi việc, do Cư Xá thu xếp. Tôi chỉ đến dạy Toán Lý Hóa và Anh Văn, học viên tự lo những  môn còn lại. Thực ra, lớp được thành lập từ năm Đệ Thất. Người đứng lớp trước đây là chị Hậu, một sinh viên Dược. Chị thấy tôi gặp nhiều khó khăn nên nhượng lại chỗ dạy này. Thời của chúng tôi đi học là vậy. Người này người nọ tương trợ lẫn nhau, để vượt qua gian khổ, góp phần nâng cao trình độ văn hóa cho chính mình, cho xã hội, cho cộng đồng. Lớp đêm, lớp tráng niên, lớp miễn phí mở khắp nơi, giúp mọi người tiếp cận với kiến thức của nhân loại. Học sinh nghèo, sinh viên nghèo có thể đi kèm trẻ, làm gia sư, tự giải quyết sự thiếu thốn để tiếp tục con đường học vấn. Nhờ vậy, từ một đứa trẻ chăn trâu, tôi bước dần lên thềm đại học.           .                                 

          Lớp có hai mươi chín học viên lớn tuổi. Người nhiều tuổi nhất trong lớp tráng niên này là chị Sáu, nhỏ nhất là em Tựu, mười tám tuổi. Cả hai đều nghèo, đều phụ việc ở sân ga, đều ở chung một mái nhà tôn ọp ẹp, trong hẽm cụt xóm Chí Hòa. Chị Sáu đã lập gia đình. Anh Sáu đi lính, đã chết trận, chị ở vậy nuôi hai cháu nhỏ và một mẹ già. Tựu mồ côi cha mẹ, làm em nuôi của chị Sáu từ bé. Lúc nhỏ, Tựu  bán cà rem bán vé số, đêm học lớp “từ thiện Caritas”, nay đủ tuổi trưởng thành vào làm việc ở sân ga cùng chị Sáu. Hai chị em cùng đồng lòng học lên, dù cơ cực đến đâu. Tuy còn nhiều khó khăn, anh Sáu không còn, nhưng gia đình rất đầm ấm.  Mẹ già lo chăm sóc hai cháu nhỏ, sắp xếp mọi việc trong nhà. Thu nhập của hai chị em không nhiều nhưng vẫn đủ ăn đủ mặc, ốm đau có nhà thương thí, đi học có lớp miễn phí. Đời dù nghèo nhưng vẫn vui, vẫn hy vọng một cuộc sống tốt hơn, khi trình độ học vấn được nâng  cao dần.

                                                                                                                             Gần như, hai mươi chín học viên đều mong sẽ có bằng Trung học Đệ Nhất Cấp, để được nâng lương, được chuyển công việc phù hợp với năng lực. Chị Sáu sẽ thôi công việc chân tay, vào văn phòng làm thư ký hay kế toán, lương tháng có thể tăng gấp đôi, đời sống sẽ dễ chịu hơn. Tựu, sẽ rời khỏi tình trạng thử việc ở sân ga, nhận dạy một lớp tiểu học, theo dự định của Hội Từ Thiện Caritas. Nếu được như thế, con đường đi lên đại học của Tựu sẽ rộng mở, giấc mơ làm “Cô Giáo” đang đến gần. Năm mười bảy tuổi, khi Tựu giúp việc cho một gia đình danh giá ở đường Tú Xương, cậu trai trưởng tỏ tình với Tựu, bị bà mẹ quí tộc mắng cho một trận. Tựu lặng lẽ bỏ việc, dù thù lao rất cao. Thấy vậy, một cô giáo tiểu học, gần đó, nhờ Tựu hằng ngày đưa đón cháu bé đi học mẫu giáo, với thù lao tương đương. Chính Cô Giáo đã tìm việc làm ở sân ga, để Tựu có điều kiện xin học lớp “tráng niên miễn phí” ở Cư xá Hỏa Xa Saigon. Hình ảnh “Cô Giáo” hiện hữu trong giấc mơ của Tựu, có từ đây chăng?.                           . 

               Cuối năm học, mọi người đều đổ bằng Trung Học Đệ Nhất Cấp. Riêng tôi, nhờ lớp tráng niên này tạo điiều kiện ăn ở, đã đổ Chứng chỉ Ngữ Học Việt Nam và Chứng chỉ Văn Chương Quốc Âm, bước tiếp lên thềm đại học.                                            .

Thảo Điền, 2004
Đoàn Thuận.

 

NỖI NIỀM THẦM KÍN.                                                     .         

         Sau khi đổ Chứng chỉ Dự Bị Việt, tôi gặp nhiều khó khăn trong việc ăn ở. Thấy thế, Chú Hoan đã tìm cách giúp đở, để tôi tiếp tục việc học. Trong khi nghỉ hè và chờ đợi thu xếp mọi việc, Chú đưa tôi về dưỡng bệnh tại tư gia của Chú, giữa khu biệt thự Palace.

        Chú Thiếm coi tôi như cháu trong nhà, bên cạnh Bé Lai. Điều này làm tôi suy nghĩ rất nhiều về những người thân thiện ở đời. Tôi, từ một trẻ chăn trâu bước dần lên thềm đại học, đã nhờ sự dìu dắt bảo trợ của bao người lương thiện, với tâm hồn cao quí, trong đó có người nghèo khổ tận cùng. Nhóm bạn Chăn trâu Láng Đá đã giúp Mẹ tôi dựng được căn nhà lá trên nền đất tổ tiên, nhầm động viên tôi an tâm đi học. Thầy Thân cùng Thầy Cô xóm Bến Lội chung sức giúp tôi lên Bà Rịa học Lớp Nhất. Quí Dì Phước ở Tu viện Saint Paul, tạo mọi điều kiện ăn ở, giúp một đứa bé nghèo xa quê, học tiếng Pháp, thi đổ bằng Tiểu Học. Bác Hân, ở Gia Định, lấy cớ “nhờ” tôi dạy nói tiếng Pháp cho Hân, Tâm, Bé Lai, đã tài trợ tôi đi học để lấy bằng Trung học Đệ Nhất cấp và Tú Tài Toàn Phần. Chú thiếm Hoan, trước khi đi Pháp, đã giới thiệu tôi dạy “lớp tư gia” tại một phòng trọ riêng biệt ở Cư xá Hỏa Xa Saigon, và năm sau vào dạy Trung học tư thục Thánh Mẫu. Thực ra, Chú Thiếm muốn tôi qua Pháp, nhưng hoàn cảnh gia đình tôi không cho phép, nên mong tôi lấy được Cử Nhân, rồi sang Pháp lấy Tiến Sỹ. Mọi việc đã được thu xếp, còn lại là việc dưỡng bệnh của tôi.

           Hàng ngày hai lần, bác sỹ Ann của khu phố Palace, đến chăm sóc sức khỏe cho tôi, sau khi tôi té xe mất nhiều máu. Bác sỹ là người Việt lai Pháp, mồ côi từ nhỏ, nên rất thân với Bé Lai, có lẽ vì cùng cảnh ngộ. Bé Lai coi bác sỹ như chị ruột. Chị tốt nghiệp ở Paris, theo mẹ nuôi qua đây, phục vụ y tế cho những người có quốc tịch Pháp, làm việc tại Saigon. Chị còn rất trẻ, nhưng có vẻ từng trãi, lạnh lùng, rất buồn. Ngày đầu, chị đến khám tổng quát, tiếp máu, đặt bàn tay lên trán tôi, rồi lặng lẽ ra ngoài. Tôi chìm dần vào giấc ngủ với tâm trạng đìu hiu quạnh quẽ. Buổi trưa, chị trở lại thăm bệnh.Tôi giả vờ ngủ say. Chị đo huyết áp, rồi dịu dàng hôn tôi, như thầm mong một sự bình yên. Tôi lan man nghĩ ngợi về thái độ lặng thinh của chị, vì đó không phải là sự lạnh lùng.

          Thấy tôi trầm ngầm mỗi khi bác sỹ ra về, thiếm Hoan  cho biết chị cũng thường “trầm ngâm”, có lẽ vì cuộc đời côi cút cùa chị. Một người da đen nhặt rác, đã nhặt một bé đỏ hỏn bên thùng rác, đem về phố Harlem nuôi dưỡng trong cảnh nghèo khổ. Ông Henry, người Pháp, nhận bé làm con nuôi, đem về Bordaux cho ăn học thành bác sỹ Ann. Ann qua lại Mỹ, đến Harlem, tìm thăm người đã cứu mình, nhưng không gặp. Từ đó, Ann sống với nỗi niềm thầm kín, và không lập gia đình, dù nhiều chàng trai lịch sự giàu có cầu hôn. Ann muốn sống tự do để chủ động giúp đở những người đói khổ neo đơn. Sau khi ông Henry qua đời, Ann nhận hai trẻ mồ côi làm con, ở Pháp. Nghe thiếm kể, tôi thầm đội ơn “người da đen” và ông Henry, hai người đã từng cứu giúp chị Ann. Nhờ người có tâm thiện mà biết bao người khốn khó còn tồn tại trên cõi đời.

           Nhà bác sỹ Ann ở gần, ngoài giờ khám bệnh, chúng tôi thường gặp nhau, có khi trên sân cỏ, có khi loanh quanh đâu đó. Chúng tôi như ba chị em, dù không chung một nhà. Qua những câu chuyện vu vơ, về cỏ hoa sương khói đất trời, về cuộc đời lưu lạc vô gia cư của trẻ mồ côi, Bé Lai và tôi biết thêm về cuộc sống tình cảm của chị. Thời thiếu nữ, chị và một thanh niên cùng xóm thầm lặng yêu nhau, bổng nhiên “ngưới ấy” mất tích, để lại trong lòng chị nỗi buồn nhớ không nguôi. Có lẽ vì thế, chị không chấp nhận một tình yêu nào khác dù nhiều người say mê chị. Hơn nữa, tình yêu rất “cần” cho đôi lứa, nhưng không “đủ” để mang lại sự bình yên, giữa cuộc đời đầy trắc trở hiểm nguy. Đôi lứa có thể chung một mái nhà, tâm hồn vẫn cách xa vời vợi, nếu không cùng nhịp trái tim. Tình yêu chân thành vẫn thiên thu, dù bị đời phân ly bạo tàn.

            Có thể, ba chị em chúng tôi sẽ mỗi người một nơi. Tôi vào Cư xá Hỏa Xa Saigon nhận lớp dạy. Bé Lai cùng gia đình chú Hoan về Paris. Bác sỹ Ann theo Tòa Đại sứ chuyển đi nước khác. Nhưng tôi sẽ không quên những tháng ngày chúng tôi bên nhau và mãi nhớ ơn những người đã giúp tôi còn tồn tại giữa đời.

Thảo Điền, 2004
Đoàn Thuận

LẶNG BUỒN.                                                           .

         Khi đến ghi danh học đại học Kiến Trúc, gs Bách chỉ tôi nhiều nơi ăn ở, cuối cùng tôi chọn một gác trọ giữa xóm Ruộng Cỏ, gần Rạch Chiếc. Gác ẩn dưới táng cây xoan, cạnh ngôi nhà ngói cổ ba gian thềm gạch rêu phong, trong vườn rau cải khá rộng. Trước cổng, một con đường nhựa, chạy vòng theo bờ sông, từ đầu cầu Sài Gòn đến Rạch Chiếc. Một không gian yên tịnh, một phong cảnh thơ mộng, ít nhiều phù hợp với một người từng sống nơi núi rừng đồng quê như tôi.    .

           Nơi đây, ngoài U Già giúp tôi việc cơm nước, tôi không quen ai, sống một mình trên gác, tìm vui qua sách vở. Đôi khi, tôi cũng loanh quanh dạo chơi ngắm cỏ hoa, ghé lại quán cốc bờ sông nha8j nm nhi cà phê, vào tiệm Palace nghe khúc nhạc cổ điển. Đôi khi, tôi cỡi xe tìm thăm những người quen cũ, nhưng chẳng gặp ai, chỉ thấy phố xá đổi thay, mọi người xa lạ. Một hôm, khi ngang qua một biệt thự, tôi cảm thấy như có ai lấp ló nhìn tôi. Tôi lách nhanh xuống đường mòn theo bờ sông về nhà trọ. Từ đó, tôi không dám đến khu biệt thự Palace, chỉ đi học theo Xa lộ Biên Hòa và sống lặng thầm dưới bóng hoa xoan.

          Mấy ngày sau, U Già cho biết có người muốn gặp, tôi lên nhà trên gặp Bé Lai, đang đứng khóc. Không ngờ chúng tôi gặp lại nhau sau hơn ba năm xa vắng, mừng rỡ ngẹn ngào, không nói nên lời. Bé Lai, không còn bé, thành một thiếu nữ cao lớn xinh đẹp, dù khuôn mặt vẫn buồn. Chính Bé Lai là người lấp ló nhận ra tôi, nhưng ngần ngại không dám gọi. Qua cuộc hội ngộ này, Bé Lai cho biết nhiều điều. Khi gia đình Bác Hân chuyển về Paris, Bé Lai xin ở lại nhà Chú Hoan, hy vọng ngày nào đó mọi người sẽ gặp nhau như lời cầu nguyện, dù Nga đã vào dòng tu kín, Tâm và Hân qua Pháp. Bao chuyện khác nữa, Bé Lai nhắc lại trong bùi ngùi. Miệng cười nhưng mắt đầy lệ.

          Sau đó, chúng tôi thường gặp nhau, trên gác trọ, dưới hiên biệt thự, bên bờ sông. Tôi không còn dạy Bé Lai nói tiếng Pháp vì em học trường Marie Curie. Thiếm Hoan như thấy có điều gì ngồ ngộ nên bảo tôi thay đổi cách gọi, vì Lai đã lớn, nhưng chúng tôi vẫn “em” vẫn “anh”, như ngày nào, dù nhìn nhau đã khác xưa rất nhiều. Em đâu còn hồn nhiên, lại thường lặng thinh buồn rầu, như muốn biết tôi nghĩ gì về em, khi một sỹ quan thường đến thăm gia đình. Tôi tự cảm thấy ái ngại, nên thưa thớt gặp em.Vì thế, Thiếm Hoan trao tôi cuốn nhật ký và cho biết Lai bị bệnh. Tôi lướt nhanh những trang viết và đến biệt thự thăm Lai. Tôi cho em biết, do tập trung học bài chuẩn bị thi, nên chẳng đi đâu. Em nắm chặt tay tôi, như cám ơn, với hai dòng lệ.

        
         Trên đường đi thi, tôi té xe bị trọng thương, mất nhiều máu, phải nằm nhà thương thí nhiều ngày. Khi xuất viện, kỳ thi ở đại học Kiến Trúc đã xong, tôi vào Bà Chiểu ở trọ, để kịp thi Chứng chỉ Dự Bị Việt tại đại học Văn Khoa. Vì bất ổn và không đủ chi phí cho việc dưỡng bệnh, ngay sau đó, tôi chuyển xuống Phú Lâm, kèm tư gia cho một gia đình khá giả. Thu xếp ổn, tôi về thăm Chú Thiếm Hoan. Lai khóc nức nở vì không ai biết vừa qua tôi đi đâu. Sau khi biết mọi việc, Chú Hoan muốn tôi cùng gia đình qua Pháp, nhưng tôi không giám nhận vì ba tôi đang lâm bệnh nặng, có thể đi vào dịp khác. Thiếm Hoan bắt tôi ở lại dưỡng bệnh. Lai và tôi đến gác hoa xoan, thăm U Già, rồi chậm bước qua những con đường vắng.Tôi mong Lai hiểu cho hoàn cảnh của tôi, vì ai cũng có một số phận. Lai lại mong có ngày sum hợp, và nếu không được, sẽ đi tu như Nga. Chúng tôi lặng buồn bên nhau.

