.
秋 興 (八) THU HỨNG (8)
昆 吾 御 宿 自 逶 迤 Côn Ngô ngự túc tự uy trì
紫 閣 夆 陰 入 渼 陂 Tử Các Phong âm nhập Mỹ Bì
香 稻 啄 餘 鸚 鵡 粒 Hương đạo trác dư anh vũ lạp
碧 梧 棲 老 鳳 凰 枝 Bích ngô thê lão phượng hoàng chi
佳 人 拾 翠 春 相 問 Giai nhân thập thuý xuân tương vấn
仙 侶 同 舟 晚 更 移 Tiên lữ đông chu vãn cánh di
綵 筆 昔 曾 干 氣 象 Thái bút tích tằng can khí tượng
白 頭 吟 望 若 低 垂 Bạch đầu ngâm vọng khổ dê thuỳ
杜 甫 Đỗ Phủ
.
THU HỨNG (8)
Nơi ngự du Côn Ngô tự mình lang thang
Dưới bóng Tử Các vào Mỹ Bì
Lúa thơm chim anh vũ ăn dư bỏ lại
Trên cành ngô biếc phượng hoàng đậu đến già
Người đẹp nhặt lông chim thuý mùa xuân hỏi thăm nhau
Khách tiên cùng thuyền buổi chiều lại dời đi chơi
Bút hoa xưa kia từng làm xúc động đất trời
Cúi thấp đầu bạc,ngâm ngợi nhớ lại buồn khổ
*
Lang thang đất ngự Côn Ngô
Qua miền Tử Các ta vô Mỹ Bì
Lúa thơm anh vũ ăn dư
Cành ngô biếc đậu già như phượng hoàng
Giai nhân thăm hỏi xuân sang
Khách tiên thuyền vượt chiều tàn rong chơi
Bút hoa từng tặng đất trời
Nay cúi đầu bạc nhớ đời buồn ngâm.
________________________________
.
登 高 ĐĂNG CAO
風 急 天 高 猿 嘯 哀 Phong cấp thiên cao vượn khiếu ai
渚 青 沙 白 鳥 飛 迴 Chữ thanh sa bạch điểu phi hồi
無 邊 落 葉 蕭 蕭 下 Vô biên lạc diệp tiêu tiêu há
不 盡 長 江 滾 滾 來 Bất tận trường giang cổn cổn lai
萬 里 悲 秋 常 作 客 Vạn lý bi thu thường tác khách
百 年 多 病 獨 登 臺 Bách niên đa bệnh độc đăng đài
艱 難 苦 恨 繁 霜 鬢 Gian nan khổ hận phồn sương mấn
潦 倒 新 停 濁 酒 杯 Lạo đảo tân đình trọc tửu bôi
杜 甫 Đỗ Phủ
.
LÊN CAO
Gió lộng trời cao vượn kêu buồn
Bãi xanh cát trắng chim bay trở về
Vô biên lá cây lê thê rụng
Bất tận sông dài cuồn cuộn trôi
Muôn dặm thu buồn thường làm đau lòng khách
Trăm năm nhiều bệnh cô độc lên đài
Gian nan khổ hận thêm nhiều tóc sương
Say nghiêng ngả mới ngừng chén rượu đục
*
Trời cao gió lộng vượn buồn
Bãi xanh cát trắng chim muông bay về
Vô biên lá rưng lê thê
Sông dài cuồn cuộn trôi về xa khơi
Khách sầu thu vạn dặm đời
Trăm năm nhiều bệnh đơn côi trên đài
Khổ đau thêm tóc sương phai
Ngả nghiêng rượu đục say dài mới thôi.
______________________________
.
蜀 相 THỤC TƯỚNG
丞 相 祠 堂 何 處 尋 Thừa tướng từ đường hà xứ tầm
錦 官 城 外 柏 森 森 Cẩm Quan thành ngoại bách sâm sâm
映 階 碧 草 自 春 色 Ánh giai bích thảo tự xuân sắc
隔 葉 黃 鸝 空 好 音 Cách diệp hoàng ly không hảo âm
三 顧 頻 煩 天 下 計 Tam cố tần phiền thiên hạ kế
兩 朝 開 濟 老 臣 心 Lưỡng triều khai tế lão thần tâm
出 師 未 捷 身 先 死 Xuất sư vị tiệp thân tiên tử
長 使 英 雄 淚 滿 襟 Trường sử anh hùng lệ mãn khâm
杜 甫 Đỗ Phủ
.
THỪA TƯỚNG NƯỚC THỤC
Đền thờ thừa tướng biết nơi nào tìm
Ngoài thành Cẩm Quan tùng bách um tùm
Bên thềm nắng cỏ xanh còn sắc xuân
Cách màn lá tiếng oanh vàng vẫn hay
Ba lần đến thăm phiền ông bày kế thiên hạ
Hai triều mở nước hết lòng bậc lão thần
Ra quân chưa thắng thân đã thác
Mãi khiến anh hùng lệ rơi đầy vạc áo
*
Đền thừa tướng biết tìm đâu
Ngoài thành tùng bách rậm màu Cẩm Quan
Cỏ xanh thềm nắng xuân tràn
Sau màn lá tiếng oanh vàng vẫn hay
Ba lần thiên hạ kế bày
Hai triều mở nước lòng ngay lão thần
Ra quân chưa thắng liều thân
Lệ anh hùng mãi đầy khăn áo người.
___________________________
.
不 見 BÂT KIẾN
不 見 李 生 久 Bất kiên Lý Sinh cữu
佯 狂 真 可 哀 Dương cuồng chân khả ai
世 人 皆 欲 殺 Thế nhân giai dục sát
吾 意 獨 憐 才 Ngô ý độc lân tài
敏 捷 詩 千 首 Mẫn tiệp thi thiên thủ
飄 零 酒 一 盃 Phiêu linh tửu nhất bôi
匡 山 讀 書 處 Khuông San độc thư xứ
頭 白 好 歸 來 Đầu bạch hảo qui lai
杜 甫 Đỗ Phủ
.
KHÔNG GẶP
Không gặp Lý Sinh đã lâu
Cuồng dài thật đáng thương
Người đời đều muốn giết
Riêng tôi có ý thương tiếc tài (của ông)
Thơ làm nhanh đến ngàn bài
(Lại) lưu lạc với một chén rượu
Khuông San là nơi độc sách
(nay) Đầu bạc tốt hơn hảy quay về.
*
Lý sinh không gặp đã lâu
Giả vờ hoang dại để sầu lòng ai
Người đời đều muốn giết hoài
Ý tôi riêng tiếc thương tài ông thôi
Nghìn bài thơ viết liên hồi
Nay một ly rượu bên trời phiêu linh
Khuông San nhà sách lặng thinh
Tốt hơn đầu bạc tự mình về thôi.
ĐOÀN THUẬN
.
^^ về đầu chương td << về trang chủ