Thảo Điền,2004
Đoàn Thuận

KHOẢNG LẶNG KHÔNG TÊN.

         Tôi đến Hà Tiên trình sự vụ lệnh dạy học vào một buổi chiều. Sắc chiều còn lại ở chân trời là những áng mây trắng, che dần ráng đỏ, trôi vào đêm.                                                          . 

         Quán cốc cuối đường qua bãi Thuận Yên đã thưa khách, chỉ  còn ba người đàn ông đang lai rai mấy chén rượu đế. Phố Hà Tiên nằm bên kia hồ, mờ mờ trong bóng chiều. Những ngọn đèn đỏ quạch. Vài ngọn dừa cao trên mái nhà ngói cổ.Phố im lìm dù mới chớm đêm. Hồ Đông như một vòng cung ôm trọn khu phố.Nhìn từ bên này Thuận Yên, phố nhỏ nhưng rất thơ mộng.                                                 .                 

          Bụi đường phủ đỏ trên tóc trên vai áo, trên chiếc túi xách hành trang. Đã nhiều chuyến đò qua bờ bên kia và trở lại cắm sào bên pong-tông cầu xi-măng. Tôi ngồi bên quán nhỏ mà tưởng mình như kẻ giang hồ lữ thứ bao đời. Một cốc rượu trắng uống hoài không cạn. Phố cách một chuyến đò ngang mà tôi chưa muốn sang, vì không quen biết ai. Hà Tiên là quê hương của thi sỹ Đông Hồ, với tôi, như một nơi lưu biệt xa lạ. Con đò nhỏ vẫn nằm im bên bờ vắng, chờ đưa người khách lạ sang sông. Ánh đèn dầu le lói soi bóng thuyền nhạt nhòa trên dòng nước. Phố nhỏ chìm dần vào giấc ngủ khuya, khi con đò neo lạnh dưới bến.                                              .                       

             Một mái hiên nhỏ ở đầu quán, nơi khách đi đường trọ lại qua đêm. Con đường Kiên Giang Hà Tiên thường bị đấp mô, nên khách có thể lênh đênh trên kênh một ngày dài, cũng có thể đi vội trên xe Honda ôm, cũng có thể dừng lại nơi đây chờ chuyến đi thích hợp. Trên một chiếc ghế xếp, tôi nhìn ra hàng cây dương liễu dưới bóng trăng mờ, tưởng nhớ miên man đến quê nhà La Gi. Khi tôi vừa đốt thuốc, định nhờ đốm lửa xua đi nỗi buồn trong đêm quạnh quẽ, một Honda ôm dừng lại trước mặt. Một phụ nữ vào quán và một thanh niên vội vã lên xe Honda ôm, chạy về phía Kiên Lương. Trong quán, tiếng ly tách chạm, lẫn với giọng nói lè nhè của người say rượu. Theo ánh đèn, hé qua cánh cửa, bà chủ quán gọi người phụ nữ là cô Hậu và chỉ chiếc ghế trống bên cạnh tôi. Cửa khép lại. Một không gian yên tịnh, mờ ảo, dưới sao khuya.

                      Trong bóng đêm, chị Hậu nằm hút thuốc liên tục như thao thức với một tâm sự riêng. Tôi cũng lặng thầm thao thức nhớ nhà, qua hương tóc bay của chị. Bổng nhiên chị đưa tôi gói thuốc Caraven A như mời tôi hút, tôi đưa cho chị gói Pall Mall. Chị rút một điếu, bật lửa đốt và đặt vào môi tôi điếu thuốc chị đang hút. Tôi rít một hơi dài, thầm hưởng mùi thơm rất dịu. Tàn điếu Pall Mall, kề sát vào tai, chị hỏi nhỏ tên tôi. Tôi trả lời nhưng chị đưa một ngón tay lên môi, nhìn tôi rất buồn. Một khoảng lặng không tên giữa chị và tôi.               .       

                 Sáng hôm sau, xuống đò qua phố, chị đưa tôi đến cuối đường Tô Châu, giới thiệu tôi với một người quen, để tôi ở trọ. Chị từ giã sang Nam Vang, còn lại trong tôi sự vỗ về dịu êm cùng đôi điều suy nghĩ, dù chị và tôi chỉ bên nhau một đoạn đường ngắn.

Hà Tiên, 1/1970
Đoàn Thuận 

TÙY BÚT,  

Sau năm 1954, tôi từ rừng núi ra tỉnh thành đi học. Người trẻ tuổi giàu sang coi tôi như “thằng mọi nhà quê”, “thằng thẹo cù lần”. Lúc đầu, tôi thấy khó chịu và chẳng dám nhìn ai hay trò chuyện với ai, trừ phi họ buộc tôi đối diện. Tôi sống khép kín lặng thầm, ngại tiếp xúc. Dần dà, tôi nhận ra ai cũng có một số phận và tôi tự nhủ hãy bình thường với phận mình, dù đời khổn khó đến đâu.                         .
                         
         * Cuộc đời luôn biến chuyển thăng trầm theo qui luật của nó. Những gì nghe thấy trên đường đời làm con người suy nghĩ. Nhưng đầu óc nhỏ nhoi sao chứa nổi mọi điều, nên đành phải ghi lại bằng con chữ, trên giấy trắng mực đen, theo một cách riêng. Có lẽ con chữ đầu tiên trên trang Tùy Bút của tôi là con chữ ghi lại lời người trẻ tuổi ở Bà Rịa cười nhạo tôi:  .                                               .                         
Lô chê ta cù lần.                                                 
Hoài gọi ta thằng mọi.                                                

Ta nghĩ ngợi bâng khuâng.                            .                                                                                                              

         Tùy Bút là “gặp cái gì ghi cái ấy”,“nghĩ sao ghi vậy”. Cuộc sống trước mắt, hiển hiện một sự thật, nhưng mỗi người nhìn sự vật theo vị trí hoàn cảnh khác nhau, nghĩ ngợi khác nhau, ghi lại cũng khác nhau. Một điều trong Tùy Bút có thể mang lại niềm vui cho người này, nỗi đau cho người khác. Người đồng thuận động viên, người phản đối trách móc chữi bới, biết đâu mà lần. Tôi đành nói chuyện với tôi, qua con chữ lặng thầm. “Bút” không thể “tùy” theo người khác, mà phải ghi đúng sự tình.                *Năm lên lớp đệ thất, tôi ở chung nhà trọ với anh NP Vân học đệ tứ. Cuối năm học, anh bảo tôi viết cho anh vài chữ vào tập Lưu Bút Ngày Xanh của anh. Tôi đọc thấy nhiều bài rất hay và tự biết mình không thể viết được như thế. Tôi trao tập Lưu Bút lại cho anh. Anh cười bảo: hãy viết chính điều vừa nghĩ. Tôi dùng cọ vẽ viết tháo từ trên xuống, theo kiểu thư pháp:                        .                                                                             

Em
đâu biết   
.                                .
nói gì                                        
.  

mai
anh ra đi.
                                          ..                              

 
         Đó là con chữ đầu tiên tôi viết trên Lưu Bút. Tôi tự nghĩ lưu bút là lưu lại bút tích của tác giả, nên không cần thiết phải viết dài dòng. Vài con chữ có thể lưu giữ ý nghĩ, tình cảm, đặc biệt là nét chữ và cách viết của một người. Ý có thể trùng lập, nhưng nét chữ mỗi người mỗi khác. Ý nghĩ, tình cảm sẽ thay đổi theo thời gian, nhưng nét chữ vẫn còn, dù màu sắc phai.
          Thời cấp sách, dường như ai cũng viết Lưu bút, nhất là những ngày cuối năm học, hoặc khi chia tay đi xa. Đôi trang tản văn, vài khổ thơ trữ tình, chia sẻ niềm vui nỗi buồn cho nhau. “Con chữ”, dòng văn, đôi khi, được thay bằng “nét họa”. Một “chiếc lá rơi” có thể biểu tượng cho “mùa thu” hay “chia ly”. “Hai đường ray tàu” tựu điểm nơi chân trời, như đôi lứa bên nhau thầm hẹn gặp ở ngày mai. Tùy theo quan hệ, con chữ, nét họa hay cánh hoa ép mang ý nghĩa tâm tình.
           Môt trang lưu bút có thể thu gọn trong vài “ký tự”. Năm học lớp đệ ngũ trường Cấp Tiến ở Gia Định, Nga và tôi thường gửi cho nhau nhưng tờ giấy trắng, ở giữa có vài chữ viết tắt như một ký tự. Người khác coi đó là tờ giấy lộn, nhưng với chúng tôi nó mang ý nghĩa riêng. Trước khi rời Gia Định  về Bà Rịa học, tôi nhận một trang ký tự của Nga, trong đó có mấy chữ “nyt”, tôi thầm hiểu “Nga yêu Thuận”, rồi ghép vào tập Lưu Bút. Tôi liền gửi cho Nga chữ “nyt” viết theo kiểu thư pháp, Nga lưu giữ trong nhiều năm. Khi được tin Nga đi tu dòng tu kín, tôi lên Bà Chiểu thăm gia đình. Người nhà đưa cho tôi một khuôn hình, trong đó có trang ký tự với chữ “nyt”do tôi viết. Phía dưới chữ “nyt”, Nga ghi chú: “Nga yên tâm”, nghĩa là “Thuận yêu Nga”, và “ngủ yên thôi” trong ký ức của “Nga y Thuận”.

       * Năm 2012, tôi về Thảo Điền (Ruộng Cỏ), đọc lại vài trang lưu bút, buồn lặng thầm.         

Thảo Điền, 2012

NĂM ĐẦU TIÊN LÊN ĐẠI HỌC.

Năm đầu tiên lên đại học, tôi ghi danh học đại học Kiến Trúc Saigon, ở trọ tại xóm Ruộng Cỏ, gần Rạch Chiếc. Không được bao lâu, tôi bị một cơn bạo bệnh, vì thiếu máu, khiến tôi phải nằm điều trị nhiều ngày. Khi xuất viện, kỳ thi đầu năm thứ nhất ở trường Đại học Kiến Trúc đã xong. Tôi vào nộp đơn xin thi bổ sung, với giấy chứng nhận của Nhà Thương thí Ngô Quyền, nhưng trường không chấp thuận. Như vậy có khả năng tôi sẽ bị gọi đi quân dịch vào mùa hè. Ước mơ thành kiến trúc sư trở nên phiêu diêu, dù năm học còn dài và cánh cửa đại học vẫn rộng mở. .

* Nghe chuyện, Chú Hoan bảo sẽ hổ trợ tôi đi Pháp học, theo cách của gia đình giàu có lo cho con cháu ra nước ngoài ăn học. Đối với tôi, đó là dịp may hiếm có, ngoài mơ ước. Nhưng thấy Chú không vui, tôi đành lặng thinh. Thiếm Hoan và Bé Lai rất buồn, không muốn xa tôi. Phần tôi, tôi không thể rời bỏ quê hương, vì ba tôi từ nhà tù Côn Đảo vừa được bảo lãnh về La Gi, trong tình trạng đau yếu. Tôi chấp nhận số phận, dù hẵm hiu đến đâu.

Hôm sau vào trường, tôi nhờ giáo sư Bách tìm cách giúp tôi hoãn dịch. Giáo sư đưa tôi đến trường Đại học Văn Khoa, tọa lạc tại đường Nguyễn Trung Trực, gặp giáo sư Khoa trưởng trình bày mọi việc. Từ đó, tôi chính thức là sinh viên trường đại học Văn Khoa, lớp Dự Bị Việt. Từ ban Toán chuyển sang ban Văn Chương, khiến tôi ít nhiều bỡ ngỡ. Thực ra, tôi học ban Toán chỉ ba năm, từ Đệ Tam B đến Đệ Nhất B; nhưng tiếp cận với văn chương qua nhiều năm, từ lớp Sơ Học ở trường Sao Cháy đến lớp Đệ Tứ ở trường Cấp Tiến. Vào Văn Khoa, tôi như gặp lại môt thời hoa mộng hồn nhiên của tuổi trẻ. Tôi tập trung học tập, nghiên cứu và tôi đã qua được kỳ một của năm Dự Bị. Tôi tự hứa sẽ lấy Cử nhân Văn chương tại đây, dù có thành kiến trúc sư hay không.        Vừa học Văn Khoa vừa học Kiến Trúc nên rất tốn kém. Giáo sư Bách giới thiệu tôi “kèm tư gia”, tại biệt thự của ngài phó giám đốc hảng thuốc Mic, ở Phú Lâm. Tôi chuyển chổ trọ từ xóm Ruộng Cỏ ở đầu cầu Saigon, xuống đường Phú Định ở cuối thành phố, rất xa. Tại xóm Ruộng Cỏ thơ mộng, tôi ẩn dật một mình trên căn gác gỗ, tự vui tự buồn, ngại tiếp xúc với người lạ, trừ U Già người cho tôi ăn cơm tháng, trừ Bé Lai, thiếu nữ tôi đã từng dạy tiếng Pháp ở khu biệt thự vườn Palace. Trái lại, nơi đường Phú Định ồn ào, tôi kèm toán lý hóa cho hai cô gái Huế trong một phòng học sang trọng, sau tòa biệt thự nguy nga, bên những khuôn mặt quí phái lạnh lùng. Ngoài việc cho ăn ở, tôi được trả một món thù lao lớn, nhưng đó không phải là thứ tôi cần. Chưa đầy tháng, lấy cớ đường xa, tôi xin phép chuyển đi nơi khác.

Đến gác trọ nhà Bà Tám, nơi hẽm phố Nancy, tôi ở chung với Nhiệm, Sơn, Khổ, ba bạn thân một thời ở trường Châu Văn Tiếp. Cùng học ban Toán, nhưng Nhiệm Sơn Khổ học đại học Khoa Học, còn tôi học Văn Khoa, lại đi dạy toán lý hóa cho “lớp tư gia” ở Cư xá Hỏa Xa Saigon 2. Trước đó, tôi đã bỏ Kiến Trúc, tập trung học Văn Chương và cuối năm tôi đổ Chứng chỉ Dự Bị Việt. Đời thật ngộ. Trong năm đầu lên đại học, tôi phải chuyển nhiều nơi trọ, từ đầu thành phố xuống cuối thành phố, rồi quay về trung tâm. Chuyển từ đại học Kiến Trúc sang đại học Văn Khoa, từ mơ thành “kiến trúc sư”, sang làm một “gia sư”.                .                         .

* Nhờ thế, tôi được hoãn dịch và tiếp tục học đại học Văn Khoa. Khi mùa Hạ sang, tôi về thăm xóm Ruộng Cỏ (Thảo Điền), có ghi lại đôi lời:

BẠN THỜI  NIÊN THIẾU.                                               . 

       Thời niên thiếu, Đoàn và tôi theo gia đình tản cư vào rừng Sao Cháy, thuộc thôn Hòa Minh, xã Cộng Hòa. Gia đình hai bên rất thân, nên ông ngoại của Đoàn đã làm lễ kết nghĩa anh em cho hai chúng tôi. Tôi là anh vì lớn hơn Đoàn hai tuổi, nhưng vẫn coi nhau là bạn và gọi tên theo thói quen      .

       * Đoàn ở đầu xóm, tôi ở cuối xóm nhưng lại thường gặp nhau trong những mùa rẫy. Một ngày làm bên rẫy nhà ngoại Đoàn, một ngày làm bên rẫy nhà ba tôi, theo kiểu dần công. Đầu mùa dọn rẫy. Giữa mùa làm cỏ. Cuối mùa cắt lúa, đạp lúa. Hàng tuần, cùng đi hái củi ven rừng. Đoàn lượm củi, tôi tề củi, rồi mỗi đứa tự cõng củi về nhà. Đi hái củi cũng là lúc đi hái trái rừng. Mùa nào thức ấy, nào nổ nào sim, nào mây nào gùi.            .                                           

        Nhà trong rừng, thường núp dưới táng cây, có khi bên bờ suối, có khi trên ngọn đồi. Nhà ba tôi ở giữa bốn cây sao cổ thụ, tòn teng mấy đóa phong lan. Nhà ngoại Đoàn dưới bóng cây tràm lớn, gần bưng nhum. Dựa vào thân tràm là một gác cây, nơi Đoàn coi rẫy, giựt bồ cạp đuổi thú rừng. Nhiều đêm tôi ở lại đây, đốt đèn chai học bài. Khuya âm âm tiếng cọp gầm. Sáng líu lo lời chim ca. Âm thanh tiếng hót theo nhip gõ mõ kiến, như một dàn nhạc rừng, giục giã chúng tôi đến trường. Trường Sao Cháy dựng trên một gò đất rộng, giữa nương rẫy, chung quanh nhiều hoa dại. Ngoài việc học toán học văn, thầy Hai Thắng kể cho lớp nghe nhiều điều về quê hương, về tổ tiên Lạc Hồng. Chúng tôi ghi nhớ những lời Thầy dạy, dù đầu óc còn nhiều ngây ngô.       .             

          Chúng tôi sống ở đây nhiều năm, giữa không gian thơ mộng, trong tình yêu thương đùm bọc của ông bà ba má, của xóm làng. Thế rồi, Đình Chiến 54 phân ly chúng tôi, mỗi người mỗi nơi.  Đoàn theo ông ngoại về Bình Phước thăm quê. Tôi ngược về Tân Lý tìm Mẹ. Chúng tôi bặt tin nhiều năm.      .

* Khi lên Gia Định học đệ ngũ, tôi đến Bình Phước tìm Đoàn, mới biết mẹ của Đoàn qua đời và Đoàn theo ông ngoại về Gò Vắp. Gặp lại nhau tại Bến Cát, chúng tôi chẳng biết nói gì, vì đời quá nhiều đổi thay. Đoàn giúp ngoại nuôi heo trồng rau cải và học đệ ngũ ở trường gần nhà. Nhà ngoại nằm trong một khu vườn nhỏ, những luống cải chạy dọc theo hong nhà, một cây Vắp hoa trắng đổ bóng xuống sân gạch. Ngoại rất mừng vì chúng tôi sum hợp sau bao ngày xa cách, hơn nữa, khai sanh mới của tôi cùng họ Trần Văn với Đoàn. Nhưng ngoại lại buồn khi hỏi về chuyện tình cảm giữa Đoàn và Út Sen. Út Sen là con của một gia đình giàu có quyền thế ở Tân Sơn Nhất, rất xinh đẹp quí phái. Tôi không rõ chuyện gì làm ngoại buồn. Ngược lại, Út Sen và Đoàn rất hạnh phúc, dù thầm lặng. Tôi gọi đùa Út Sen là em dâu, cả ba đứa cùng cười. Nhiều lúc dự lễ Misa, tôi cầu nguyện cho hai em tôi mãi mãi bên nhau.

           Đường đời luôn gập ghềnh nhưng đôi lúc cũng êm đềm. Hình ảnh Út Sen và Đoàn đề lại trong tôi nhiều ước mơ, dù không rõ số phận mọi người sẽ ra sao. Cuối năm học, Đoàn và tôi đổ Trung học Đệ Nhất Cấp, tôi từ giả ngoại và hai em về Bà Rịa học đệ tam. Lúc đầu, còn liên lạc qua thư từ, về sau thưa dần rồi im bặt.

           * Khi lên Saigon học đại học, tôi về Bến Cát. Nhà ngoại đã đổi chủ, ngoại qua đời, Đoàn đi lính, nhà Út Sen chuyển đi nơi khác.Tôi chỉ còn biết hỏi thăm tin tức mọi người. Thế rồi, sau Tết Mậu Thân, tôi nhận được đôi dòng tin nhắn, cho biết Trần Văn Đoàn đã qua đời trong một trận đánh ở Buôn Mê Thuộc. Tôi vội ghi lại đôi lời.

Sài gòn,1968
Trần văn Thuận

Đoàn Thuận

THOÁNG MƠ.                                       .

         Ngày đầu lên tỉnh, trước mắt tôi là những ngôi nhà ngói, nhà vườn, dinh thự, nhà lầu, nhà thờ, rất đẹp. Tôi ước gì tự mình vẽ ra một ngôi nhà theo ý mình. Tại một biệt thự, nơi tôi dạy kèm Pháp văn, Bác Hân cho biết để thiết kế được nhà cửa phải học kiến trúc, muốn thế, phải giỏi toán và hội họa. Vì vậy, từ thời trung học, kiến trúc sư là hình ảnh đậm nét trong ước mơ của tôi. Căn cứ vào lời Bác Hân, tôi đủ điều kiện vào đại học Kiến Trúc, vì tôi đã học hội họa với Cô Linh ở trường Sỹ Tãi, học ba năm Ban Toán ở trường Châu văn Tiếp, nên khi đậu Tú Tài Toàn Phần, tôi lên Sài Gòn ghi danh học Đại học Kiến Trúc. Bước vào sân thềm đại học như bước vào vườn hoa đầy hương thơm trong giấc mơ.                            .                                                                                 

        * Sau ba năm, Gia Định cũ thay đổi rất nhiều. Nếu ở nội thành chi phí rất cao, nên tôi chuyển ra xóm Ruộng Cỏ, khoảng giữa cầu Sài Gòn và cầu Rạch Chiếc, chạy dài giữa xa lộ Biên Hòa và sông Sài Gòn. Tôi ở trọ trên một gác gỗ trong vườn rau, cạnh gian nhà ngói cũ tường gạch rêu phong. Gần Rạch Chiếc là những mảnh ruộng “cỏ” biếc mượt, bên những đám ruộng lúa nước. Bờ ruộng như lối mòn dẫn đến vài ngôi nhà nhỏ dưới táng hoa xoan. Từ đầu cầu Sài Gòn, một đường cây xanh vòng theo bờ sông, qua những ngôi biệt thự kiến trúc kiểu Pháp. Tôi không quen ai, trừ Vú Già, người cho tôi ăn cơm tháng. Giữa không gian yên tịnh thơ mộng, tôi như một kẻ ẩn dật, chi biết vui cùng sách vở cỏ hoa.                                         .                                               

          Từ Ruộng Cỏ, có thể đi Thủ Đức Biên Hòa, đi Cát Lái An Lợi Đông, đi Thị Nghè Bà Chiểu. Sáu buổi hàng tuần, tôi đi học trên chiếc Vélo Solex cũ, vòng qua Đa Kao. Vào trường, tôi thường ngồi khuất cuối giảng đường, vì ngại tiếp xúc, và để tiện xem những tranh tượng, sách báo về kiến trúc. Phần lớn sách loại này được viết bằng tiếng Pháp hay tiếng Anh. Dovica, một sinh viên Nhật gốc Việt, thấy tôi đọc sách tiếng Pháp, nên hỏi tôi đôi điều. Nhờ vậy, qua Dovica tôi biết chút ít về thơ Haiku và tôi đã dùng thể “thơ mười bảy âm tiết” này để ghi gọn những ý chính những bài giảng. Một chân trời rộng mở nơi tâm trí tôi. Giáo sư Ngô Viết Thụ là thần tượng của tôi và Đại học Kiến Trúc như một kho tư liệu nghiên cứu quí báu..                                                            

            Thường ngày tại gác trọ, ngoài việc “học bài, làm bài”, tôi chú tâm tìm hiểu về nghành kiến trúc qua sách báo và ghi chép ngắn gọn theo thể thức Haiku. “Mùa” là một ý không thể thiếu trong thể Haiku, tôi lại thay “mùa” bằng “đồi cây”,”ruộng vườn” khi phác họa một gian nhà ngói nhỏ ở làng quê, vì ngây ngô nghĩ rằng cỏ cây hoa màu luôn có bóng dáng của mùa trên đất Việt. Tôi thầm mơ thành một kiến trúc sư, thiết kế được ngôi nhà mang hình ảnh riêng của quê hương. Hơn nũa, kiến trúc trong sách tiếng Pháp khác xa với kiến trúc nhà cổ ở Việt Nam. Nghĩ vậy, tôi ra ngoài dạo chơi, ngắm nhìn nhà cửa trong vùng, và ghi lại hình ảnh những ngôi nhà tôi yêu thích. Một hôm, khi qua khu biệt thự Palace, gần đầu cầu Saigon, một thiếu nữ gọi tên tôi. Tôi nhận ra Bé Lai từng gặp ở nhà Bác Hân.

             Có những điều tưởng chừng khuất sâu vào quá khứ, còn chăng chỉ là hồi ức, nhưng rồi đôi lúc hiển hiện trước mặt. Ngày gia đình Bác Hân đi Pháp, tôi thầm nghĩ sẽ xa Hân, Tâm và Bé Lai mãi mãi. Hơn ba năm bặt tin, khi về lại Bà Chiểu, tôi qua ngang nhà cũ, mọi người nhìn tôi xa lạ. Giờ Bé Lai và tôi cùng chung một xóm Ruộng Cỏ. Bé Lai ở khu biệt thự Palace, học trường Trung học Marie Curie. Tôi trọ trên gác gỗ, học trường Đại học Kiến Trúc. Chúng tôi thường bên nhau theo con đường nhỏ, dọc bờ sông, lặng thầm, tự ôn lại bao kỷ niệm đẹp một thời. Bé Lai buồn bã nhìn tôi, còn tôi đâu dám nghĩ gì, ngoài ước mơ thành một kiến trúc sư, mơ có một ngôi nhà  ngói nhỏ  tại xóm Ruộng Cỏ, ở gần Bé Lai.                     .                                                          

             Thế rồi, một hôm tỉnh dậy, tôi thấy tôi nằm trong Nhà thương thí Ngô Quyền ở Biên Hòa. Bệnh viện đưa giấy nhập viện vì “bất tỉnh ngoài xa lộ”. Tôi xin xuất viện về đi thi nhưng bác sỹ cho biết tôi bị hạ huyết áp vì thiếu máu, có thể bất thần đột quị. Qua gần nửa tháng, tôi xuất viện về trường, nhiều môn đã thi xong, do đó, có khả năng tôi bị bắt đi quân dịch. Một giáo sư Đại học Văn Khoa Saigon, thấy vậy, giúp tôi đăng ký thi chứng chỉ Dự Bị Việt. Tôi xa dần sân trường Đại học Kiến Trúc. Từ giả xóm Ruộng Cỏ thơ mộng, từ giả Bé Lai thân yêu, về ở trọ đất Phú Lâm xa lạ.Thế là,“kiến trúc sư” chỉ như “một thoáng mơ”.   

             * Có những ước mơ cao xa, tưởng không sao vươn tới, nhưng đời lại đưa đẩy tới gần. Ngày ngồi trên lưng trâu, tôi chỉ mong có bằng Tiểu Học, nhờ nhiều người hổ trợ giúp đở, tôi đổ cả hai bằng Tú Tài. Có những ước mơ hiện ra trước mắt, thế rồi như một thoáng hương bay. Ngày vào đại học Kiến Trúc, tôi có đủ điều kiện để làm một kiến trúc sư, bất ngờ bị hạ huyết áp, thành một gia sư kèm trẻ. Đời như một thoáng bụi lầm.

              Đoàn Thuận

 

KHOẢNG LẶNG.

           Nếu một lúc nào đó tôi chẳng còn nghe một khúc nhạc êm đềm, có lẽ đời tôi sẽ chìm vào một khoảng lặng không tháng ngày.
                        
          * Tôi chẳng rành âm nhạc lắm nhưng khúc nhạc chiều thường đưa hồn tôi vào cõi yên tĩnh mơ hồ. Đôi lần tôi lặng đi, khi điệu sonate nhà bên chao sang căn gác trọ, vào lúc mọi người ra khỏi nhà. Một khung cửa sổ mở ra một khoảng trời xanh. Một cụm mây trắng như không bao giờ trôi. Một thoáng hương của nắng, ở đâu xa, mà ánh sáng chưa khi nào qua được khung cửa, bởi những  mái nhà lô nhô che lắp. Đôi con chim sẻ rời khỏi mái ngói, bỏ lại vài giọt âm thanh. Chim bay đi và trả cho tôi khoảng trời bên kía khung cửa, trong vùng ký ức.

         
          Từ khoảng lặng của buổi chiều yên, tôi nghe được tiếng thì thầm của con chữ, lẫn trang giấy của sách vở ngổn ngang  trên bàn viết và mùi mực của quảng bút đã khô. Trong tập lưu bút, đôi khi, chỉ ghi duy nhất một nét chữ trên trang giấy trắng, tưởng chừng trống vắng vô tư, lại đầy ắp nỗi niềm. Nét chữ trên giấy có thể bị nhòa bỡi nước mắt hay giọt mưa, nhưng trên trang ký ức vẫn còn nguyên, dù thời gian phôi pha. Ngày bên nhau, Nga trao tôi một tờ pelure màu hồng, ở giữa có chữ “n”, tôi đọc “Nga nhớ anh”, Nga nhìn tôi rơm rớm nước mắt. Tôi đưa lại tờ giấy ấy cho Nga, Nga đọc “anh nhớ Nga”, tôi nghẹn ngào trong lặng thầm. Trước chữ ”n” đơn lẻ, Nga và tôi chung một tâm tình. Khi tôi bị Lâm đánh trọng thương, Nga ôm cánh tay băng bó của tôi, hai dòng nước mắt rơi buồn, rồi đưa cho tôi  tờ pelure như trên và từ chữ “n” tôi nhận ra giọt “nước mắt nỗi niềm”. Về sau, chúng tôi gửi cho nhau những lá thư tương tự, chữ “n” giữa một tờ giấy trắng. Với người khác, đó là tờ giấy lộn. Với chúng tôi, là khúc nhạc tâm tình, tùy theo nhịp thời gian, ngoài nghĩa “nhớ nhung” còn “nữa” bao “ngập ngừng”.  .

            Vì nhiều lẽ, tôi sống khép kín, ít giao tiếp, không dám quen với những cô gái đẹp, không giám bày tỏ với ai điều gì, trừ phi có người yêu thương chân tình. Một hôm, Bác Nguyệt, cha của Nga, gọi tôi đến biệt thự. Tôi ngại ngần vì nghĩ rằng ông sẽ cấm tôi quen với Nga. Nhưng khi đến nơi, mọi người tiếp tôi niềm nở, như thể thân quen đã lâu. Dù vậy, tôi vẫn lặng thinh, chỉ nói vài lời khi cần thiết. Lúc sắp về, Bác gọi tôi là Matlys, rồi đưa cho tôi một tờ giấy trắng, trong đó có ghi “Matlys”. Tôi tưởng Bác gọi tôi bằng tên tiếng Pháp. Sau đó, Nga cho biết đó là chữ viết tắt của câu “Một anh thầm lặng y sơn”, nghĩa là “anh lặng thinh như núi”. Từ đó, tôi ký tên bằng ký hiệu này. Nhiều ngưới thắc mắc, riêng Matlys vẫn “thầm lặng y sơn”, vẫn lưu lại trong lòng âm thanh dịu êm của lời thì thầm.                                       .                                                     
 
          Đường đời mênh mông, phố xá đổi thay, người càng ngày càng thêm đông, càng lạ lẫm, biết tìm ai thật lòng thân thiện, tôi đành nói chuyện với chính tôi, qua cỏ hoa, qua con chữ. Trên lối về xóm cũ, trước mặt tình cờ rơi chiếc lá vàng khô, âm thanh vang nhẹ khi  thả xuống mặt đường. Trên mặt lá, con sâu không tên đã chạm nên vòng tròn. Vòng tròn như số không, thông báo “không bạn”, “không em”, “không còn ai quen” nơi phố xưa. Tôi nhặt chiếc lá ép vào giữa hai trang lưu bút như ép vào trang giấy một khoảng lặng, nhưng không ép được âm thanh lá rơi. Thời gian thản nhiên trôi, người say sưa rót chén ly bôi. Tiếng rơi giọt rượu hòa cùng tiếng rơi nước mắt, như rơi giọt buồn.           .           
 

            * Trước bao điều miên man, tôi tự nghe khúc nhạc trái tim, được hòa điệu cùng nhịp tâm tình, không khoảng lặng, dù đời phân ly.             .                     .                                                    
              Đoàn Thuận.                                                         .

NGÀY ĐẦU, TÔI ĐI KÈM TRẺ.                                                  .

         Đầu năm đệ tứ, tôi nhận “kèm trẻ” môn Pháp văn tại nhà riêng Bác Hân, gần trường Hồ Ngọc Cẩn. Hôm đến nhận việc, Bác Hân hỏi thăm ba má tôi, nhưng tôi không dám nói vì ba tôi đang ngồi tù, tôi chỉ cho Bác biết đây là lần đầu tiên đi dạy kèm, nên rất lung túng. Ngay khi đó, Bác chỉ bảo tôi nhiều điều và đưa tôi một gói tiền thù lao cho cả năm. Tôi về giao cho chị tôi cất giữ, mở ra mới biết một món tiền khá lớn, có thể chi dùng cho việc ăn học trong nhiều năm. Chị cũng cho biết Bác muốn tôi ăn ở trong nhà vì có một nhà xe đang bỏ trống, nhưng chị đã từ chối.                                              .

            * Hàng tuần, năm buổi chiều, tôi đến kèm Pháp văn cho Hân và Tâm, đang học đệ thất. Tôi phải dạy viết và nói những câu tiếng Pháp thông thường để giao thiệp hàng ngày. Không biết phải dạy như thế nào, nên trước khi đi kèm, tôi soạn bài cẩn thận. Ngoài ra Bé Lai cũng nhờ tôi hướng dẫn học chương trình lớp nhất, để thi tiểu học. Bé Lai là trẻ mồ côi được Bác Hân nhận làm con nuôi, giúp việc nhà. Dần dà tôi như một thành viên trong gia đình. Bác Hân, đối với tôi, như một ân nhân đã tạo điều kiện và khuyến khích tôi học đến nơi đến chốn.                                 .                                                            

             Do đó, tôi ở lại nhà chị tôi để học cho xong chương trình trung học đệ nhất cấp, dù nhiều điều ngoài ý muốn vẫn xẩy ra, khiến tôi muốn rời khỏi xóm Núi Đức Mẹ. Một chiều, trên đường về nhà, tôi chứng kiến cảnh bốn người lam lũ đập một chàng trai dáng vẻ sang trọng. Tôi vào can thiệp bằng một thế võ thiếu lâm. Bốn chàng trai bỏ chạy, người bị đánh nằm im, mặt đầy máu. Tôi định vào giúp đỡ nhưng một cụ già hét lớn “để đó”, tôi liền lách qua chợ, lén về nhà. Mọi người bàn tán xôn xao. Ông Lùn nói vào tai tôi “thằng Lâm bị đánh sặc máu ngoài chợ”. Lâm là người cấm tôi đi ngang nhà Nga, đã đánh tôi. May mà không ai biết tôi vừa cứu Lâm. Tôi lại nhớ hai dòng lệ rơi trên khuôn mặt thánh thiện, khi Nga nhìn vết thương trên cánh tay tôi.  Thực ra, Nga và tôi chỉ bên nhau một đoạn đường ngắn, từ cổng sau biệt thự nhà Nga đến sân nhà trẻ, mọi thứ còn lặng thầm trong trái tim.                      .

              Sự bất an như còn quanh quẩn đâu đó. Bác Hân biết chuyện và khuyên tôi hãy yên tâm vì đời có nhân có quả. Hân và Tâm thấy tôi lo lắng cũng rất buồn vì sợ tôi bỏ đi. Bé Lai cho tôi biết Nga đã hỏi thăm và Bé mĩm cười như an ủi tôi. Tôi lại nhớ nhà sư đã dạy tôi mấy thế võ thiếu lâm, dặn “không được đánh người”, nay tôi lại dùng võ thiếu lâm ấy để đánh người lam lũ, cứu người đã từng đánh người, dù tôi chỉ dùng thế “phong phi” để bạt mọi người ra, không gây thương tích. Tôi lại nhớ Soeur Bề Trên ở Tu viện Saint Paul đã giúp tôi một năm học Pháp văn, và chính Soeur đã cho Bác Hân biết về hoàn cảnh của tôi. Tôi, như một du tử, xa Mẹ từ khi một tháng tuổi, theo Ba Má nuôi lưu lạc đó đây, nhưng luôn có người bão trợ giúp đỡ, vượt qua nhiều gian khó. Tôi thầm tạ ơn và lấy đó làm niềm an ủi, khi còn tồn tại trên cõi đời.                      .                  .                                                                          
 
                 Lần đầu tiên đi “kèm trẻ” lại kèm môn Pháp văn, tôi lúng túng không biết phải làm gì, vì khi lên đệ thất tôi học Anh văn, chỉ học thêm Pháp văn qua sách báo. Thấy thế, Bác Hân đã “kèm” tôi từng việc từng bước, để làm quen với không gian mới. Tại đây, tôi như người anh trong nhà hướng dẫn em mình học tập, không là người “đi kèm” hay “đi dạy”. Hân, Tâm, Bé Lai hồn nhiên hỏi tôi nhiều điều ngoài môn học chính và tôi giải đáp thật lòng cả những điều ngây ngô buồn cười. Học viết, chúng tôi ở trong phòng, có bảng đen. Học nói, chúng tôi ngồi ngoài hiên, đối diện với cỏ hoa. Thường nhật gặp nhau, chúng tôi nói chuyện bằng tiếng Pháp. Hân chăm chỉ học, có khi quên vị trí của người em, gọi tôi là “thầy” rồi che miệng nhìn mọi người. Còn Tâm có cách ghi chép riêng khi viết hay đọc chữ.   Chẳng hạn, khi viết chữ  “la mère”,Tâm vừa viết vừa đọc thầm “la mè re”. Tôi tự thấy Tâm đã “kèm” tôi cách ghi chép khi học tiếng nước ngoài. Bé Lai ít nói, hơi buồn, tự học nhiều hơn học ở lớp, chỉ học với tôi ngoài giờ học của Hân và Tâm. Em mong đậu bằng tiểu học, còn Hân và Tâm chuẩn bị đi Pháp.                                                                 .

                 * Cuối năm học, Bé Lai đậu Bằng Tiểu Học, tôi đậu Trung Học Đệ Nhất Cấp và trúng tuyển vào trường Trung học Công lập Châu Văn Tiếp ở Bà Rịa. Bác Hân làm thủ tục đi Pháp, tôi chuẩn bị về Bà Rịa học Đệ Tam. Trước ngày đi, tôi đến cám ơn Bác Hân và từ giả mọi người trong gia đình. Hân ngồi buồn thiu. Tâm đi tới đi lui. Bé Lai đề nghị bốn anh em dự lễ Misa, cầu nguyện trước khi xa nhau. Sáng hôm sau, cuối lễ, có người đưa tôi lên lầu chuông. Nga và tôi bên nhau, không nói lời nào, nhưng trong lòng tôi như thấm ướt những giọt lệ buồn.

                    Thảo Điền, 2019.                                                              .
                    Đoàn Thuận.                                                            .

 

LẶNG THẦM.                                        .

            Khi lên Gia Định học đệ ngũ đệ tứ, tôi ở nhờ nhà chị họ trong xóm Núi Đức Mẹ, bên cạnh nhà thờ Bà Chiểu. Theo thói quen, tôi sống khép kín, không thân quen với ai trừ người nhà, cũng không đi đâu trừ việc đưa cháu Tí đi nhà trẻ. Tôi thường đi qua một hẻm hẹp  giữa hai biệt thự yên tĩnh, tránh những phố xá đông người.  
.     .

 
            * Một hôm, trước mặt tôi và cháu Tí xuất hiện một thiếu nữ dẫn một đứa bé, đi rất chậm như chờ chúng tôi đến gần. Đưa Tí vào nhà trẻ, trên đường về, thiếu nữ ấy cùng tôi nín thinh đi bên nhau. Đến cổng sau một biệt thự, người ấy nói “em là Nga”, tôi cúi đầu với lời đáp lễ “tôi là Thuận”. Từ đó, chúng tôi bên nhau đưa các cháu đến nhà trẻ. Tôi lặng thầm, không dám nhìn Nga, vì biết rằng Nga có khuôn mặt thánh thiện hiền dịu rất đẹp.                                     .

              Ngày tháng hồn nhiên trôi qua nhưng tôi chưa nói với Nga điều gì, trừ phi Nga hỏi. Qua đôi mắt thân thiện đầy triều mến, dường như Nga chờ đợi ở tôi nhiều điều, nhưng nghĩ đến thân phận mình, tôi vẫn lặng thinh. Hơn nữa Nga rất đẹp, dáng người thon thả, phong thái giản dị thánh thiện, thuộc tầng lớp giàu sang quí phái. Người như Nga biết bao chàng trai mơ ước. Đôi lúc tôi tự hỏi vì đâu Nga thân với tôi, phải chăng Nga cần tôi bên cạnh để đưa cháu Lan, như tôi đưa cháu Tí, đi nhà trẻ, nghĩa là chỉ cần bên nhau một quảng ngắn?                 .                                             

             Chưa tìm ra câu trả lời, thình lình, anh chàng ở biệt thự kế bên cấm tôi đi ngang nhà Nga. Tôi hiểu vì sao nhưng vẫn đi, và khi trở về, bị một trận đòn chí tử, tôi chỉ chống đở không đánh trả. Hôm sau, gượng dậy, vòng qua chợ Bà chiểu, tôi đưa cháu Tí đến nhà trẻ, gặp Nga ở đây. Nga nhìn nơi băng bó trên hai cánh tay tôi, rồi che mặt khóc thầm. Tôi lặng lẽ trở về nằm bệnh nhiều ngày. Thấy vậy, chị tôi thuê người giúp việc vì tôi có ý định rời khỏi xóm Núi Đức Mẹ để an tâm đi học, dù biết rằng ra ngoài sẽ tốn kém rất nhiều. Đầu năm đệ tứ, chị tôi giới thiệu chỗ kèm Pháp văn cho một gia đình chuẩn bị đi Pháp. Nhờ đó tôi ở lại Gia Định đi học và đậu bằng Trung học Đệ Nhất cấp.        

            Tiếp theo, tôi quyết định chuyển về Bà Rịa vì tôi trúng tuyển vào trường Trung học công lập Châu văn Tiếp, dù đang học lớp đệ tam tại trường Trung học Lê Quí Đôn. Trước ngày ra đi, chị Nguyệt, chị của Nga, đến thăm và rủ tôi dự lễ Misa để “từ giả xóm Núi Đức Mẹ”. Gần cuối lễ, Bác Từ đưa tôi lên lầu chuông gặp Nga. Chúng tôi lặng yên sát bên nhau, nhưng tôi không dám nhìn Nga, dù thầm biết có hai dòng lệ trên khuôn mặt thánh thiện của Nga.                   .                                    .

             * Ngày lên đại học, tôi ghé thăm chị tôi, tình cờ gặp lại chị Nguyệt, tôi mới biết Nga đã vào tu dòng kín, từ lúc tôi rời khỏi Gia Định. Chị Nguyệt đưa tôi đến Tu Viện. Nga bên trong, tôi bên ngoài, cách nhau một cửa kính, lặng thầm nhìn nhau. Hai dòng lệ ngày nào vẫn rơi trên khuôn mặt thánh thiện, vẫn rơi lặng thầm trong tôi.    .                                             .

                Thảo Điền,2019.                                                                 .
                Đoàn Thuận.                                                                           .

từ quê nghèo,                               .
tôi lên phố đi học.                                                 .
.
Khi Ba tôi bị bắt bị đầy ra Côn Đảo, Má tôi bán nhà ở Láng Găng chuyển ra Bến Lội. Láng Găng là một thôn nhỏ thuộc xã Bình Châu, nằm trên đồi cây khá rộng. Dân bản địa phần lớn sống bằng nghề thợ mộc, khai thác gỗ và làm rẫy. Lẫn giữa những mái nhà là những trại cưa. Ngoài những chiếc xe bò chuyển gỗ ra bến Ghe Bầu, còn có xe đò, xe be đi Xuyên Mộc, Đất Đỏ, Long Điền. Càng ngày càng nhiều người di cư về đây làm rẫy, nên dân làm biển dời ra Bến Lội, cách Láng Găng một trũng cây xanh.                                        .                                                                    .
*  Giữa láng cát rộng thuộc xóm chài Bến Lội, có một ngôi trường nhỏ vách lá mái tôn. Trường chỉ mở từ lớp Năm đến lớp Ba, nên thầy Hiệu trưởng cho tôi `thi lên lớp` và xác định tôi có `học lực lớp Nhất`. Đo đó, trường tìm cách giúp tôi thi lấy `Bằng tiểu học`.                                     .
Thầy Thân gửi tôi lên tu viện Saint Paul. Tôi ở trong Nhà Kho, ăn cơm nơi Nhà Bếp, học bên Nhà Trường Quí Hạnh. Ban đầu tôi `học thử` lớp Nhì với Soeur Ephrème, sau đó cùng một số anh chị `lớp tráng niên` thi lên lớp nhất và tôi học lớp Nhất do Soeur Augustin phụ trách. Trường Quí Hạnh nằm trong khu vực Nhà Thờ Bà Rịa, cách Tu viện Saint Paul một đường cây xanh rất đẹp. Hai dãy lớp học chạy dài sau lưng Nhà Thờ, với mái ngói đỏ, tường gạch vôi trắng, nền đá cao, khác xa với những mái trường tôi đã trãi qua nơi làng quê.  .

.
Cùng lúc, Má tôi làm `thế vì khai sanh` thay đổi tên tuổi cho phù hợp để tôi đi học. Thời ấy, Nhà Nước rất quan tâm đến `giáo dục cộng đồng`, tạo mọi điều kiện cho dân chúng thoát khỏi `nạn thất học`.Trường Tư, lớp Tư, lớp Ghép, lớp Tráng Niên, lớp Đêm… mở ra khắp nơi. Người muốn đi học phải `thi thử` để được `chứng nhận học lực`, mới được ghi danh học lớp nào. Ngày ngồi trên lưng trâu, anh em chúng tôi chỉ mơ ước có Bằng Tiểu Học, để tìm việc làm nhẹ nhàng sinh sống qua ngày. Thầy Thân và Tu viện Saint Paul giúp tôi thực hiển ước mơ này. Tôi nghĩ rất nhiều đến bạn tôi ở lớp `bỏ túi` Láng Đá làng quê Tân Lý và chỉ biết lặng buồn nhớ bạn.      .               .                  .
.
Buổi sáng, khi qua trường học, mấy chàng trai ăn mặc sang trọng cười đùa coi tôi như `thằng mọi quê mùa`, vì lúc đó tôi ốm o, đen đúa, xấu xí, lơ ngơ. Tôi lặng thinh vào lớp, ngồi ở bàn cuối cùng, bên cạnh một anh lớn tuổi cũng ốm nhưng trắng trẻo đẹp trai. Dường như cả lớp nhìn tôi, còn tôi không dám nhìn ai, chỉ biết nhìn hàng cây xanh bên kia đường. Khi Soeur Augustin rung chuông, mọi người đứng lên đọc kinh, tôi thầm mong lời kinh này giành cho buổi học đầu tiên của tôi nơi thành phố. Từ đó, tôi thu mình sống khép kín, ít tiếp xúc với người khác, trừ các Dì Phước trong Viện Saint Paul..
.
Ngoài việc ăn ở,Tu Viện Saint Paul còn tạo điều kiện giúp tôi học tập cho kịp lớp. Tôi ở một góc trong Nhà Kho, nhưng rất tiện nghi. những thứ cần thiết gần như đầy đủ. Thường xuyên có người đến dạy tôi nói tiếng Pháp, nên sau hai tháng, tôi nói và nghe được đôi câu đơn giản. Soeur Bề Trên dặn dò tôi phải tập trung học để thi lấy Bằng Tiểu học. Nhờ thế, tôi Đậu Tiểu Học và tiếp tục đến trường.      .
.

* Tôi ở trọ nhà cô Tám Cang, học Đệ Thất tại trung học tư thục Sỹ Tải, học Đệ Lục tại trường đạo Minh Phụng. Trường Sỹ Tải cách nơi trọ hai khu phố trong khu vườn cây khá rộng. Trường mở từ lớp đệ thất đến đệ tứ, cho mọi lứa tuổi, nổi tiếng về chất lượng giảng dạy, nên học sinh nhiều nơi tụ hội về đây. Trường Minh Phụng nằm bên cạnh Tu viện Saint Paul, mới mở, phần lớn tiếp nhận học sinh trường Quí Hạnh đã đậu tiểu học. Ban đầu, má tôi lo mọi việc. Sau đó, tôi nhận tưới một vườn Na rất rộng, nhưng thù lao đủ trả học phí, tiền trọ và còn dư một ít. Má tôi bớt lo, tôi yên tâm đi học. .
Cuối năm đệ lục, tôi lên Gia Định học đệ ngũ đệ tứ tại trường tư Cấp Tiến. Trường mở cho nhiều độ tuổi, có cả “lớp đêm” cho người bận việc ban ngày. Tôi ở nhờ nhà một người chị họ sau núi Đức Mẹ, nhà thờ Bà Chiểu, nên việc ăn ở rất ổn định. Tiền tôi dành dụm, từ việc tưới vườn na ở Bà Rịa, có thể trả năm tháng học phí. Hai tháng sau, chị tôi giới thiệu đi kèm Pháp văn cho một gia đình chuẩn bị năm sau đi Paris, đoàn tụ gia đình. Thù lao rất cao giúp tôi tiết kiệm một khoản tiền khá lớn, nhờ vậy, khi đậu bằng Trung Học Đệ Nhất Cấp, tôi thi vào trường Trung học công lâp Châu Văn Tiếp, ở Bà Rịa, học đệ tam, đệ nhị, đệ nhật, rồi có Tú Tài toàn phần. Con đường vào đại học trải rộng trước mắt tôi

.
* Ngoài việc học chữ, tôi còn học được nhiều điều ở mọi người chung quanh. Ở trường Sỹ Tãi, Thầy cử thường khuyên bảo chúng tôi “học để làm người, để sống cho phài lẽ ở đời”. Một hôm, trên đường đến vườn Na, tôi bị một người lạ đánh bất tỉnh và được một nhà sư cổng về chùa. Khi tỉnh lại nhà sư dạy tôi mấy thế võ thiếu lâm và dặn đi dặn lại “không được đánh người, chỉ để tự vệ”. Thấy tôi lặng thinh trước sự  chế nhạo, Cụ Hà, ở gần nhà Cô Tám, đưa một ngón tay lên trời, còn Thầy Hiếu, hiệu trưởng trường Châu văn Tiếp, lại nói “hãy ẩn nhẫn”. Tôi không hiểu gì cả, lúc còn ngây ngô, nhưng về sau tôi nhận ra chính điều ấy phù trợ tôi tồn tại, dù gặp nhiều khó khăn.                         .
.
Thảo Điền, 2019.                                                                 .
Đoàn Thuận.                                                                   .

từ bưng Tràm
đến trường Sao Cháy.

             Năm lên sáu tuổi, một buổi sáng thức dậy, tôi ngỡ ngàng thấy mình đang ở trên ngọn cây, chung quanh yên tĩnh, chỉ nghe xa tiếng chim rừng và ngửi thấy mùi hương kỳ lạ. Anh Lành cho biết khuya đêm trước chúng tôi tản cư đến đây và đang ở trên một nhà chòi giữa bưng Tràm.                     .                                   .

Chòi này của bác Tu, một thổ dân, bạn của ba tôi. Chòi được gác trên tám nhánh cây cổ thụ. Cột chòi là những thân cây tràm lớn hơn một vòng tay ôm. Sàn và vách làm bằng vạc cây nhum khá chắc. Mái lợp võ tràm dày khum khum như vòm cung. Phía sau, một chái bếp nghiêng sát  mặt sàn; nơi để nhiều chum vại, treo đầy bắp giống và lá thuốc. Phía trước, một chiếc thang dây dẫn đến mảnh đất bên những gốc tràm, ở đó neo hai độc mộc nhỏ. Chòi ở giữa bưng sâu, xa bờ, nên độc mộc là phương tiện để đến nhiều nơi khác. Nhánh tràm phủ xanh cả vòm trời. Lá non thả xuống như liễu rũ, phơn phớt hồng  trước nắng mai. Hoa tràm thoảng nhẹ mùi hương trong lành ngọt ngào như để thu hút lũ ong rừng. Rễ tràm dệt những thảm rêu xanh với vài khóm hoa dại bên đám cỏ bàng ở mé nước. Khi nhàn rỗi, ba tôi cùng bác Tu thường đến đó ngồi câu cá uống rượu ngắm trăng, giống như hai ẩn sỹ.                                              .
.
Cuộc sống ở đây bình dị êm ả. Buổi sáng, khi con chim Sớm hót, cả nhà bác Tu bơi độc mộc qua cánh rừng phía tây, về phía nương rẫy. Buổi chiều, khi mặt trời chạm ngọn cây Sộp, bác Tu trở về neo độc mộc vào bụi hoa mua, sát chân cầu thang. Lần nào, bác cũng gùi về một ít vật kiếm được trong ngày như củ khoai, trái rừng, con thịt. Buổi tối, cả nhà quay quần bên vại lửa trò chuyện, đôi khi Bác tu “nói lối“ đôi câu tiếng Thổ, nghe rất lạ nhưng rất êm tai. Có lẽ, tôi làm quen với tiếng Thổ ở dây.              .                       .

Lương thực gần như không bao giờ thiếu, ngay cả khi hạn hán, lũ xuống, mất mùa. Lúa ăn giáp hạt. Gạo giả chày tay dùng hàng ngày, dư ra chút ít cho vào chum để dành. Thế mà nhà bác Tu có đến bốn chum gạo dư, bên cạnh các chum đựng nếp, đậu mè và muối hạt. Cá đồng lớn nhỏ đủ loai ở lòng bưng, chỉ cần rê một miếng mồi, cắm vài cần câu, đặt một cái lờ, cá ăn không hết.Thịt chim muông cũng có sẵn trong rừng.

Thịt cá ăn không kịp phơi khô treo giàn bếp, phòng khi giông bảo lũ rừng không thể giương cung đặt bẫy đặt lờ. Rau cải hành ớt trồng ngay hốc cây dưới chòi. Quanh năm, cần thứ gì có thức ấy, không cần mua bán nhưng đôi khi có sự trau đổi thức dư thừa để lấy vật thiếu như thuốc men quần áo chăn mùng mắm muối.                    .
.
Nơi bưng Tràm, ngày mát đêm lạnh suốt hai mùa mưa nắng. Nắng xuyên qua cành lá trên ngon cây cao, hiếm khi chói chan nóng bức. Một vại lửa đặt giữa chòi sưởi ấm bao đêm lạnh. Vài khúc củi tràm chắc đượm than tí tách ánh lửa, khói tỏa hương trầm dỗ ngon giấc ngủ. Bầu không khí thanh khiết, dân cư sống yên lành no đủ nên chẳng thấy ai ốm đau. Sốt rét ngã nước là mối lo lớn nhất. Đề chóng bệnh chói nước, bà con nhắc nhau uống chín ăn chín, đêm ngủ giăng mùng, đốt lửa xông lá đuổi muỗi. Riêng bác Tu luôn trữ sẵn ít kí-nin, vài hủ rượu thuốc. Bác đã luống tuổi, râu tóc bạc trắng nhưng da dẻ hồng hào, giọng nói sang sảng, phong thái điềm tĩnh ung dung.                          .
Chừng đâu một tháng, chúng tôi dời về Xóm Rẫy. Buổi sáng ra đi, chị Liêu kéo độc mộc đưa chúng tôi đến bìa rừng.Từ đầu lối mòn, nhìn lại bưng Tràm, tôi mới thấy chòi bác Tu tựa như ngôi nhà sàn của người miền núi. Nhà sàn dựng trên đất. Nhà chòi của bác treo lửng ngọn cây giữa khung cảnh tĩnh mịch nhưng đẹp lạ thường.     .
.
Một chuyến xe trâu, một ngày đàng, chúng tôi xuôi theo hướng Nam về thôn Hòa Minh đến Xóm Rẫy, xóm tản cư của ngư dân Hồ Tôm, chạy Tây đến đây đi biển, khai hoang làm vườn. Bên Suối Cát, dưới chân Động Nhọn, lớp Vỡ Lòng ru vang tiếng ê a. Thầy Biện, cô Loan mở thêm lớp, hình thành Trường Xóm Rẫy. Tôi làm quen với con chữ, ráp vần, đặt câu tại đây. Những con chữ thơm lựng hoa rừng, câu văn ngây ngô như đọng lại tiếng chim chiều.               .
.
Một hôm máy bay dội bom nát thôn Hòa Minh. Cửa nhà Xóm Rẫy thành tro than. Má tôi tản cư ngược lên rừng Sao Cháy và dựng một ngôi nhà vách nhum mái lá trên đồi cây cổ thụ. Nhà nhìn ra rẫy lúa, mương rau dại. Tôi theo anh chị đi học tại trường Sao Cháy, cách nhà một láng cỏ lương. Ngoài viêc dạy tại lớp, Thầy Hai Thắng còn cho chúng tôi biết nhiều điều về quê hương đất nước, mỗi khi họp mặt.  Bác Sáu Ngọc đọc vài câu của Truyện Kiều hay Lục Vân Tiên, trong lúc nghỉ ngơi giữa buổi dọn rẫy làm mùa.  Dì Hai Tuất, thiếm Út Ruộng, vừa chằm lá vừa ngâm nga vài câu hò của ruộng đồng miền Cữu Long, nghe dịu êm một thoáng buồn xa quê. Trường Sao Cháy giúp chúng tôi biết `Cộng` thêm tình yêu thương,  `Trừ` dần sự đau khổ vì chiến tranh, `Nhân` lên kiến thức về cuộc đời, `Chia` niềm vui nỗi buồn cho nhau, vì tương lai của quê hương.


Thế rồi, Đình Chiến 54 chia đôi đất nước, Ba Má tôi về Cái Bè thăm quê, tôi về Tân Lý thăm Mẹ. Con đường học vấn của tôi trở nên gập ghềnh.                                                .
.
Thảo Điền, 2O14.                            .
Đoàn Thuận.                                  .

TIẾNG SÓNG.

       Năm tháng trôi đi, có những điều tưởng chừng mất hút theo thời gian  chìm vào quên lãng. Thật ra, tất cả như vẫn còn lẫn quất trong cõi người. Hương hoa tưởng như mất đi khi sắc hoa tàn úa, nhưng hương mùa vẫn đọng mãi trong thời gian vô cùng, trong không gian tĩnh lặng.

           .
           Một ngày ở quê nhà, tôi nghe tiếng sóng từ bờ xa dịu êm như  khúc nhạc chiều .Tiếng sóng xa khơi trôi mãi lại gần vỗ nhẹ nơi bờ nước tan loãng vào không gian tĩnh mịch. Phút tịnh yên như khoảng lặng Schubert  theo gió chuyển dần vào sâu thẳm. Cứ như thế hết đợt này sang đợt khác rì rào xa xôi. Ngày nào xa quê, tôi không sao ngủ được vì con sóng ngoài khơi ấy. Nay về dưới mái xưa, tôi lại thức với những đêm dài .

           .
           Mẹ đã về bên kia núi, khuất nơi chân trời. Đêm nay tôi ngỡ như gặp lại mẹ già giữa mùa bấc thổi.  Mẹ ngồi gù lưng đào từng con chan chép, tóc trắng bay xòa trong gió. Biển chiều thẳm một màu tím Bóng mẹ mờ dần vào đêm và tôi chờ vầng trăng lên. Những cây rau sâm biển, gốc trắng nõn lá xanh bông vàng dịu, thơm mùi cát mặn.Tô canh bồ ngót, với chần chần giả nhỏ, ngọt ngào suốt một tuổi thơ.

           .
         Tiếng sóng rì rào xa xôi làm nhớ tiếng tiêu buồn của Phan. Phan bây giờ ở đâu? Thúy bây giờ về  đâu?  Đâu rồi một căn gác gỗ, những bậc cầu thang, thềm rêu mái cũ. Đâu  bóng người lầm lủi trên đường mưa chiều nơi một ga nhỏ? Có thể giờ này mỗi người một phương nhưng mối tình của thời cắp sách ấy còn  ai nhớ ai quên? Tiếng sóng vỗ từ  bờ dương liễu xa hay tiếng tiêu buồn lắng trong chiều vàng mùa cũ?

 

                          Tôi như gặp lại mình rong chơi trên đồi cỏ cú, giữa khu rừng vắng, khờ khạo tìm đóa hoa lạ cài lên mái tóc em, người em gái còn ngủ say trong rừng mơ. Bao chiều thả trâu qua đồng sau mùa gặt, ngậm một gốc cỏ cú nghe hương nồng trong mũi mà hồn như trôi theo áng mây cuối trời. Những con trâu ngày nào thả láng thả bưng đã già nua đã thành tro bụi nhưng hình ảnh bạn xưa vẫn như còn đùa nghịch trong trí nhớ. Những trận bóng quyết liệt tại một thửa ruộng vừa gặt xong còn nồng mùi rạ ướt. Những buổi đá bò, u mọi, đánh trổng thả diều, những buổi lang thang trong rừng hái nổ hái sim…..Hắt hiu một trưa hè. Vi vu một bờ dương liễu. Dìu dặt một đêm mưa     .
           .
           Con sóng xa lắt từ ngàn đời vỗ mãi vào bờ tâm hồn, rì rào xa xôi.                                        .

Đâu rồi một thuở mộng mơ
Hái hoa bắt bướm mấy bờ lau thưa.
Bầy trâu thả láng bao mùa
Đã thành tích cổ ăn mưa cuối trời
Tiếng chim rừng vắng chơi vơi
Ru hoa sim tím buồn rơi trong chiều.                                .

Bóng hình xưa đã tịch liêu
Trong tôi lặng lẽ bao điều miên man.

 Đoàn Thuận.                              .

TRÊN LƯNG TRÂU.

Sau ngày đình chiến 54, tôi về làng Tân Lý tìm thăm Mẹ tôi  hơn mười năm xa cách. Chiến tranh vừa đi qua, xóm mạc nhiều nơi còn hoang tàn, cửa nhà xơ xác. Mẹ tôi ở nhờ nhà Dì Năm trên đất của Bà Ngoại. Ngôi nhà ngói cổ nay ngổn ngang gạch đá giữa lớp cỏ hoang. Mẹ tôi đào chang chép, chằm lá mướn mót từng hào từng xu mong có ngày dựng một túp lều trên nền nhà cũ. Lúc đầu tôi phụ mẹ đào chang chép qua chợ bán, sau đó xin được một chỗ chăn trâu với hai mươi dạ lúa một năm, ăn ở nhà chủ.             .

Dân làng quê phần lớn sống nhờ ruộng rẫy. Rẫy làm quanh năm, ruộng chỉ một mùa. Đầu mùa tôi chăn trâu đồng, sau khi xuống giống gieo cấy xong thì thả trâu láng, cuối mùa lùa trâu về đồng rạ khô. Khi thả trâu láng, tôi quen với nhóm Láng Đá. Nhóm có trên mười người. Đầu nhóm là anh Sáu và chị Đổ. Anh Sáu cùng mấy chàng trai lo cho trâu “ăn no tắm sạch”, lo “chặt cây săng cắt lá già”. Chị Đổ với các cô gái lo việc “ăn uống” và “hái trái rừng”. Anh Chị nhờ người qua chợ bán mọi thứ có được, tiền chia đều từng người. Chúng tôi như anh em một nhà dưới mái rừng già, bên bờ suối trong.
Chị Đổ anh Sáu đều biết cảnh sống của Mẹ tôi, nên đã phụ mẹ dựng một căn nhà lá nhỏ trên nền đất xưa. Khi dọn về ở, tôi như muốn khóc vì súc động trước tấm lòng tốt của nhóm. Mẹ tôi không còn qua biển đào chang chép, chỉ chằm lá tại nhà khi có người thuê. Sau này, tôi biết thêm nhóm chăn trâu Láng Đá đã giúp nhiều người neo đơn nghèo khổ có mái lá che nắng mưa, có lẻ nhờ “cây săng, lá già, trái rừng” đã “mót được” qua những ngày thả trâu láng. Tôi cũng biết chị Đổ anh Sáu còn lo “dạy chữ” cho những người “mù chữ” trong làng.                                  .

Thuở ấy, nơi làng quê nghèo, đông người thất học. Các cụ già kêu gọi mọi người góp sức để mở lớp “dạy chữ” giúp người mù chữ biết đọc biết viết.Tại một lớp đêm, Bác Cả dặn dò mọi người “…Hãy lấy tấm lòng thiệt thà đùm bọc giúp đở nhau để khỏi nghèo, khỏi dốt ….Người có nhiều chữ xớt bớt vài chữ cho người không có chữ nào….”. Nhiều người buồn thiu khi nghe cụ nói, riêng tôi thầm nhớ mãi dù không trọn vẹn lời nói của cụ.”Tấm lòng thiệt thà…”là “tình người”, là “nguồn cội” của mọi điều, trong đó có việc “xớt bớt vài chữ” cho người không có chữ. Thực ra, Tân Lý có trường làng tiểu học, nhưng chỉ giành cho trẻ trong độ tuổi và ở gần trường. Người lớn tuổi không biết chữ và trẻ nghèo ở xa không có lớp học. Từ lời kêu gọi ấy, dân làng càng ngày càng mở nhiều “lớp đêm tại chỗ”, đặc biệt là những “lớp bỏ túi” ở nơi xa xôi hẻo lánh, những xóm rẫy, xóm núi, xóm chài…             .
Lớp học bỏ túi Láng Đá luôn di chuyển, khi bên đồng ruộng trên đồi cỏ, khi trong láng rừng dưới tán cây cổ thụ. Lớp không bảng đen phấn trắng, không bàn viết ghế ngồi, chỉ có mo cau dày kê lên đầu gối thay chiếc bảng con. Để tránh hạt mưa xóa mờ con chữ, làm nhầu trang vở, nhóm thường dùng mo cau rừng ép phẳng thay tờ giấy, dùng que than nhọn làm ngòi viết. Nhiều trang mo ghi đôi điều riêng tư như trang nhật ký. Giờ học cũng vô chừng, tùy theo mùa, theo nơi thả trâu. Không sách giáo khoa, bài học thường chú ý đến những câu nói đúng văn phạm. Tập làm văn là bài ghi lại những hình ảnh trước mặt, có khi tả một đóa lan rừng một bờ cỏ non, có khi là một áng mây một làn sương mù. Người học thường đưa ra những thắc mắc để nhóm tìm ra câu giải thích rất chân thật.                .
Chị Đổ thường đọc những câu lục bát trong văn học dân gian hay tập một vài bài hát gần gụi với phong cảnh ruộng đồng. Một hôm cả nhóm hát bài “Em bé chăn trâu Việt Nam”, đến câu “khoai lùi bếp nóng ngon hơn là vàng”, một bạn nhỏ nhất đưa một ngón tay lên miệng rồi nói “vàng đâu ăn được sao biết ngon hơn ngon kém” và một chị dịu dàng tiếp lời “Phạm Duy chỉ biết vàng, đâu biết khoai lang lùi tro nóng của tụi mình” Cả nhóm lặng thinh gật đầu. Khoai lùi bếp tro nóng là thức ăn dân dã nơi làng quê đất Việt và vàng chỉ có giá trị hàng hóa của lớp người giàu sang. Bạn chăn trâu nghèo đói ít học, từ món ăn của “dân tộc”, nhận ra sự sai lệch trong câu hát của một nhạc sỹ nổi tiếng. Dường như lớp học bỏ túi đã “khai phóng” một tầm nhìn, từ lúc “tụi mình” đã chia “ củ khoai lùi bếp tro nóng” để cùng nhau thưởng thức “ngọt bùi”, để cùng nhau vượt mọi “đắng cay”.                        .
Vài người bạn cùng tôi đôi khi cởi trâu qua Bưng Ngang qua Bàu Giòi đến Dinh Thầy. Tiếng mõ tụng kinh như âm u trong rừng già trên những mái chòi xiêu vẹo vắng người. Nhiều nền đất chỏng chơ những cột trụ cháy xém. Nhiều gia đình từ vùng tản cư dời về đất tổ tiên, trốn nắng mưa dưới mái tranh tạm bợ. Sự nghèo khổ vẫn quẩn quanh đâu đó sau chiến tranh.                       .

Hết hạn ở với anh Năm Cận, tôi xin chăn trâu cặp của anh Hai Tứ trong Xóm Đạo, gần Nhà Thờ, gần nhà mẹ. Một hôm theo mẹ đi lễ Misa, tôi mới biết vài câu kinh, dù đã được rửa tội tại đây từ năm 194O. Thánh Đường xưa chỉ còn một nền đá cao đầy rêu phong, một góc phòng thánh nứt nẻ, bổn đạo dự lễ đọc kinh dưới nhà mái tôn, cạnh một gác chuông cây. Tại đây, Cha sứ và Bác Sáu Say cho tôi biết đôi điều về Tân Lý và nhà cha mẹ tôi. Tôi cảm thấy xóm làng đầy ắp tình người.                                    .

Ở gần Mẹ chưa đầy hai năm tôi lại từ giả quê nhà ra đi vì Ba Nuôi tôi bị đầy ra Côn Đảo, Má tôi một mình lưu lạc nơi phương người.                         .
.
Thảo Điền, 2O19.                             .
Đoàn Thuận.                              .

TÔI LAO ĐỘNG
SAU 1975.

Từ tháng 1 đến tháng 4 năm 1975, trường trung học Bình Tuy gần như đóng cửa vì chiến sự Miền Trung. Phố huyện nhiều nơi bất ổn, người người tìm cách di tản. Tôi trả nhà thuê lại cho thầy Lượng, chuyển về ở chung với ba má tôi tại thị trấn La Gi.                   .

Khi bộ đội về giải phóng Bình Tuy, tôi đến Ban Quân Quản trình diện và học tập tại chổ. Học xong, tôi được trả quyền công dân, được cấp giấy phép làm thợ hồ nhưng không được rời khỏi La Gi. Thấy vậy, Ba tôi giao tôi công việc đúc bia mộ tại nhà. Tôi từ “cầm phấn” chuyển sang “cầm bai” từ đây.                                              .
Sau đó tôi nhận giấy đi học tập cải tạo dài hạn ở Đà Lạt và được xếp loại “giáo viên lưu dung”, nhưng vì tôi có “Giấy phép làm thợ hồ” nên không có ý định ở lại “làm giáo viên lưu dung”. Thực tế, tôi đã phụ hồ cho ba tôi xây dựng nhà cửa trong vùng từ lúc trường Bình Tuy ngưng hoạt động. Nhiều người khuyên tôi ở lại ngành giáo dục, trong số đó có hai vị cán bộ cao cấp người Bắc đang ở nhờ trong nhà ba tôi. Để tránh phiền phức, tôi xin phép ra riêng, rồi mua căn nhà của bác Huệ ở gần cầu đúc Tân Lý để tiện việc làm thợ hồ. Chưa kịp ổn định, Ban Quân Quản yêu cầu tôi nhường lại căn nhà cho gia đình  một đại tá ở miền Bắc mới chuyển vào, vì nó nằm trong diện “hộ đi kinh tế mới”, buộc tôi phả trở lại làm việc “dưới mái trường”.             .
Tôi lên trường C3 Hàm Tân trình diện và được phân công làm “trưởng ban lao động”. Tôi cùng học sinh toàn trường đi trồng bo bo ở Tân Hà, trồng mì ở Láng Đá, trồng lang ở Sơn Mỹ, đào mương “dẫn thủy nhập điền” qua đồng Tân Thiện, theo kế hoạch của Huyện để giúp HTX nông nghiệp mới hình thành. Ngoài ra, tôi còn phụ trách việc tu sửa trường lớp, đặc biệt tu sửa hai dãy phòng học cũ làm “Khu nội trú tập thể” cho cán bộ và “giáo viên chi viện” có nơi ăn ở ngay từ đầu.Tôi cũng có dạy vài tiết Tiếng Anh nhưng không đáng kể chì vì “giáo viên Ngụy dạy tiếng đế quốc Mỹ” như hiệu trưởng Đinh Hữu Hồ đánh giá xếp loại thầy dạy Anh văn trường Nguyễn Trãi, ở Ninh Thuận.              .
Trong thời bao cấp, gia đình chúng tôi sống nhờ vào công việc phụ hơn là đồng lương “giáo viên lưu dung”. Vợ con tôi nhận gia công hàng mỹ nghệ, còn tôi tranh thủ đi phụ hồ cho các công trình xây dựng gần đó, đêm về đúc bia tại nhà.Tôi có vài dòng ghi lại việc này:                                                        .
              tranh thủ sống nhờ bàn tay thợ,                                              .
              đúc bia mộ, phụ hồ, gia công hàng mỹ nghệ,                         .
              trồng hoa cây kiểng, thêm ít rau màu,                                   .
              buồn vui có nhau, nương náu bên đời…..                           .
Nhiều phụ huynh bảo tôi trước “làm thầy” giờ “ làm bia”. Tuy vậy, tôi vẫn thấy may mắn hơn nhiều người vì được “lưu dung” giữ lại làm việc, dù “cầm bai trộn hồ” nhiều hơn “cầm phấn viết chữ”, dù không còn sống thư thả như ngày cũ, dù đời còn nhiều nghiệt ngã gập ghềnh…
Từ ngày làm “phó hiệu trưởng”, tôi thường gặp nhiều rắc rối, đã nhiều lần tôi xin phép ra khỏi ngành, nhưng đời vẫn giúp tôi vượt qua bao trở ngại ở lại “dưới mái trường”.…                                    .
Năm 1982, tôi bị đình chỉ công tác chờ kỷ luật vì bị buộc tội “vi phạm nghiêm trọng kế hoạch 72”. Tôi cho đây là dịp may để tôi ra khỏi ngành giáo dục. Sau Tết, Sở về họp Hội đồng thu hồi quyết định nói trên vì Sở Công an có biên bản khám xét nhà tôi nhiều lần nhưng không tìm thấy sách báo đồi trụy như trường báo cáo. Cũng trong dịp này tổ chức cho  biết “Tỉnh rất rõ lý lịch” gia đình tôi và khuyên tôi yên tâm làm việc.Thế rồi mùa hè năm 1989,1990 tỉnh cử tôi đi học trường Cán Bộ Quản Lý, khóa Hiệu trưởng, dù tôi là người ngoài đảng, dù tôi nằm trong danh sách “sĩ quan biệt phái”. Danh sách này gồm có thầy Đoàn Đức, thầy Trần văn Thịnh, thầy Lê văn Hộ và tôi. Thầy Trần văn Thịnh bỏ ngành về làm vườn, thầy Đoàn Đức bị kỷ luật vì sanh con thư năm. Do đó, tôi luôn ở trong tư thế bị đuổi ra khỏi C3 Hàm Tân.   .
Năm 1992, thầy Đào văn Lộc và tôi bị vu khống “đảng dân chủ nổi dậy”, nhân vụ một nhóm giáo viên tố thầy hiệu trưởng tham nhũng. Sau đó, thanh tra khẳng định thầy Đào văn Lộc và tôi không liên quan gì đến đảng dân chủ. Thầy Lộc về làm hiệu trưởng trường Nhà Bè ở thành phố HCM, còn tôi xin làm giáo viên vì lúc ấy tôi đang tham gia bồi dưỡng học sinh giỏi. Người thay thế chúng tôi là ông Nguyễn Phi Thảo và Phan văn Bảng. Nhưng tỉnh không chấp thuận đơn xin phép của tôi và chuyển qua làm phó hiệu trưởng chuyên môn thay chỗ của thầy Đào văn Lộc.                           . .
Năm 1993, báo Bình Thuận kết tôi tội “nhớ Sài Gòn thủ đô Ngụy”, căn cứ vào  bốn câu thơ: “Đã mấy năm xa Sài Gòn ơi, gót giày mê mải một phương trời, ta như du tử về quê cũ, thắp lửa chiều lên ấm đôi môi”. Tôi lại bị đình chỉ công tác, buộc qua phòng Văn hóa và Công an Huyện Hàm Tân làm kiểm điểm nhiều lần. Hai tháng sau, một đảng viên ở báo Tuổi Trẻ về Tỉnh trình một trang nhật ký, trong đó, có màu mực viết tay mấy câu trên và ghi rõ “Hà Tiên 1972”. Ai ai cũng biết “năm 1972, Sài Gòn là Sài Gòn”. Tôi lặng thinh sống qua  ngày như một “phu chữ” làm việc theo lệnh của lãnh đạo.                   .
Năm 1994, thầy Lê văn Hộ có quyết định làm giám đốc Trung tâm Dạy nghề Hàm Tân. Chưa kịp tiếp nhận nhiệm sở mới, thầy Hộ bị tai nạn và đã qua đời nhân vụ làm phiên dịch cho đoàn Kiểm tra trên biển Hàm Tân. Người thay thầy Hộ là ông Võ văn Nhân, một đảng viên  cũng là học trò cũ trường Bình Tuy thời Ngụy. Như vậy, bốn “sỹ quan biệt phái” chỉ còn lại mình tôi.                               .
Cùng năm, Sở “tạm điều” tôi đi xây dựng trường Bán Công, nhưng không rõ “xây dựng” ở đâu. Tôi  kiên quyết không nhận vì nghi ngại đôi điều và tôi tự bỏ ngành, “từ biệt C3 Hàm Tân” về làm thợ hồ. Nhiều phụ huynh than phiền con cháu họ không nơi đi học, số trẻ không vào được trường công ngày một thêm đông, vì học sinh thi vào được chọn theo ưu tiên lý lịch. Thực ra,Tỉnh định mở trường bán công ở Hàm Tân từ lâu,cùng thời với trường Phan Chu Trinh ở Phan Thiết, nhưng không hiểu vì đâu đến 1994 vẫn chưa mở được, dù rằng vài đảng viên ở C3 Hàm Tân từng tuyên bố sẽ làm hiệu trưởng trường này.                                 .
Sáu đó, Tỉnh về Huyện bàn chuyện mở Trường Bán công Nguyễn Huệ, tại khu Sư phạm Mầm non cũ. Từ phiên họp này, tôi mới biết vì sao Tỉnh cho thầy Đào văn Lộc và tôi đi học trường Cán bộ Quản lý, dù chúng tôi là giáo viên Ngụy, là người ngoài đảng. Tôi thầm nghĩ rất nhiều về người trẻ tuổi ở quê tôi không được đến trường nên tôi nhận quyết định bổ nhiệm Hiệu Trưởng và ký Dự án “Xây dựng mới ngôi Trường Nguyễn Huệ”. Tôi gặp rất nhiều khó khăn nhưng trường Trung học Bán công Nguyễn Huệ vẫn khai giảng năm học đầu tiên đúng kế hoạch Tỉnh giao.                                    .

Năm 1999, trường Nguyễn Huệ phát triển từ 4 lớp lên 44 lớp và đang tiến hành xây dựng phần còn lại. Tôi lại bị vu khống nhiều tội khủng khiếp, trong đó có tội “tôi nhận những giáo viên ngoài biên chế” và có người hăm dọa buộc tôi rời khỏi La Gi vì “chỗ này là chỗ của chúng tao”…Tiếp theo, Sở Công an và Sở Tài chánh Bình Thuận về kiểm tra gần như suốt năm 2000, dù quyết định chỉ cho phép kiểm tra trong 30 ngày. Ngoài đình chỉ công trình đang xây dựng dở dang, công an đi điều tra thẩm vấn nhiều người ở nhiều nơi liên quan đến cá nhân tôi, vẫn quanh quẩn mấy viêc vu khống từ 1982, mà Tỉnh đã từng làm sáng tỏ. Cuối cùng Tỉnh ra thông báo kết quả đợt kiểm tra toàn diện Trường Nguyễn Huệ và khẳng định thành quả đóng góp tốt của trường.Từ cuộc kiểm tra này, Tỉnh mới biết lương của tôi rất thấp và tỉnh nâng lên bậc “chuyên viên loại một” chuẩn bị cho tôi nghỉ hưu. Tôi bàn giao mọi việc cho ông Nguyễn Phi Thảo, “từ biệt trường Nguyễn Huệ”.

Tôi là một du tử, một đứa con xa Mẹ, sống lưu lạc từ bé thơ, nên năm 1972 về lại quê nhà dạy học gần Mẹ, đối với tôi là niềm hạnh phúc. Sau 1975, tôi chỉ mong được lao động kiếm sống qua ngày nơi quê hương, nhưng rồi phải luôn đối diện với biết bao khốn khó bất an. Thế nên, tôi bán nhà lấy tiền tu sửa gần như toàn bộ mồ mã của ông bà cha mẹ, họ hàng nội ngoại, rồi chuyển vào Thảo Điền sống những ngày cuối đời, lại lưu lạc tha phương.                       .

Thảo Điền, 2019.                                    .
Đoàn Thuận.

TÔI “ĐI DẠY”,
trước 1975.                             .
.

Trong thập niên 60, tôi chỉ là một sinh viên nghèo xa quê nên buộc phải đi kèm trẻ tư gia hoặc luyện thi tú tài để có điều kiện đi học. Dù nhiều lúc đối diện với “người học” nhưng tôi không dám mơ sẽ làm “người đi dạy”.                           .
.
Năm 1962, Giáo sư NĐT giới thiệu tôi đến dạy một trường tư. Tôi không dám nhận vì nhiều lẽ. Ba tháng sau, Giáo sư đưa cho tôi Giấy phép của Nha Tư Thục và khuyên tôi nên theo ngành giáo dục. Tôi ngần ngại đến trường Thánh Tâm nhận lịch giảng dạy. Lần đầu tiên đứng trên bục giảng, tôi say sưa giảng văn bài Thu Điếu của Nguyễn Khuyến. Đến khi chuông reo, cả lớp đứng dạy trong dáng vẻ ngỡ ngàng kỳ lạ. Tôi rầu rĩ ra về. Nhưng tuần sau tôi nhận tiếp lịch giảng dạy tại Trung học tư thục Thánh Mẫu và tư thục Thủ Khoa Huận.      .

Năm 1966, Giáo sư lại khuyên tôi thi vào Đại học Sư phạm Sài Gòn vì khóa mới chỉ tuyển ngưới có “chứng chỉ đại học”, không tuyển người có tú tài và chỉ học trong ba năm. Tại Đại học Sư phạm, tôi có dịp tiếp cận với nguyên lý giáo dục “Dân tộc, Nhân bản, Khai phóng”.  “Người dạy” không thuần cung cấp kiến thức căn bản cho “người học” mà còn giúp  “người học” tự đào luyện thành ngưới có Đức có Tài giúp ích cho xã hội, cho tổ quốc.                                          .

Năm 1969, tôi tốt nghiệp với ngạch Giáo sư Trung học Đệ nhị cấp (lớp đệ tam, đệ nhị, đệ nhất) và nhiệm sở đầu tiền là Trung học Hà Tiên.                                               .

Năm 1972, tôi thuyên chuyển về dạy Anh văn tại Trung học Bình Tuy. Tại đây, tôi chỉ dạy đủ giờ qui định, thời gian còn lại tôi dạy thêm ở Trung học tư thục Vinh Tân, Tư thục Bồ Đề Quảng Đức và Cours Pascal (buổi tối).                     .

Từ năm 1946, tôi xa Mẹ, xa làng Tân Lý lưu lạc nhiều nơi lạ lẫm khiến tôi sống khép kín, không dám tham gia một tổ chức hay một nhóm hội nào. Tôi tự nghĩ sự có mặt của tôi sẽ gây phiền phức khó chịu cho người khác. Thông thường tôi đến trường đến lớp rồi về tìm vui qua sách vở, qua tiếng đàn, đôi khi cùng cỏ cây. Nếu không nhờ sự dạy bão của Thầy Cô, nhờ lời khuyến khích của Giáo sư NĐT, có lẽ tôi chỉ là một thư ký quèn hay thợ xếp chữ trong một nhà in nào đó.              .

Nay, được đi dạy tại quê nhà, tôi rất hạnh phúc. Gia đình nhỏ của chúng tôi sống êm ấm trong căn nhà thuê gần trường, gần Mẹ, gần Ba Má tôi. Cũng tại đây, tôi gặp lại hai người bạn chăn trâu thời niên thiếu. Trong lặng thầm, tôi nhận ra chúng tôi như anh em một nhà. Nhiều dịp chúng tôi tìm thăm những nơi ông bà cha mẹ chúng tôi đã trãi qua, trong tháng ngày kháng chiến cũ. Quê hương tôi rất đẹp. Nhiều thôn mạc còn mái tranh vách lá nhưng đông đầy nghĩa xóm tình làng. Đó là khung trời đẹp nhất trong đời tôi.
Tháng 1 năm 1975, Trung học Bình Tuy gần như đóng
cửa, vì chiến sự diễn ra dồn dập ở Miền Trung và Cao Nguyên.          .Những ngày “đi dạy” của tôi dừng lại ở đây.                .

Thảo Điền,2019
Đoàn Thuận

“việc đi dạy”
ở trung học Bình Tuy
và C3 Hàm Tân.

.
       
           Thời gian qua, nhiều vị hỏi thăm tình hình đi dạy của tôi trước đây. Năm 2014, tôi đã bày tỏ đôi điều nhưng nay nhân kỷ niệm 60 năm ngày thành lập trường nhiều vị lại hỏi tôi về “viêc đi dạy” ở trường Bình Tuy và C3 Hàm Tân .                   .
           Qua email riêng, tôi đã phản hồi một ít, nay xin phép được trả lời chung trên facebook, có điều gì không phải, rất mong được thông cảm                  .
  .      
1. Đi dạy ở trung học Bình Tuy.                                   .
    * Trước 1975. tôi là “giáo sư trung học đệ nhị cấp” chính ngạch, được đào tạo tại trường Đại học Sư phạm Saigon, theo nguyên lý giáo dục “Dân tộc-Nhân bản-Khai phóng”.                   .                     .
 .
    * Năm 1973, từ trung học Hà Tiên tôi được thuyên chuyển về dạy Anh Văn tại trung học Bình Tuy, tư thục Bồ Đề Quảng Đức và tư thục Vinh Tân. Ngoài ra, tôi cũng tham gia Cours Pascal, lớp đêm ở Bồ Đề Quảng Đức. Nhóm Pascal gồm có thầy Nguyễn Tấn Hưng [dạy Toán], thầy Đào văn Lộc [dạy Lý], cô Trịnh thị Nghĩa [dạy Hoá-Sinh], tôi dạy Anh Văn và Triết 12.                       .               
.
      * La Gi là Đất Mẹ nhưng tôi lưu lạc xa quê từ thuở bé thơ. Được chuyển về dạy ở trung học Bình Tuy là dịp may cho tôi được sống gần bên Mẹ và họ hàng. Nên ngoài giờ lên lớp, tôi dành thời gian còn lại để di thăm nhiều nơi ở Lagi. Đến đâu tôi cũng ghi lại những hình ảnh thơ mộng và thân yêu của quê hương theo “Huyền thoại Hòn Bà Núi Ông”.                                  .
.
        Với thân phận của một thầy giáo, tôi không tham gia một hoạt động xã hội nào khác, ngoài “việc đi dạy”.                       .
.
       * Đầu năm 1975, cuộc chiến sôi động ở miền Trung nên trường Bình Tuy gần như đóng cửa.                                    .
.
2. Đi dạy ở C3 Hàm Tân.                                         .
    * Tháng Tư năm 1975, sau khi học tập cải tạo, chúng tôi được trả quyền công dân và được xếp vào loại “giáo viên lưu dung’, gồm có thầy Đào văn Lộc, thầy Trần Văn Thịnh, cô Trịnh Thị Nghĩa, thầy Lê Ngọc Lợi, và tôi.   Còn thầy Lê văn Hộ cùng một số thầy cô từ nơi khác chuyển về…Tôi được phân công “hướng dẫn học sinh lao động”.  Năm sau, cô Nghĩa bị vu khống “ vượt biên hụt”, cho ra khỏi ngành và đã qua đời ở tp.HCM                           .                                                  .
       * Khoảng 1982. thầy Đào văn Lộc và tôi (lúc đó làm hiệu phó C3 Hàm Tân) bị vu khống “đảng Dân Chủ nổi dậy “ nhân vụ một nhóm giáo viên tố thầy Hiệu Trưởng tham nhũng. Hè năm đó, thanh tra tỉnh về khẳng định thầy Lộc và tôi  không liên quan gì đến đảng DC.  Thầy Lộc về làm hiệu trưởng Nhà Bè ở tp.HCM, còn tôi đổi qua làm giáo viên dạy Văn 10. Người thay vị trí chúng tôi là ông Nguyễn Phi Thảo và Phan văn Bảng. Tiếp theo, tôi bị đình chỉ công tác vì tội “vi phạm Kế hoạch 72” . Nhưng Sở Công An Bình Thuận cho trường C3 Hàm Tân biết đã khám nhà tôi trước đó và chỉ thấy bộ sách English for today,(sách được phép dạy thay sách giáo khoa) không phải sách đồi truỵ như ai đó báo cáo.                                 .
.

      *  Năm sau, thầy Đoàn Đức, thầy Trần văn Thịnh, thầy Lê văn Hộ và tôi nằm trong danh sách “sỹ quan ngụy trốn cải tạo”. Do đó, thầy Thịnh bỏ ngành về làm vườn. Thầy Đức bị kỹ luật vì sanh con thứ 5.Thầy Hộ và tôi ở tư thế chuẩn bị chuyển nghề khác kiếm sống.                 
 .     
       * Năm 1994, thầy Hộ có quyết định làm Giám đốc Trung tâm Dạy nghề Hàm tân. Chưa kịp tiếp nhận nhiệm sở mới, thầy Hộ bị tai nạn và đã qua đời nhân vụ làm phiên dịch cho tàu tuần tra trên biển Hàm Tân.                                     .
.
         . Còn tôi bị buộc rời khỏi C3 Hàm Tân vì tội làm thơ “tiếc nuối Sai Gòn”. Tháng 3 năm 1994, tôi được Tỉnh điều đi xây dựng trường Bán công Nguyễn Huệ trong khu vực trường Sư Phạm Mầm Non cũ, khu đất thuộc làng thương phế binh Bình Tuy trước 1975, bỏ hoang. Tôi làm nhiều đơn xin ra khỏi ngành, tỉnh hứa “sẽ giải quyết khi trường xây xong”. Tôi chuẩn bị chuyển về Xuyên Mộc nhưng Tỉnh yêu cầu tôi ở lại khai giảng năm học mới.                         .          
 .        
          * Năm 1999 và năm 2002, tôi bị vu khống nhiều điều khủng khiếp tưởng đâu đã vào tù nhiều năm nhưng may sao mọi điều cũng được sáng tỏ  và tôi vẫn còn đây “rong chơi cùng cát bụi”.…..          .                                                                               
.
tạ đời cho ta sống.
tưởng nát sông hồ theo gió bụi                                       .
còn khoảnh khắc đi về.                               .
.      

Hạnh Thông Tây,2018
ĐOÀN THUẬN

Tôi không là nhà thơ.

       Sau năm 1954, tôi từ rừng núi ra tỉnh thành đi học. Người trẻ tuổi giàu sang coi tôi như “thằng mọi nhà quê”, “thằng thẹo cù lần”. Lúc đầu, tôi thấy khó chịu và chẳng dám nhìn ai hay trò chuyện với ai, trừ phi họ buộc tôi đối diện. Dần dà, tôi nhận ra ai cũng có một số phận và tôi tự nhủ hãy bình thường với phận mình dù hẫm hiu đến đâu..                           
          Cuộc đời luôn biến chuyển thăng trầm theo qui luật của nó. Những gì nghe thấy trên đường đời làm con người suy nghĩ. Nhưng đầu óc nhỏ nhoi sao chứa nổi mọi điều nên đành phải ghi lại bằng giấy trắng mực đen và có lẽ con chữ đầu tiên trên trang Tạp Bút của tôi chính là con chữ ghi lại lời người trẻ tuổi ở Bà Rịa cười nhạo tôi:                         

Lô chê ta cù lần.                           .
Hoài gọi ta thằng mọi                                .
Ta nghĩ ngợi bâng khuâng,
                                            .             

           Bà Rịa, 1956.                             .                

Năm lên lớp đệ thất, tôi ở chung nhà trọ với anh NP Vân học đệ tứ. Cuối năm học, anh bảo tôi viết cho anh vài chữ vào tập Lưu Bút Ngày Xanh của anh. Tôi đọc thấy nhiều bài rất hay và tự biết mình không thể viết được gì. Anh cười bảo :hãy viết chính điều vừa nghĩ .Tôi dùng cọ vẽ viết tháo từ trên xuống theo kiểu thư pháp:                                                  

Em
đâu biết                                 .
nói gì.                                     .                                                               


mai
anh ra đi                                                                                 ..
                             

            Đó chính là dòng chữ đầu tiên tôi viết trên Lưu Bút, Sổ Tay hay Nhật Ký của người khác, những người bạn đồng song, đồng nghiệp, đồng hành cùng cuộc đời lưu lạc của tôi.  Thường khi, tôi ghi lại những gì nghe thấy, đọc thấy và nhận thấy trên đường đời. Những dòng chữ, đôi khi, nguệch ngoạc vội vàng, chưa thành câu, ý nghĩa lộn xộn..                  

           Năm 1969, đến Hà Tiên dạy học, tôi có dịp đọc lại và sắp xếp thành năm tập Tạp Bút theo hai chủ đề chính: “Miền đất trọ”, “Không ngày tháng”. Mỗi tập dày trên ngàn trang bản thảo.                                .                            

           Tháng tư năm 1975, ban Quân quản tịch thu toàn bộ sách báo và băng nhạc của tôi, trong đó có 5 tập Tạp Bút.  Nhiều lần, tôi làm đơn xin lại những tâp bản thảo nói trên nhưng Sở Công an Bình Thuân trả lời “không tìm thấy”.                           .            

             Năm 1963, báo Binh Thuận khép tội vào tội “mơ tưởng đến Sài gòn, thủ đô chế độ Mỹ Ngụy” mà chứng cứ nằm trong  mấy câu:                           ..
“Đã mấy năm xa Sài Gòn ơi. .              .
Gót giày mê mả một phương trời.                            .
Ta như du tử về quê cũ.                                .
Dốt lửa chiều lên ấm đôi môi”.
                                  .

           Phòng Văn hóa Thông tin và Công An huyện Hàm Tân gọi tôi đến làm bản kiểm điểm tự khai về tội nói trên.Tôi không rõ chuyện gì và khai đi khai lại “Tôi viết mấy câu đó trước 1975”. Sau đó, một người ở báo Tuổi Trẻ vê tỉnh Bình Thuận trình một trang lưu bút viết tay, ký tên Trần Thuận vào 1972. Sài Gòn 1972 là Sài Gòn. Tất cả lặng thinh. Tôi chuẩn bị rời khỏi trường C3 Hàm Tân .                                          

        Năm 1994, nhóm thân hữu Hà Tiên lặng lẽ sưu tầm những bài tôi viết về  mùa gió ở hai miền biển Hà Tiên và La Gi. Nhà xuất bản Văn Nghệ tp.Hồ Chí Minh biên tâp thành Mùa bấc biển và cho xuất bản với têm tác giả Đoàn Thuận.                                  .          
        Tâp Mùa bấc biển nhận giải Duc Thanh lần 1.Từ đây, nhiều người gọi tôi là “nhà thơ”, nhà thơ Đoàn Thuận.                                                                                                                      
         
      Tôi tự nghĩ, tôi không là “nhà thơ” vì tôi không sáng tác mà chỉ ghi chép những gì tôi thấy cần thiết khi còn sống ở đời này.                                                                                                               

     Có thể, tôi là “người ký sự”, người ghi chép việc đời.                                              

      Thảo Điền, 2014.                                                         .                  
      Cát Sỹ.                                                                          .                                                              
      ĐOÀN THUẬN.                                  

 

”MỘT NỐT TRẦM”

       * Vào ngày 2 tháng Tư, tôi có viết mấy dòng fb “tưởng niệm Trinh Công Sơn” theo gợi ý của nhóm  Giáo Già SG đã từng quen biết với anh Sơn. Ngay sau đó tôi nhận nhiều tin nhắn và email trách móc nặng lời: “ nhắc chi một tên Việt cộng”.                            .         

      * Tôi tự nghĩ ở cõi này, ai cũng có ít nhiều kỹ niệm, êm đẹp hay đớn đau, tùy theo từng cảnh ngộ. Sau ngày đình chiến 54, anh Sơn và chúng tôi đều lớn lên ở quê hương Miền Nam. Có lẽ hoàn cảnh ấy đưa đẩy chúng tôi đôi lần gặp nhau.                           .                         
         Thời thư sinh áo vải, chúng tôi gặp nhau dưới mái trường, dù đó là mái trường Sư Phạm Qui Nhơn hay mái trường làng Định Quán. Gần như chúng tôi có chung một ước mơ nhỏ: dẫn dắt đàn em  thơ của quê hương  đến trường. Không rõ lúc ấy có ai cho rằng anh em chúng tôi “ăn cơm quốc gia thờ ma cộng sản”?                                .
          Sau này, anh Sơn rời chức Trưởng giáo trường Định Quán, chuyển qua sáng tác âm nhạc, nổi tiếng cùng với tiếng hát Khánh Ly. Con tôi, vẩn tiếp tục “kèm trẻ”,”dạy tư”, trong hoàn cảnh có “Ba là tù Côn Đảo”, phải nhờ sự bảo trợ của “người thiện tâm”, để tồn tại cùng cát bụi.         .                                                          

         * Lần đầu tiên tôi nghe chính anh Sơn hát những bài “tình ca” của anh tại Quán Văn trong sân trường Đại học Văn Khoa Saigon cũ (ở đường Nguyễn Trung Trực). Lời ca của anh như những “lời thơ”, ít nhiều, xoa dịu nỗi đau  buồn của một “du tử xa quê xa  mẹ”, xa người yêu. Anh như hát dùm chúng tôi những lời tâm tình cùng đất trời Saigon.                                         .
         Nếu anh là “một tên vi-xi vô thần”, sao anh coi thân phận mình như “cát bụi”, như một “vết  lăng trầm” trong cõi luân hồi sinh diệt, lại tụng “kinh đêm” cầu siêu cho “người nằm xuống”, cầu an cho quê hương.                     .                                    
          Nếu anh là “một VC vô cảm”, sao anh lại chia sẻ cùng chúng tôi mối sầu vương khi tình yêu trắc trở, nỗi đau nhức trước cuộc đời nhiễu nhương ?                                .
          Nếu anh “là người có công lớn với Công Sản”, sao anh không viết những lời “tụng ca đảng cho ta mùa xuân.” lại viết chi những bài tình ca “Diễm xưa”, “Hạ trắng”, “biển nhớ”, “Chiều một mình qua phố”, “Như cánh vạc qua đêm” khi “Rừng xưa đã khép”?                                 .
          Nếu…              .                            .

      * Tại số 4 đường Duy Tân, tôi nghe Sơn hát “khúc ca” về dân “da vàng”, với đôi lời đặc biệt nhắc chúng tôi nhớ một trang lịch sử đau thương của dân tộc:“một ngàn năm nô lệ giặc Tàu”,”Ba mươi năm nội chiến từng ngày”.                         
          Nếu là “Việt Cộng nằm vùng hát những lời ca phản chiến” sao Sơn dám gọi Trung Quốc là giặc, “Giặc Tàu”, bọn giặc đã bắt dân ta làm nộ lê cho chúng cả ngàn năm.                      .
          Sao Sơn dám coi cuộc chiến “đánh cho Mỹ cút, đánh Ngụy nhào” là cuộc “nội chiến” kéo dài trên ba mươi năm?  Phải chăng Anh Em, cùng một Mẹ Việt Nam, tương tàn theo lệnh của giặc Tàu,dưới bom đạn của Liên Sô,của Mỹ.                                       
          Ai đã “hát trên những xác người”? Phải chăng giặc ngoại xâm và bè lũ bán nước đã reo ca ăn mừng chiến thắng trên xác người, trên máu xương của dân Việt da vàng.                        .
         Trong đêm ra mắt tập “Da vàng ca khúc”, anh Sơn nghẹn ngào hát một điệp khúc: “Gia tài của Mẹ để lại cho con một nước Việt buồn”  Cả hội trường, trong đó có chúng tôi, cúi mặt ngậm ngùi như một phút mật niệm…                                         .

          * Giờ đây, anh Sơn đã “trở về với cát bụi”. Thực hư xin nhường lại cho lịch sử. Riêng tôi , lời ca trữ tình của anh như “Một nốt trầm” rơi xuống hồn tôi, trong những ngày xế bóng, cuối mùa.                                .      .

Thảo Điền, tháng Tư năm 2014.                                           

Chiếu Văn Khoa

Kính gửi Quí Thân Hữu Văn Khoa Saigon.
.
Tôi xin phép trả lời câu hỏi về xuất xứ
của “Chiều Văn Khoa tưởng nhớ Thầy Đông Hồ”.
.
Tôi theo học Thầy Đông Hồ ở chứng chỉ Văn chương Quốc âm,
khi Đại học Văn Khoa Sài Gòn chưa dời về thành Cộng Hòa.
Đông Hồ, đối với tôi, là một thi sỹ cũng là vị Thầy giúp tôi tiếp cận
với hệ “Văn chương Chiêu Anh Các”ở Miền Nam
.
Năm 1970, tôi và nhóm Thân hữu Hà Tiên tổ chức giỗ đầu cho Thầy
tại trường trung học Hà Tiên.  Cũng năm này, chúng tội găp nhau
trong “tiệc trà tưởng niệm” tại giảng đường Đại học Văn Văn Khoa SG,
nơi Thầy Đông Hồ qua đời.  Nhiều “Lưu Bút”ghi vội tại đây, trong đó có
 “Chiều Văn Khoa”.
.
CHIỀU VĂN KHOA
[tưởng nhớ thầy Đông Hồ]
.

1.
Thầy về cõi cao khiết
Lặng yên chiều Văn Khoa
Bên kia mùa bụi phấn
Phượng thắp lửa vào hoa.
.
2.
Trang sách đậm hương trà
Ai về hồ Đông xa
Trăng xưa in bóng nước” *
Chiều yên thắm màu hoa.

.

     [Đại học Văn Khoa Sagon, 1970]
.
* Thi sỹ Đông Hồ có bút hiệu khác: “Thủy cổ nguyêt” ,
chiết tự từ chữ HỒ ( 湖 )
.
Năm 2004, tôi về thăm lại Hà Tiên, tình cờ nhặt được một
viên đá nâu dưới chân tường Nhà Lưu Niệm Đông Hồ.
Bức tượng dưới đây là chân dung Thi Sỹ Đông Hồ do tôi khắc chạm
từ viên đá nói trên.
.
Tôi tự nghĩ : “Chiều Văn Khoa” hay những “Lưu Bút”của nhiều
than hữu xuất đi từ mối duyên hạnh ngộ với Thi sỹ Đông Hồ, với
Thầy Đông Hồ,một thời đáng nhớ đã qua.
.
Hạnh Thông Tây, 2018
Đoàn Thuận
.
Chân dung Đông Hồ

.

Một cảm nhận
khi CHẠM CÕI MÊNH MÔNG.

         Cõi mênh mông trời biển La Gi như chiếc “Nôi Mẹ,nôi thơ với nôi đời” ru bao phận người “vượt xa khơi”. “Nôi Lòng Mẹ, suối nguồn lặng lẽ” “ru ngọt ngào con trẻ” qua bao thế hệ bể dâu. Nôi Mẹ như nôi Đời đong đưa nôi Thơ dưới mái trăng quê hương, ru ”gió núi mây ngàn, biển xanh reo hát, cung đàn đá ngân”.

        Trong cõi mênh mông ấy, “Biển quê hương, phố quạnh chiều hoang, buốt nỗi niềm sóng giận bờ đau,dòng nước nghẹn trăng sầu mộng mị”. Đôi khi, “con sóng chồm lên”. “cuộn nhớ nhung về lồng lộng đại dương”. nhưng “sóng lại buông lơi liên khúc à ơi thuở nào”, vẫn “hát ôm ru bờ cát mịn”. Vì “Biển xanh xanh ngát câu thề”. “biển đa tình cát vẫn dịu dàng xưa”, vẫn “đa đoan in sâu, ôm ắp, dài theo nỗi nhớ”.                               .
         “Trăng nơi phố biển mộng mơ”, “lồng bóng nước tình ngây dại”, “soi lên trang chữ mặn mà duyên”. “đưa thương nhớ chìm sâu vào kỷ niệm”. Trăng “dẫu khuyết tròn sáng tối”. “lặng lẽ cứ đầy vơi”, “vẫn sắt son, vẫn mặn mà”, “vẫn dịu dàng thanh thoát dáng kiêu sa”, vẫn “mây bên trăng…xua tan muộn phiền”.                 .   
          “Gió thùy dương dệt vần thơ”, “gió ngàn hát bản tình ca”, đưa “lời thơ thanh tao đầm thắm dạt dào”, “bay về xa thẵm chân trời”. “Gió lao xao làm đau nắng vàng”, nhưng “Thơ theo gió vào mênh mông phiêu du, ru đời tình muộn nồng say”. “Thơ teo mây, thả giọt mưa giăng” cho “cỏ cây xanh biếc”.  “Thơ theo nắng”, “soi tăm tối”, “xoa ấm cơn đau phận người”.

          Giữa cõi mênh mông “nước chảy mây trôi”, “đã bao ngày trăn trở nông sâu”, Đỗ Quyên lặng nghe “vần thơ hẹn à ơi cuối chiều”, “thầm như gợi nhớ một thời xa xưa”, “gợi nhớ thuở yêu người”, thuở “con tim nhỏ thẹn thùng lỡ nhịp”. Giờ như “viên đá cuội cứ lăn lăn mãi một đời”, như “phiên khúc buồn nhớ, thả trời cao quyện gió bay đi”. . .

           “Chạm cõi mênh mông” tưởng chừng “chạm vô tình nỗi đau”, chạm nhịp “thăng trầm phiên khúc long đong, trôi bềnh bồng trôi”.

          Thảo Điền, 2017
          Đoàn Thuận

          Chú: Những chữ trong “. . .” là lời thơ của Đỗ Quyên
trích từ Chạm cõi mênh mông
.

 


.


tranh của Andrew Tischler
từ tr.3
^^về đầu trang

<< về trang chủ

Trang: 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23

Bình luận về bài viết này

Trang web này sử dụng Akismet để lọc thư rác. Tìm hiểu cách xử lý bình luận của bạn.